Tác giả, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng xuất thân Khóa 20 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn I/Pḥng 3. Ngày 16 tháng 1 năm 1974, đương sự và G. Kosh, một nhân viên của Ṭa Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng có nhiệm vụ theo tàu Hải Quân VNCH ra đảo Hoàng Sa khảo sát, nghiên cứu kế hoạch thiết lập phi trường.
Ba hôm sau, quân Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa, bắt tất cả quân nhân VNCH kể cả nhân viên của Ṭa Lănh Sự Hoa Kỳ. Sau một tuần, Trung Cộng đă thả người Mỹ v́ lư do “nhân đạo”, và phải sau 29 ngày, các quân nhân VNCH mới được trả tự do.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Hồng K20 bị bọn cộng phỉ giam trong trại tù lao động khổ sai hơn 8 năm ở Quảng Nam. Thiếu Tá Phạm Văn Hồng K20 là một trong những nhân chứng vụ bọn cộng phỉ hèn hạ thảm sát Trung Tá Vơ Vàng K17 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Trân trọng.
Khi nhắc đến danh tánh cố Trung Tá Vơ Vàng, cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam (Khóa Lê Lai), có lẽ rất nhiều chiến hữu phục vụ tại Vùng I Chiến Thuật, nhất là các chiến hữu Biệt Động Quân và người dân thị xă Huế, hẳn không ai xa lạ ǵ với tên tuổi của anh.
Lư do dễ hiểu là v́ trong biến cố Mậu Thân 1968, với trách nhiệm tái chiếm các mục tiêu từ Vĩ Dạ, Dương Nổ, Băi Dâu và cuối cùng là Gia Hội, đơn vị anh đă đạt chiến thắng lẫy lừng và thanh toán mục tiêu trước giờ ấn định, đến nỗi người dân cố đô Huế đă hết sức cảm phục và thỉnh cầu vị Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật lưu giữ Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân mà anh là Tiểu Đoàn Trưởng ở lại thị xă để dân chúng được yên tâm sinh sống hầu tái thiết, an cư lạc nghiệp.
Ư dân là ư trời, tiểu đoàn cuả anh phải "trấn thủ lưu đồn" tại vùng sông Hương, núi Ngự suốt sáu tháng mới được “buông tha”, lên đường chiến đấu tại những chiến trường khác cũng đang rất cần sức chiến đấu cuả tiểu đoàn anh.Tên tuổi cuả anh đă bị bọn cộng phỉ bắc việt rất tức tối ghi vào sổ đen từ dạo ấy.
Sau này với chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 5 thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh, anh lại tạo một chiến thắng lẫy lừng khác tại vùng cực Nam tỉnh Quảng Ngăi, đó là mặt trận B́nh Đê, Sa Huỳnh: Trong cuộc thư hùng nẩy lửa này, Trung Đoàn 10 địa phương cộng phỉ thảm bại nhục nhă và gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Và đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết đầy oan khiên và đau đớn của anh sau này v́ bị bọn cộng phỉ bắc việt tiểu nhân hèn hạ trả thù.
Người viết bài tường thuật này có cơ duyên biết khá nhiều về Trung Tá Vơ Vàng, nhất là sau khi tên cộng phỉ bắc việt dă thú khát máu bắn anh Vàng 7 phát đạn từ sau ra trước, người viết lại là người đầu tiên khiêng thi thể của anh từ suối lên mặt đường và làm biên bản về cái chết đau thương này
....
Sau ngày 29 tháng 3 năm 1975, ngày thành phố Đà Nẵng bỏ ngỏ, bọn giặc cướp xâm lược bắc việt tiến vào thị xă, người dân xứ sông Hàn mới lần đầu tiên nghe được từ ngữ quái dị "Uỷ Ban Quân Quản”. Đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, những quân nhân không c̣n đơn vị, từ sáng sớm đă nghe một bản thông cáo của bọn Uỷ Ban Quân Quản thành phố lải nhải đọc đi đọc lại trên đài phát thanh Đà Nẵng đại khái nói rằng: "Tất cả các sĩ quan Ngụy, không chậm trễ, hăy tập họp về số 2 đường Đống Đa, Đà Nẳng để nghe nói chuyện về t́nh h́nh đất nước.".
Đây là cú lừa đầu tiên mà tất cả quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, vốn chân thật chưa hề bao giờ ngờ được sự trí trá, xảo quỵêt, thâm độc của bọn tiểu nhân lưu manh đê tiện cộng sản bắc việt, đă vấp phải. Bị thôi thúc bởi bản thông cáo, tất cả các sĩ quan lũ lượt kéo nhau đến địa điểm nói trên để t́m hiểu xem hiện t́nh đất nước biến chuyển như thế nào. Và thế là, tất cả những người chân thật ngay thẳng, đă tự động.... chui vào rọ! Có vào mà không có ra !
Cuộc đời tù "lao động khổ sai" của những quân nhân c̣n kẹt lại khắp các vùng xứ Quảng bắt đầu từ đây. Chúng tôi bị đưa lên trại Kỳ Sơn thuộc tỉnh Quảng Tín. Nơi đây chỉ là một vùng rừng núi hoang vu, cạnh một suối nước chảy quanh co dưới chân khu mỏ vàng Bồng Miêu. Bây giờ danh nghĩa của chúng tôi bị bọn chúng gọi là những người "tù cải tạo". Ngày ngày chúng tôi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm nhưng phải lên rừng chặt cây, cắt tranh, rồi chính ḿnh cùng nhau dựng lên những căn nhà để tự nhốt ḿnh.
Mới đầu, anh Vơ Vàng và chúng tôi ở cùng khối 2 thuộc trại 1 Kỳ Sơn nhưng khác nhà. Anh ở nhà 6 c̣n tôi ở nhà 9. Hai nhà này hầu hết là sĩ quan cấp tá, và thường đi lao động chung với nhau. Sau một thời gian ngắn, qua sự xào xáo "biên chế" lại, anh Vàng về ở cùng nhà với chúng tôi.
Thực sự th́ khi anh c̣n ở Biệt Động Quân, tôi đang ở Tiểu Đoàn 3/1 thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tôi chỉ nghe danh anh chứ chưa hề biết mặt. Măi cho đến sau này, khi anh rời binh chủng Biệt Động Quân về ngồi tạm tại Pḥng 3 Quân Đoàn I để chuẩn bị theo học khóa tham mưu tại Đà Lạt tôi mới hân hạnh được biết anh, v́ tôi đă về Pḥng 3/QĐI từ trước.
Sau khi tốt nghiệp khóa học, Bộ Tổng Tham Mưu/Tổng Cục Quân Huấn chỉ định Trung Tá Vơ Vàng K17 về phục vụ tại Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam do những chiến công mà anh đă đạt được cùng những kinh nghiệm chiến trường vô cùng quư báu mà anh đă thu thập qua những trận ác chiến với cộng quân. Những kinh nghiệm này cần được ǵn giữ, lưu truyền cho các đàn em của anh.
Trong thời gian phục vụ tại Trường Mẹ, Trung Tá Vơ Vàng K17 đă đảm nhận chức vụ trưởng khoa chiến thuật rồi trưởng khối huấn luyện quân sự. Với chức năng của một Niên Trưởng, Anh đă đem tâm huyết trao hết kinh nghiệm đầy máu và nước mắt cho đàn em của ḿnh đang c̣n miệt mài kinh sử dưới mái Trường Mẹ.
Đến tháng 3 năm 1972, t́nh h́nh chiến sự vô cùng sôi động, Trung Tá Vơ Vàng K17 muốn được trở lại chiến trường xưa, đơn vị cũ… để cùng đồng đội chia sẻ hiểm nguy, mặc dầu chị Vơ Vàng không vui! Anh đă đạt được ước nguyện của người trai Vơ Bị.
Đến bây giờ anh lại tái ngộ với tôi ở một nơi, trong một cảnh ngộ thật nghiệt ngă mà cả anh cũng như tôi, chẳng ai mong ước: Trại 1 “Cải Tạo” Kỳ Sơn.
Mỗi ngày anh cùng tôi rong ruổi trong công tác đốn củi, cắt tranh, làm rẫy, trồng sắn, cuốc ruộng, cấy lúa v.v.... Thôi th́ đủ thứ tạp dịch không tên, kể sao cho xiết.
Rồi ngày 11 tháng 4 năm 1976, ngày báo hiệu đại hoạ đă tới. Hôm đó là chủ nhật, anh Vơ Vàng có tên gọi trong danh sách thăm nuôi. Người thăm anh không ai khác hơn là chị Vơ Vàng.
Kịch bản đă được soạn thảo từ lâu, măi đến hôm nay mới là thời điểm cho bọn khát máu thực hiện. Chúng chuẩn bị tạo yếu tố tâm lư rất ác độc, nhưng hoàn toàn là bịa đặt, về con người anh Vơ Vàng, bằng cách là trong những lần sinh hoạt của toàn trại trên hội trường, tên Chính Uỷ Trung Đoàn đến nói chuyện với tù nhân đă ngược ngạo, láo khoét tuyên bố rằng:
- Tên Trung Tá Vơ Vàng là một tên mang rất nhiều tội ác với nhân dân và chiến sĩ cách mạng. Tên này độc ác đến nỗi mỗi khi sát hại một chiến sĩ cách mạng, hắn đều cắt tai rồi xâu thành chuỗi đeo ṭng teng trước ngực, đi nghênh ngang trong thành phố Đà Nẵng.
Thật rơ ràng là chỉ những tên cộng sản chuyên nghề lừa đảo dối trá mới tuyên bố được những lời gian trá trắng trợn và thô bỉ như thế. Thử hỏi vào thời điểm đó, thành phố Đà Nẵng có khoảng tám trăm ngàn dân, liệu có một người dân nào nh́n thấy anh Vơ Vàng đeo tai Việt cộng trước ngực, đi nghênh ngang trong thành phố?
Song song với sự chuẩn bị yếu tố tâm lư, bọn chúng đă tiên liệu thời gian anh Vàng sẽ có thăm nuôi, v́ qui chế của tổng trại Kỳ Sơn lúc đó là 3 tháng được thăm một lần. Một tên quân báo từ quân khu 5 đă xuống chờ sẵn tại trại 1. Đến ngày anh được thăm nuôi, chúng cử một cảnh vệ tên Bốn, là một tên có máu lạnh, hướng dẫn bốn năm người trong danh sách ra khu thăm nuôi gặp gia đ́nh.
Sau ít chục phút gặp người thân, tên Bốn ra lệnh cho mấy anh em chuẩn bị về trại. Anh Vàng cũng cùng với mấy anh em khác sẵn sàng trở lại trại, th́ tên quân báo nói trên đă chờ sẵn tại khu thăm nuôi, lấy uy quyền của một cấp lớn hơn cho phép ở lại với gia đ́nh thêm một thời gian. Tên Bốn lại hô tất cả mọi người tập họp đầy đủ để trở lại trại. Anh Vàng thi hành lệnh, tên quân báo này lại một lần nữa ra lệnh cho anh Vàng được ở lại.
Dĩ nhiên là lẽ thường t́nh được một cấp lớn hơn cho phép, lại thêm yếu tố t́nh cảm gia đ́nh th́ đương nhiên anh Vàng nghiêng về phía ở lại. Tên cảnh vệ đành tức tối dẫn toán được thăm nuôi trở về trại, trong đó không có anh Vơ Vàng. Đây là một yếu tố tâm lư vô cùng thâm độc, chúng cố t́nh kích động vào sự tự ái của tên Bốn hầu gây ḷng hận thù với tên vệ binh này, để chúng xử dụng tên này một cách đắc lực và hiệu quả trong chủ đích sát hại anh trong vài ngày sau.
Dường như linh tính được báo trước nên tuy được thăm nuôi và lại được hưởng thời lượng gấp đôi, gấp ba những anh em khác, nhưng khi về trại mặt anh lại lộ rơ vẻ không vui như lẽ thường t́nh. Và quả đúng, đến chiều anh bị gọi lên ban chỉ huy trại để nhận lệnh.
Xin được tản mạn ra ngoài đề, để mô tả căn nhà chúng tôi ở. Cũng giống như tất cả các nhà khác trong trại là có bốn sạp ở bốn góc, được ghép bằng những cây rừng do chính những người tù đi chặt về ghép lại với nhau thành bốn sạp để nằm. Bốn sạp bốn góc đă tạo thành chữ thập dùng làm lối đi ở giữa.
Tôi may mắn được nằm ngay trung tâm chữ thập, c̣n anh Vàng th́ ngược lại, xuyên tâm đối với tôi, nghĩa là anh nằm tuốt phía ngoài b́a. Mô tả như vậy để quí độc giả hiểu được rằng chỗ tôi nằm là đắc địa, v́ tại tâm của chữ thập có đào một cái hố để tối đến đốt lửa, hun khói để vừa đuổi muỗi, vừa sưởi ấm cho bớt lạnh. Củi đốt th́ khỏi lo, sống ở rừng, mỗi khi hết giờ lao động, mỗi người tù đều phải vác về một cây củi để dùng cho chính ḿnh vào buổi tối.
Chính v́ vị trí đắc địa này mà mỗi tối anh Vàng thường lân la đến chỗ tôi nằm để hút thuốc lào với anh Phạm Ngọc Bảo. Anh Bảo là người có quan hệ mật thiết với anh Vàng, v́ hai anh có nhà ở cạnh nhau trong vùng băi biển Thanh B́nh, Đà Nẵng. Hơn nữa, anh Bảo thuộc khóa 12 c̣n anh Vàng khóa 17 Vơ Bị.
Phần tôi là em út của cả hai anh v́ tôi thuộc khóa 20. V́ t́nh Vơ Bị này mà ba anh em chúng tôi rất thương yêu và tuyệt đối tin tưởng nhau. Yếu tố tin tưởng này rất quan trọng, v́ ở trong tù một sự kiện vô cùng ô nhục là t́nh trạng “ăng ten”, nên không ai dám hở miệng tâm sự với người khác. Ba anh em chúng tôi th́ không phải e ngại về yếu tố này.
Và rồi, như thường lệ, ngay buổi tối hôm thăm nuôi định mệnh này, anh đă kể hết một cách tường tận về chuyện được thăm nuôi thêm giờ, gây tức tối cho tên vệ binh và trại bắt anh phải làm kiểm điểm, v́ đă cưỡng lệnh cảnh vệ. Anh hỏi ư kiến tôi và anh Bảo xem nên viết kiểm điểm như thế nào. Tôi đă rất chân t́nh góp ư với anh là chỉ viết thật ngắn gọn rằng: “Khi tôi được anh cảnh vệ ra lệnh về lại trại, tôi đă nghiêm chỉnh thi hành và chuẩn bị trở về, th́ cán bộ của quân khu đă có nhă ư cố giữ tôi được ở lại với gia đ́nh thêm ít phút nữa. Tôi cam đoan đây là lời khai sự thật của tôi v. v...”
Sáng thứ Hai, ngày 12 tháng 4 năm 1976, anh viết xong bản kiểm điểm ngắn gọn như tôi đă góp ư và nộp cho ban giám đốc trại, rồi trở về tiếp tục đi lao động cùng chúng tôi.
Buổi tối, anh lại đến chỗ tôi nằm và hút thuốc cùng anh Bảo, nhưng tâm trạng của anh vô cùng bồn chồn và lo lắng. Dường như tử thần đă báo trước cho anh thời điểm chấm dứt cuộc sống sắp tới. Tôi và anh Bảo trấn an anh cách nào cũng không làm anh giảm được sự bồn chồn lo lắng ấy.
Ngày Định Mệnh
Hôm nay là thứ Ba, ngày 13 tháng 4 năm 1976, như thường lệ, nhà chúng tôi được phân công đi phát rẫy trên đồng C̣ Bay, lối đi lên vùng mỏ vàng Bồng Miêu và do chính tên Bốn dẫn đi. Khi vài anh có nhiệm vụ trực trong nhà, ra nhà kho để nhận dụng cụ phát rẫy gồm dao tông và rựa về, anh Vàng đă nhận một con dao tông giống như tôi. Và dường như muốn đè nén nỗi lo âu, anh luôn luôn đi cạnh tôi và tṛ chuyện cho khuây khoả...
Đến khi vào khu vực phát rẫy, những người cầm rựa th́ đốn những cây tương đối nhỏ, c̣n những người cầm dao tông như anh và tôi th́ phải hạ những cây có đường kính lớn hơn. Gặp những cây quá lớn cành lá xum xuê th́ hai anh em chúng tôi cùng đốn một cây.
Bỗng nhiên, khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi đă tiến lên cao được khoảng mươi thước cách đường ṃn, th́ từ phía dưới đường, tên Bốn nói với lên trên:
- Anh trưởng toán đâu, cho tôi mười người cầm dao tông đi theo tôi lên phía kia đốn những cây lớn hơn.
Lúc đó anh nhà trưởng đi kiếm những người cầm dao tông. Anh Vàng nói với tôi:
- Ê mày, thôi tụi ḿnh xuống đi, nó đang kiếm người cầm dao tông ḱa.
- Kệ cha nó, ḿnh cứ lơ đi, coi như không nghe thấy. Tôi trả lời.
Chỉ một lát sau đó, tên Bốn đứng ngay sau lưng chúng tôi dưới đường ṃn, vừa nói vừa chỉ thẳng vào anh Vàng:
- Anh kia! (Làm như tên này không biết tên anh Vàng) Xuống đây đi đốn chỗ khác.
Thế là anh Vàng rời tôi đi xuống, trong khi tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ mà tên này không gọi tôi. Đấy là giây phút cuối cùng, sau đó tôi vĩnh viễn không bao giờ c̣n đứng cạnh anh nữa.
Anh mới rời tôi khoảng vài chục phút th́ một loạt đạn chát chúa vang lên. Tôi chẳng hiểu chuyện ǵ xảy ra nhưng vẫn nhủ trong ḷng chắc có chuyện chẳng lành....
Măi cho đến giờ nghỉ trưa, tôi tụt xuống đường ṃn để chuẩn bị ăn trưa th́ gặp ngay anh Lê Văn Lộc, Thiếu Tá Cảnh Sát, nguyên Trưởng Khối CTCT, Ty Cảnh Sát Thừa Thiên – Huế, hôm nay làm nhiệm vụ anh nuôi, nấu nước cho anh em uống. Thấy tôi, mặt anh chảy dài, mắt đỏ ngầu, ứa nưóc mắt và nói ngay với tôi rằng:
- Anh Vàng chết rồi!
Tôi hết sức bàng hoàng, tay chân bủn rủn. Lần lần tôi mới vỡ lẽ. Số là, sau khi tên Bốn tách mười người đi đốn cây ở chỗ khác, y đă dẫn toán này đi xa nơi cũ, chỉ chừng vài ba chục mét về hướng đồng C̣ Bay, gần cây cầu lủng, điạ danh "cây cầu lủng" anh em trại 1 Kỳ Sơn ai cũng biết, tên Bốn chỉ cho mọi người lên đó mà đốn. Khu vực này cây cối cũng có lớn, nhỏ, có hơn chỗ cũ ǵ đâu, mục đích chính chỉ là y muốn tách rời mười người này ra xa khỏi toàn khối 2 của chúng tôi.
Sau đó, tên Bốn lại lấy hai người trong số mười người dao tông này, để đi đốn đót về làm chổi cho trại! Màn tŕnh diễn này quá tồi. Nếu đốn đót th́ phải gọi những người cầm rựa mới đúng v́ dễ khoèo, dễ phứt, chứ sao lại lấy người cầm dao tông?
Hai người mà tên Bốn chỉ định là anh Vơ Vàng và anh Nguyễn Văn Bá, Trung Tá Thủ Khoa khóa 13 Vơ Bị....
Rơ ràng quá! Ư đồ của tên Bốn là lấy anh Vàng ra khỏi đám đông để dễ dàng động thủ, che dấu dă tâm đầy thú tính đê tiện của ḿnh. Khi hai anh vừa rời toán được mấy chục thước, th́ tên Bốn chỉ tay nói anh Vàng xuống suối mà t́m đót c̣n anh Bá th́ đi thẳng qua bên kia cầu lủng, chứ hai người cùng đi với nhau th́ đót đâu cho cả hai người cùng đốn!
Anh Vàng vừa xuống hướng suối không đầy mười thước, th́ một tràng đạn AK nổ ḍn. Mấy chục con người mang thân tù tội đang cặm cụi đốn cây, đều ngừng tay. Linh tính cho biết là chắc chắn có chuyện ǵ bất thường.
Phần tôi, tôi biết được chi tiết vừa tŕnh bày là do anh Bá kể lại. Và rồi, tiến xa hơn một chút, tôi càng được tường tận hơn khi tên Bốn cất tiếng hỏi:
- Ai là nhà phó trong toán này?
Anh em chỉ vào tôi, trong tù ai cũng biết nhà phó là người chịu trách nhiệm về "cơm, áo, gạo, tiền."
Tên ác thú Bốn đă nh́n tôi và chỉ xuống hướng suối để khiêng xác anh Vàng lên. Tôi và anh Trần Hữu Cảnh, Thiếu Tá Pḥng 2 Quân Đoàn I, cùng đi xuống suối. Vừa rẽ khỏi đường ṃn chừng mươi thước, th́ chứng kiến cảnh đau ḷng đến xé ruột diễn ra trước mắt ḿnh. Anh Vàng nằm úp mặt xuống ḍng suối cạn. Từ thắt lưng lên đầu th́ ướt, phần c̣n lại từ lưng xuống chân th́ vẫn khô. Anh nằm chết úp mặt dưới suối.
Hai anh em, tôi và Cảnh lật xác anh lên, chúng tôi muốn oà khóc v́ thấy những phát đạn quá tàn bạo. Tôi đếm được tất cả bẩy vết đạn đều bắn từ sau ra trước, mà trong đó h́nh ảnh của hai phát đạn xuyên ra phía trước thân thể anh, đă ám ảnh, đă hằn sâu, trong tâm trí tôi cho đến suốt đời, v́ hai phát này đă kết liễu đời anh, một phát từ sau lưng bắn toác ra phía trước ngực, hơi chếch về trái, có nghĩa là anh đă bị vận tốc xoáy của viên đạn phá tan tim và lồng ngực, phát thứ hai từ hàm phải xuyên qua cửa miệng trái, vỡ hết hàm răng khiến cho miệng anh không c̣n khép lại được nữa. Năm phát c̣n lại th́ rải rác ở cánh tay, mông và ống chân...
Khiêng thi thể của anh lên mặt đường, đặt gần nơi anh Lộc làm anh nuôi, lúc này tôi mới lục trong túi của anh lấy ví, mở ra, thấy trong đó có tấm h́nh vợ con và số tiền 200 đồng. Một nhẫn vàng khoảng hai chỉ trên ngón tay và cổ tay c̣n đeo chiếc đồng hồ Longines. Xin mở ngoặc là thời điểm này do bên quân đội quản lư, nên các tù nhân vẫn c̣n được giữ các tư trang. Chỉ sau này, khi bọn ḅ vàng (công an) quản lư th́ tư trang và tiền bạc mới bị kư gửi.
Khi làm biên bản, một sự lưu manh, điếm đàng, xảo trá chuyên nghiệp của bọn cộng phỉ bắc việt lại được thể hiện: cụ thể là chiếc nhẫn vàng th́ chúng buộc tôi phải viết lại là chiếc nhẫn màu vàng và không ghi rơ trọng lượng (để bọn chúng dễ ăn cướp nhẫn thật và tráo nhẫn giả như các vụ đổi tiền trong Miền Nam sau năm 1975) !
Sau này khi sang Hoa Kỳ, duyên may tôi được gặp chị Vơ Vàng, tôi mới vỡ lẽ là bọn chúng“trả lại” cho chị chiếc đồng hồ hiệu Seiko. Quá lạ! Đồng hồ Longines đă bị “cải tạo” thành Seiko. Ai cũng thừa biết bọn giặc cướp bắc việt mọi rợ vô giáo dục, bẩn thỉu và thô bỉ này đă làm ǵ với chiếc đồng hồ Longines kia !
Sau khi làm biên bản, thi hài anh Vàng vẫn được để nằm tại chỗ cho đến khi ăn cơm trưa xong, một số anh em mới được phân công khiêng thi hài của anh về trại. Những anh này gồm anh Nguyễn Văn Tố, Trung Tá nguyên Tỉnh Trưởng Phú Yên, anh Nguyễn Văn Chước, Trung Tá, nguyên gốc Biệt Động Quân cùng thời với anh Vàng, anh Đ H X, Thiếu Tá thuộc Thiết Đoàn M48, Quảng Trị, và anh Trần Hữu Cảnh, Thiếu Tá P 2/QĐI.
Một chuyện lạ rất huyền bí không chứng minh được do chính anh Trần Hữu Cảnh kể lại cho tôi nghe, đó là khi về đến gần cổng trại, phía bên tay phải là một căn nhà nhỏ chúng tôi thường gọi là chuồng cu, dùng để nhốt những anh bị kỷ luật, cảnh vệ đă chỉ cho toán khiêng xác anh Vàng vào trong đó, th́ bỗng nhiên xác anh nặng trĩu hai người khiêng bị tŕ hẳn xuống, không cách ǵ khiêng nổi.
Anh Cảnh chợt nghĩ ra rằng đây là nhà kỷ luật chắc anh Vàng nhất định không chịu vào. Anh Cảnh bèn khấn vái với anh Vàng rằng:
- Xin anh hăy thông cảm cho chúng tôi được khiêng anh vào, v́ đây là lệnh của trại bắt tụi tôi phải đưa anh vô, chứ không phải tụi tôi muốn như vậy.
Sau nhiều lời khấn vái th́ xác anh bỗng nhẹ hẳn đi để anh em có thể khiêng vô.
Chưa hết, sau này tôi lại được một vài anh em ở ngoài Tổng trại kể lại rằng tên Bốn sau này dường như bị điên điên, khùng khùng, suốt ngày cứ lảm nhảm vừa đi vừa nói:
- Tôi đâu có muốn giết anh! Tôi đâu có muốn giết anh!
Việc này tôi chỉ nghe kể lại chứ không được chứng kiến nên không hiểu thực hư ra sao, xin chỉ viết lại với sự dè dặt tối đa
Về việc mai táng cho anh th́ đến xế chiều, khi đào huyệt chôn anh lại gặp nhiều rắc rối. Những người đào huyệt đang đào nửa chừng th́ người trưởng trại tên Nhất đi họp ngoài Tổng trại về, trông thấy bèn cho biết là chôn ở đây không được, v́ vị trí này, sau này người ta sẽ phóng đường để cho xe cộ có thể chạy được lên mỏ vàng Bồng Miêu. Mọi người phải dừng tay, lấp hố, đi đào huyệt khác.
Đến vị trí thứ hai mới đào sâu được vài chục phân, th́ gặp phải đá tảng, không cách ǵ đào nổi, nên lại phải đi kiếm chỗ khác. Huyệt thứ ba ở khá cao trên triền núi. Lúc này đă xẩm tối toán chôn cất mới hoàn tất việc mai táng cho anh.
Kiểm chứng lại việc chúng muốn phục thù, cướp mạng sống của anh, mới thấy rơ là bọn cộng phỉ bắc việt hèn hạ đă chuẩn bị một kế hoạch trả thù rất thâm độc và tỉ mỉ. Từ việc cử một tên cán bộ quân báo của Quân Khu 5 xuống chờ sẵn, đợi dịp anh Vàng được thăm nuôi, chọn một tên vệ binh cộng phỉ ác ôn, có máu lạnh dẫn anh đi, gây cho hắn ḷng căm phẫn với anh Vàng.
Sau ngày Chúa Nhật được thăm nuôi, ngày thứ hai bắt nộp bản kiểm điểm, rồi đánh giá là lời khai tránh trớ, quanh co, ngoan cố không nhận lỗi, ngày thứ ba cho đi lao động, cố ư cắt cử tên vệ binh Bốn hướng dẫn đi phát rẫy, rồi xuống tay hạ thủ và kết quả đă đúng như dự tính.
Thế nhưng nói như thế không có nghĩa là bọn chúng không để lộ ra những màn diễn xuất quá vụng về, tồi tệ. Ngay sau khi bắn anh Vàng, tên Bốn đă xuống suối nhúng nước cho quần ướt đến đầu gối rồi thất thểu vác súng về trại, biết bao nhiêu cặp mắt anh em tù chúng tôi thấy khẩu súng của y c̣n nguyên vẹn, nhưng đến xế trưa, khi bọn cán bộ từ trung đoàn đến hiện trường làm biên bản th́ báng súng lại có vết chém!
Biên bản ghi rằng tên Vàng phản động, tính chém vệ binh để cướp súng khiến vệ binh buộc ḷng phải bắn để tự vệ, nhưng lố bịch thay vết đạn bắn lại toàn từ phía sau ra phía trước! Về điểm này xin được nói thêm là nhà 9 chúng tôi, tối tối thường có một y tá người Bắc, thường lân la xuống tṛ chuyện và hút thuốc lào với anh em chúng tôi. Ngay buổi tối hôm đó, như thường lệ, anh y tá này lại xuống, vừa bước vào nhà anh đă buột miệng nói ngay:
- Đ.m. chúng nó, chúng nó đang tâm bắn một người vô tội, vết đạn rơ ràng bắn từ sau ra trước mà bảo người ta là phản động, cướp súng của vệ binh! Ngày mai ghi vào biên bản xác minh, bố mày sẽ ghi rơ ràng là vết đạn bắn từ sau ra trước.
Và tiếc thay, chỉ vài ngày sau khi mộc mạc thốt ra những lời chân thật kể trên, người y tá c̣n chút nhân tính này không thấy xuất hiện tại nhà 9 chúng tôi nữa.
Cướp đi mạng sống của anh Vàng, chúng vẫn chưa thỏa măn được ḷng hận thù tiểu nhân đê tiện của bọn chúng. Chị Vàng sống tại Đà Nẵng cũng không được yên thân. Sau này khi được gặp chị, tôi mới được biết, chị bị bọn chúng cắt hết nguồn sống của mẹ con bằng cách không cho chị được tiếp tục dạy học tại trường trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng nữa. Đồng thời, bọn chúng c̣n hèn hạ cô lập gia đ́nh chị bằng cách phao tin Vơ Vàng là một tên phản động khát máu, mặc dầu được đưa vào trại cải tạo để giúp hắn trở nên người lương thiện nhưng vẫn giữ bản chất cũ, đă cố t́nh cầm dao chém cảnh vệ để cướp súng, nên đă bị đền tội.
Thế là tất cả bà con cḥm xóm, ngay cả người thân trong gia đ́nh cũng phải xa lánh mẹ con chị, v́ sợ bị liên lụy, ấy là chưa kể nhiều người quá ngây thơ khờ dại, tin lời bịa đặt, đă chê trách anh Vàng quá dại dột, dùng dao mà đọ sức với súng đạn th́ làm sao mà thắng nổi! Anh hùng rơm!
Măi sau này, trong một dịp nhà báo Huy Phương phụ trách chương tŕnh “Huynh Đệ Chi Binh” của đài SBTN có nhă ư t́m gặp tôi và muốn được tôi kể lại chuyện Trung Tá Vơ Vàng bị thảm sát trong tù, tôi mới có dịp tường thuật khá đầy đủ cùng khán thính giả của đài. Chị Vàng đă xem được cuộc phỏng vấn này và chị đă phần nào được an ủi:
- Xem như anh Vàng đă được rửa mặt. (Rửa mặt ở đây có nghĩa là rửa nhục, lấy lại danh dự).
Chỉ tiếc một điều là sao lại có một số người quá nhẹ dạ cả tin, nhất là tin lời tuyên truyền của bọn mọi rợ cộng phỉ bắc việt. Có lẽ họ chưa được nghe lời chỉ giáo của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Mặt khác, mới thời gian ngắn trước đây tôi lại được dịp đọc một bài viết của anh Đ.H.X, cũng viết về cái chết của anh Vàng. Với anh Đ.H.X, tôi cũng biết khá nhiều về anh ngay từ khi mới nhập trại.
Kẹt một nỗi là nay anh vẫn c̣n ở Việt Nam, bởi một lư do tôi không tiện nói ra v́ sẽ rất có hại cho anh trong cảnh ngộ quá ngặt nghèo này. Đọc bài viết của anh, tôi vô cùng cảm phục cái tâm của anh, v́ sau khi chứng kiến cái chết của anh Vàng, phải khiêng anh về trại, mai táng cho anh, anh đă nguyện trong tâm rằng sẽ kể lại đầy đủ cái chết đau thương này, th́ anh mới yên ḷng trước khi nhắm mắt. Chỉ tiếc là hoàn cảnh của anh vẫn c̣n trong t́nh trạng cá chậu chim lồng, nên chưa nói hết được những ǵ anh muốn nói.
Vả lại, anh mới chỉ viết được phần anh chứng kiến kể từ đoạn thi hài anh Vàng được khiêng về trại và anh bị buộc phải làm biên bản sai sự thực, trái hẳn với những ǵ anh được chứng kiến rồi tiếp theo phải kư vào biên bản trước họng súng.
Tựu trung lại cái chết của anh Vơ Vàng tính đến nay đă trôi qua hơn bốn thập niên, nhưng h́nh ảnh quá đau thương tàn bạo, đối với người được chứng kiến tận mắt như chúng tôi lúc nào cũng vẫn c̣n hiện rơ mồn một…!
Nếu được đọc lịch sử về cuộc nội chiến Nam-Bắc của Hoa Kỳ, sự ứng xử của đoàn Bắc Quân chiến thắng với đội Nam Quân chiến bại hết sức mă thượng, danh dự của kẻ chiến bại vẫn được tôn trọng, hoặc gần hơn nữa, sự kiện bức tường Bá Linh sụp đổ, người Tây Đức cũng tiếp đón người Đông Đức vô cùng quân tử, không một chút hận thù, mà có ai đó mơ mộng rằng nhà nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đối xử nhân đạo, tử tế với Việt Nam Cộng Hoà th́ quả là người đó đă mắc bệnh… hoang tưởng!
Mặt khác, cuộc “Cải Cách Ruộng Đất” c̣n đó, vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” c̣n đó, và mới đây nhất làn sóng đỏ tràn ngập miền Nam c̣n đó, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các trại tù khổ sai, nhục h́nh mang danh "cải tạo" mọc lên như nấm gặp mưa, cách đối xử với người tù VNCH vô cùng hèn hạ, dă man, ác độc, thâm hiểm mà vụ sát hại anh Vơ Vàng chỉ là một điển h́nh, thế mà lũ cộng phỉ bắc việt mọi rợ vô nhân tính Xạo - Hết - Chỗ - Nói vẫn lải nhải kêu gọi xóa bỏ hận thù, ḥa hợp ḥa giải dân tộc th́ quả là chúng đang bị chứng...mộng du và hoang tưởng !!!
Định Quán là một trong 4 quận của tỉnh Long Khánh, nằm trải dài dọc theo QL 20, đường đi Đà Lạt. Dân chúng chuyên sống về nghề làm rẩy và làm rừng. Vào những ngày cuối trung tuần tháng 3 năm 1975, nơi đây đă xảy ra một trận chiến khốc liệt và hai bên tham chiến đều bị thiệt hại nặng nề.
Sau ba ngày giao tranh đẫm máu: 18, 19, và 20, Quận Định Quán đă lọt vào tay bọn cộng phỉ bắc việt xâm lược, mở đầu cho những trận huyết chiến về sau tại Ngă Ba Dầu Giây, và trận chiến quyết định Xuân Lộc. (Bảo Định)
Núi rừng Định Quán sau một ngày mịt mờ khói súng, giờ đây im lặng đến rợn người. Thời gian như ngừng lại, không gian bao phủ một màu tang tóc thê lương. Dưới ánh sáng nhợt nhạt và lạnh lẽo của vầng trăng khuyết, núi rừng sau trận chiến lại càng thê lương, tang tóc hơn.
Chỉ mớí vài giờ trước đây, dăi đất trải dài hai bên QL 20 của quận Định Quán, từ Phương Lâm đến cầu Sông La Ngà, ch́m ngập trong biển lửa. Bọn cộng phỉ xâm lược với đủ loại pháo tầm xa, tầm gần; quân bạn trả đũa bằng các loại pháo 105 ly, 155 ly, 175 ly và các loại bom hạng nặng từ các chiến đấu cơ phản lực, bán phản lực F-5E, A-37 đă làm rung chuyển đất trời vùng đất hiền ḥa của người dân quanh năm sống nghề ruộng rẫy.
Cuộc chiến đấu cho sống c̣n đă xảy ra thật ác liệt, kéo dài từ sáng tinh mơ đến chiều tối; bom đạn thay nhau trút lên thị trấn nhỏ bé xa xôi này.
Ngày 5 tháng 3 năm 1975, quân đoàn 4 cộng phỉ bắc việt dưới quyền chỉ huy của tên tướng Hoàng Cầm đă cho lệnh sư đoàn 7 khai thông QL 20 từ Túc Trưng đến Định Quán, và bằng mọi giá phải chiếm lĩnh cho được Định Quán để ngăn chặn lực lượng của Chính Phủ VNCH rút về từ Đà Lạt, Lâm Đồng. Một khi chiếm được Định Quán, th́ tiến về phiá Nam chiếm cầu Sông La Ngà, cắt đứt QL 20, cô lập Đà Lạt, Lâm Đồng với Sài G̣n.
Cha xứ coi họ đạo cầu Sông La Ngà khi đến thăm tôi lúc Tiểu Đoàn rút khỏi Định Quán vừa về đến, nói:
“Ngày hôm qua khi thấy Tiểu Đoàn con di chuyển lên Định Quán là Cha cảm thấy không xong rồi. Vài ngày trước đây, bọn cộng sản đưa Cha vào rừng để coi chúng phô trương lực lượng. Cha thấy chúng có cả xe tăng, xe bọc thép, súng pḥng không 37 ly, đại bác tầm xa, tầm gần đủ loại. Chúng đang chuẩn bị tấn công ḿnh.
Lực lượng Chi Khu Định Quán cùng với Tiểu Đoàn con làm sao có thể đương đầu với một lực lượng áp đảo về quân số và vũ khí. Cũng giống như trứng chọi với đá.” (Cha tự giới thiệu là cựu Trung Úy tham dự trận Điện Biên Phủ năm 1954 tại Bắc Việt.)
Sáng sớm ngày 18 tháng 3 năm 1975, quân cộng phỉ bắc việt xâm lược với chiến thuật cố hữu: “tiền pháo, hậu xung”, đă mở màn trận đánh bằng những loạt mưa pháo vào BCH/Chi Khu, Đại Đội 377 ĐPQ, và các cứ điểm quân sự khác chung quoanh quận.
Sau đó, trung đoàn 141 được tăng cường xe tăng, đă rầm rộ tiến đánh Dinh Quận Trưởng và BCH/Chi Khu. Mặc dù quân trú pḥng đă kháng cự dũng mănh, với sự tiếp tay đắc lực của Trung Đội Biệt Kích thiện chiến của Tiểu Đoàn 2/43, nhưng cuối cùng, lúc gần trưa, do lực lượng cộng phỉ quá đông, quận đường và BCH/Chi Khu đă thất thủ. Trung đội Biệt Kích đă rút về đến Tiểu Đoàn, mang theo được cả những đồng đội bị thương vong, bảo toàn được lực lượng.
Trước đó, Đại Đội 377 ĐPQ trấn đóng trên điểm cao cũng đă bị tràn ngập. Và những đồn bót lẻ tẻ đều bị bọn cộng phỉ tấn công từ những giờ phút đầu tiên của trận chiến. Quận Định Quán đă lọt vào tay giặc. Kế hoạch cắt đứt QL 20 của bọn cộng quân sắp thành công. Nhưng Tiểu Đoàn 2/43, SĐ 18 BB là một bất ngờ đối với chúng, ngoài dự liệu của kế hoạch.
Ngày N-1, từ hậu cứ Tiểu Đoàn tại Núi Thị, Xuân Lộc, Long Khánh, Tiểu Đoàn được tăng phái một Trung Đội Pháo Binh 105 ly và toán Công Binh Chiến Đấu, di chuyển đến Định Quán với nhiệm vụ mở những cuộc hành quân tiểu trừ cộng phỉ, và giữ ǵn an ninh quận.
Tiểu Đoàn vào vị trí, hoàn tất lúc hơn 5 giờ chiều Đại Đội 1 của Trung Úy Nguyễn văn Hào được phối trí hoạt động khu rừng hướng Đông, Đại Đội 4 của Trung Úy Hà Văn Dương khu vực hướng Bắc, Đại Đội 3 của Trung Úy Nguyễn Văn Hùng khu vực hướng Tây, BCH/TĐ và Trung Đội Pháo Binh đóng quân trên một ngọn đồi phía Tây Bắc quận, gần sát bên căn cứ pháo binh diện địa, được bảo vệ bởi Đại Đội Chi Huy (-Trung Đội Biệt Kích), và Đại Đội 2.
Trước khi trời tối, tôi và Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Phạm Đ́nh Huệ, Khóa 23 B Trường Vơ Bị Đà Lạt, đến quận viếng xă giao Thiếu Tá Quận Trưởng, đồng thời thông báo những hoạt động của Tiểu Đoàn. Cũng vừa lúc Đại Tá Hoàng Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3 Quân Đoàn đến thăm bằng trực thăng. Chúng tôi cùng đi gặp Đại Tá Thọ.
Buổi tối trôi qua thật yên tĩnh. Đêm đó có gánh hát cải lương vừa từ Đà Lạt về lưu diễn. Không khí có vẻ thanh b́nh! Nhưng các đại đội hoạt động bên ngoài đă ghi nhận được sự xuất hiện khác thường của bọn cộng phỉ bắc việt. Toán tiền đồn phục kích của Đại Đội 4 chạm sung với bọn cộng phỉ, tiêu diệt gọn đơn vị tiền sát của địch.
Tất cả những tên cộng phỉ bị tiêu diệt đều mặc quân phục chính qui bắc việt, có đeo phù hiệu cấp bực. Đại Đội 1 cũng báo cáo tiêu diệt được một tiểu đội cộng phỉ, mà tên chỉ huy có lẽ là một cán bộ cao cấp, tịch thu được một súng ngắn, nhưng khi dương ra th́ trở thành cây tiểu liên. Đây là loại vũ khí mới, lần đầu tiên chúng tôi bắt được trên chiến trường.
V́ là một bất ngờ ngoài dự liệu của kế hoạch, nên những giờ phút đầu tiên của trận chiến, bọn cộng quân đă không có một hoạt động đáng kể nào đối với Tiểu Đoàn, ngoài những đợt pháo kích. Tôi đă kịp kéo Đại Đội 3 về pḥng thủ chung với Tiểu Đoàn. Và hai khẩu pháo 105 ly đă có cơ hội yểm trợ đắc lực cho quân bạn. Nhưng khi các lực lượng Chi Khu bị tấn công, Quận Đường bị chiếm, Tiểu Đoàn 2/43 là mục tiêu cuối cùng mà địch phải thanh toán.
Vào lúc quá giữa trưa, địch từ hai hướng Đông Bắc và Đông Nam, theo triền dốc tấn công vào Tiểu Đoàn. Khu vực này do Đại Đội Chỉ Huy đảm trách, cũng là nơi đặt hai khẩu pháo. Nhưng mỗi đợt tấn công đều bị đẩy lui. Bọn cộng phỉ như những con thiêu thân đă uống thuốc kích thích, lớp trước ngă gục, lớp sau lại tiến lên. Lực lượng trú pḥng đă đốn ngă rất nhiều tên cộng phỉ. Có lúc chúng tiến sát tuyến pḥng thủ, mặt đối mặt, nhưng vẫn không chọc thủng được tuyến để tràn ngập vị trí.
Lối 2 giờ chiều, tôi mất liên lạc vô tuyến với căn cứ pháo binh diện địa, một căn cứ nằm sát cạnh Tiểu Đoàn. Có lẽ căn cứ đă bị địch chiếm giữ, hoặc cũng có thể bị bỏ ngỏ Giờ đây chỉ c̣n lại Tiểu Đoàn 2/43 đơn độc đương đầu với bầy quỷ dữ xâm lược.
Vị trí của Tiểu Đoàn liên tục bị tấn công. Bọn cộng phỉ vốn xem rẻ sinh mạng của con người, chúng lại thuộc nằm ḷng câu phương châm: “cứu cánh biện minh phương tiện”, nên luôn luôn chúng dùng chiến thuật biển người trong tất cả các cuộc tấn công.
Đây là chiến thuật mà đàn anh vĩ đại của chúng là Trung Cộng đă áp dụng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, và chính chúng đă thực hành tại mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954 để thắng Pháp.
Để sống c̣n, có lúc tôi đă yêu cầu máy bay đánh bom ngay trên đầu. Thật ra th́ tôi chưa thất vọng đến nỗi phải cho đánh bom lên đầu ḿnh để tự sát, nhưng tôi nghĩ rằng với những chiến đấu cơ phản lực hay bán phản lực F-5E, A-37, bay ở một độ cao để tránh pḥng không 37 ly dày đặc của địch, th́ lời yêu cầu đánh lên đầu tôi, nhưng bay từ Tây sang Đông, th́ những trái bom chỉ có thể rơi ngay sườn Đông, nơi tập trung quân đông đảo của địch. Nhưng người bạn chiến đấu không quân, quan sát viên bay trên chiếc L19 bao vùng đă vội an ủi:
“Thẩm quyền đừng tuyệt vọng, để tôi cố điều chỉnh chính xác cho Thẩm quyền.”
Và những trái bom tới tấp rơi trên đầu địch đă phá tan đội h́nh tấn công của chúng. Nhưng trong chiến đấu ta phải chấp nhận tổn thất! Hai trái bom sau cùng đă rơi ngay tuyến pḥng thủ. Địch chết, ta cũng tổn thất. V́ ta với địch đang ở thế mặt đối mặt.
Một đoạn pḥng tuyến bị vỡ, nhưng địch cũng đang “tang gia bối rối”, chúng chưa có thể mở đợt tấn công ngay. Và Tiểu đoàn có đủ th́ giờ để điều binh nối lại pḥng tuyến. Tôi giao cho Huệ, Tiểu Đoàn Phó, điều binh pḥng thủ.
Trong lúc đó tôi vẫn liên lạc tốt với máy bay bao vùng và điều chỉnh những đợt đánh bom kế tiếp. Nhưng không lâu sau đó, bọn cộng phỉ lại mở đợt tấn công. Lực lượng pḥng thủ đă phải chống trả quyết liệt và rất gay go mới giữ vững được pḥng tuyến.
Tôi thấy t́nh h́nh càng lúc càng nguy ngập. Tiểu Đoàn đă phải chiến đấu liên tục với địch có quân số áp đảo, đă chịu một số tổn thất, cấp số đạn dược mang theo cũng gần cạn, tinh thần căng thẳng, thể xác mệt mỏi, … T́nh trạng không thể kéo dài lâu hơn được nữa. Tôi cho mời vị Trung Đội Trưởng Pháo Binh tăng phái:
- Anh có bao nhiêu trái đạn chống biển người?
- Hai trái, thưa Thiếu Tá !
- Vậy hăy sử dụng khi thấy địch dùng chiến thuật biển người. Nhớ là phải bắn chính xác vào đội h́nh tấn công của chúng.
- Nhận hiểu, Thiếu Tá!
Rồi tôi gọi thẳng Sư Đoàn, xin gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh, báo cáo t́nh trạng của Tiểu Đoàn và t́nh h́nh địch, đồng thời xin lệnh rút ra khỏi trận địa. Tướng Tư Lệnh chấp thuận, cũng là lúc địch mở đợt tấn công dữ dội. Nhưng chúng đă bị chận lại tức khắc bởi hai trái đạn chống biển người.
Theo tôi được biết, mỗi trái đạn chứa lối 3 ngàn mũi tên. Hàng ngàn mũi tên đă lao vút đâm thẳng vào quân thù. Lớp trước gục ngă như rạ, lớp sau nao núng, chùn chân, và t́m cách tháo lui. Trận địa trở lại yên tĩnh.
Lợi dụng lúc địch c̣n đang hoang mang hoảng sợ, chưa kịp thời chỉnh đốn đội ngũ, tôi cho lệnh Tiểu Đoàn rời vị trí, di chuyển về hướng tây. Và hai Đại Đội 1 và 4 nằm bên ngoài cũng đi về điểm hẹn.
Đó là một cụm đồi không cao lắm ở hướng tây, cách thị trấn lối vài cây số. Tôi dự định về đây nghỉ ngơi một lúc, rồi đến nửa đêm, sẽ rút xuống cầu Sông La Ngà, nơi có một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân đang trấn giữ.
Trời lúc đó sắp tối. Tiểu Đoàn đang ở trong ṿng vây địch. Địa thế là vùng núi non trùng điệp. Tiểu đoàn lại phải mang theo lối 80 thương vong đồng đội của ḿnh. Đây là một việc làm không phải dễ dàng ǵ. Nhưng nhờ những trái bom đánh gần, hay là bom lạc cũng thế, nhất là hai trái đạn pháo chống biển người, địch quân đang hoảng sợ, đang trong cảnh “tang gia bối rối”, Tiểu Đoàn đă rút ra khỏi trận địa một cách b́nh yên. Nhưng chúng vẫn theo đuôi, bám sát Tiểu Đoàn. Cuối cùng, chúng tôi đă đến được điểm hẹn.
Đêm hôm đó, một đêm sao đầy trời. Mảnh trăng khuyết chênh chếch trời tây, tỏa chiếu xuống trần gian một thứ ánh sáng nhợt nhạt, thê lương và lạnh lẽo. Gió núi từng cơn rạt rào qua kẽ lá:
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi.
Chinh phu, tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”.
Tôi và Huệ ngồi bên nhau, trên miệng của một cái hố đào vội, tạm dùng làm hầm chỉ huy. Lối 9 giờ, Tướng Tư Lệnh gọi tôi và cho biết là chiều hôm nay đài BBC loan tin quận Định Quán đă thất thủ, nhưng Phát Ngôn Viên Chính Phủ cải chính là quận Định Quán vẫn c̣n – v́ Tiểu Đoàn 2/43 c̣n (ngày hôm trước khi Tiểu Đoàn di chuyển đến Định Quán, tôi được lệnh chỉ huy tổng quát toàn lực lượng tại Định Quán, gồm Tiểu Đoàn tôi và lực lượng Chi Khu).
Đó là lư do người phát ngôn Chính Phủ cải chính, và c̣n nói thêm là hiện quân chính phủ đang tổ chức tái chiếm. Trung Tướng Tư Lệnh QĐ 3 quyết định Tiểu Đoàn 2/43 phải ở lại trận địa, sẽ có quân tiếp viện để tái chiếm.
Thật là một cái lệnh “chết người”. Nhưng lệnh là lệnh; là quân nhân, tôi buộc phải thi hành.
Lối 1 giờ sáng, tôi cho lệnh Huệ dẫn hai đại đội và đưa hết số thương vong qua ngọn đồi xa hơn về hướng tây. Chúng tôi định sáng hôm sau sẽ gọi trực thăng đến tản thương và tiếp tế đạn dược.
Khi Huệ cùng đoàn quân ra đi, tôi bảo Huệ hăy cẩn thận, hẹn gặp lại vào sáng ngày mai. Nhưng “sáng ngày mai” đó đă không bao giờ đến. Huệ và hơn 80 thương vong đă ra đi vĩnh viễn, hay nói một cách khác, họ đă ở lại Định Quán an giấc ngàn thu giữa những tiếng bom đạn xé trời trước khi b́nh minh ló dạng, khi ngọn đồi của Huệ và ngọn đồi của tôi bị bọn giặc cướp cộng phỉ bắc việt tràn ngập. Huệ và hơn 80 chiến sĩ anh dũng của Tiểu Đoàn 2/43 đă nằm lại.
Khi một Đại Đội Trưởng thúc dục Huệ rời vị trí, v́ địch sắp tràn ngập, Huệ nói:
“Không, tôi phải đợi Bảo Định, tôi phải ở lại. Tôi không thể…”
Câu nói chưa dứt th́ một trái đạn 37 ly của giặc thù đă nhắm trúng đầu Huệ, Huệ gục ngay trên miệng hố.
(Những lời cuối này của Huệ do Trung Úy Hà Văn Dương, Đại Đội Trưởng - Đại Đội 4 thuật lại. Huệ và hơn 80 chiến sĩ anh dũng của Tiểu Đoàn 2/43 SĐ 18 Bộ Binh QLL.VNCH đă hy sinh, đền xong nợ nước vào buổi sáng ngày 19/3/1975 tại mặt trận Định Quán).
Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
[Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/ 43 Sư Đoàn 18 Bộ Binh]
Tiểu Đoàn 6 TQLC Thần Ưng trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
Đêm đó (8/4/1972) là một đêm vô cùng căng thẳng, hỏa châu soi sáng toàn vùng Trị Thiên - Núi Phú Xuân do một đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đóng, đánh suốt đêm. Pháo nổ rầm trời; trực thăng, hỏa lực bắn xuống, địch dưới đất bắn lên. Các đơn vị báo cáo giao tranh nhiều hơn thường lệ.
Khoảng 2 giờ sáng, tôi vào Trung Tâm Hành Quân th́ thấy 2 vị chỉ huy c̣n ngồi tại đó. Một lát sau các vị dặn tôi thức và trực tại chỗ, có biến cố ǵ th́ tŕnh ngay. Hai vị chỉ huy lớn đi ngủ, c̣n lại anh em trực, chúng tôi theo dơi t́nh h́nh chung quanh.
Chỉ khoảng một thời gian sau đă lại thấy Đại Tá Lân trở lại Trung Tâm Hành Quân, sau khi xem qua t́nh h́nh, anh đă khẳng định với anh em là: Anh đoán tụi nó đang di chuyển chiến xa trong khu vực thằng “T” (Thần Ưng). “Nhiều chiến xa thế th́ tụi nó có thể húc văng con Thần Ưng của ḿnh, rồi thọc ra Mỹ Chánh - Phong Điền là nó cắt ḿnh làm hai đó.
Bởi vậy anh cho lệnh thằng “T” ở lại Phượng Hoàng tử thủ. Nó giữ vững tới sáng th́ ḿnh cho hai thằng con của 147 lên tiếp ứng và phối hợp phi pháo hun tụi chiến xa của nó, chứ sức mấy mà nó cắt được ḿnh”.
Biết được ư định hành quân của địch, nên chúng tôi ngồi chờ cho trời sáng để xem cuộc thư hùng nẩy lửa này diễn biến ra sao. Lúc chờ đợi, đặc biệt là trong lúc khẩn trương, thời gian như ngừng lại, thời gian không muốn trôi đi.
Ta oán hận cả đất trời - v́ Trời không muốn sáng ! Hèn chi trong bài thơ “Tây Nguyên Máu” Nguyễn N. Ngữ đă phải kêu lên:
“Đêm Tây Nguyên, Trời không muốn sáng,
Có ta canh xác đợi giặc về...”
Tưởng chờ tới quá 5 giờ là trời sáng đến nơi, nhưng hỡi ơi, Trời vẫn không muốn sáng. Thêm vào bữa nay lại có sương mù th́ màn đêm c̣n kéo dài hơn.
5 giờ 15 - Tin tức cho biết địch cường tập căn cứ Phượng Hoàng của Thần Ưng. Chiến xa địch di động cách căn cứ khoảng 1000m - 1500m hướng Tây Tây Bắc. Một đoàn chiến xa khác đang đi về phía Nam. Quả đúng là chúng có ư định bao vây Thần Ưng.
5 giờ 30 - Thần Ưng báo cáo chiến xa địch đang tấn công vào căn cứ. Chúng tiến rất chậm - mở đèn và trực xạ vào căn cứ, từ đó t́nh h́nh biến chuyển rất mau. Thần Ưng báo cáo xe tăng địch đă vượt hàng rào pḥng thủ. (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
6 giờ 00 - Thần Ưng báo cáo chiến xa địch đă xông tới Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn cách 300m - rồi cách 200m - rồi 100m, và cuối cùng 50m. Qua máy truyền tin, chúng tôi nghe rơ Tiểu Đoàn Trưởng Thần Ưng chào “Vĩnh Biệt” và xin chấm dứt liên lạc.
Trong Trung Tâm Hành Quân ai nấy mặt dài cả ra. Các vị chỉ huy lớn đau đớn, thương thằng đàn em can trường anh dũng, thương tiếc Thần Ưng vô kể. Cái đau nhất của anh em là ta đă đoán được ư đồ của địch mà không ngờ chỉ trong khoảnh khắc (Trời không muốn sáng) đó mà tan một tiểu đoàn. Trong khi Bộ Tư Lệnh lo điều động tiếp viện, giải vây, không một tin tức nào về Thần Ưng được ghi nhận qua máy truyền tin cả.
Nhưng - Khoảng độ một giờ sau máy truyền tin lại vang lên:
- Thần Ưng gọi Sóng Thần - Trả lời ?
Chính Đại Tá Lân nhảy lại vồ lấy máy và trả lời:
- Sóng Thần nghe đây! Nói đi !
- Tŕnh Sóng Thần: Ta hạ 5 chiến xa cách Ban Chỉ Huy 50m đến 100m. Đoàn chiến xa địch đă bị chận đứng. Ta đang phối trí lại lực lượng. Tổn thất của ta từ 20 - 30 thương vong. Xin chấm dứt.
15 phút sau. Thần Ưng lại tŕnh tiếp:
- Tổng số chiến xa địch bị hạ là 12 - ta bắt sống 1 chiến xa T-54 và 5 tù binh.
Trong Trung Tâm Hành Quân lúc này vui hẳn lên, mặt mũi anh em sáng ngời và tỉnh táo, chẳng bù với lúc 6 giờ khi địch mới tấn công.
Khoảng 7 giờ 30, Thần Ưng báo cáo chính xác tổn thất bạn và địch:
- Ta 23 tử thương, 31 bị thương, vũ khí bảo toàn.
- Tổng số chiến xa địch bị hạ lên tới 17 - bắt sống 2 chiến xa và 18 tù binh. Thần Ưng hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh, và trời đă sáng thực sự.
Tiếp theo, tin tức của cánh tiếp viện cũng hấp dẫn. Thằng Tiểu đoàn 1 (Quái Điểu) cũng báo cáo hạ được 4 chiến xa trên đường truy kích địch. T́nh h́nh thật là phấn khởi vô cùng.
Lúc này th́ anh em đấu vung tí mẹt. Ai cũng trầm trồ khen Thần Ưng quá giỏi. Đây là lần đầu tiên một đơn vị cấp Tiểu Đoàn của ta, chỉ trong khoảnh khắc, hạ được cả mấy chục chiến xa. Chiến công này không những làm cho Cọp Biển hănh diện, nhưng cũng là bài học cho toàn thể các đơn vị biết cách đánh chiến xa.
Mà quả thật sau đó chẳng bao lâu, quân ta cứ dùng cách đánh ấy mà hạ chiến xa địch, từ B́nh Long tới Ban Mê Thuột tới Trị Thiên một cách không mấy khó khăn. (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
Nhắc lại trận này, trong khi Tiểu Đoàn Quái Điểu và một Chi Đội M-48 được điều động đi tiếp ứng - gặp lúc địch thua phải rút chạy. Quái Điểu đă truy kích diệt được 4 chiến xa và hạ được một số địch. Nhưng quái thay, lại có “một hiện tượng lạ” xuất hiện: Quái Điểu báo cáo một chiến xa M-48 của ta bỏ ngũ chạy theo toán chiến xa địch (?)
Tin chi tiết cho biết chiến xa tiền phong M-48 của ta trước đó đă hạ được một chiến xa địch, nhưng tới khoảng 8 giờ 30 th́ thấy nó chạy lên phía trước và theo đoàn chiến xa địch chạy trước nó vào khoảng 1000m, rồi cả xe địch và xe M-48 mất hút luôn. Tiểu Đoàn Quái Điểu báo cáo “coi như chiến xa đó đào ngũ”. Kể cũng lạ thật !
Khoảng gần 10 giờ th́ phi cơ quan sát của ta phát hiện một chiến xa đang chạy về hướng ḿnh, và máy truyền tin của Quái Điểu cũng đồng thời nhận được tin điện của chiến xa M-48 của ḿnh báo cáo thành tích về Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn:
“Số là xe thiết giáp ta thừa thắng xông lên, sau khi đă hạ được 1 chiến xa cộng phỉ, và một số phỉ quân bộ binh, các “em” thấy c̣n 3 chiến xa địch bỏ chạy phía trước mặt nên đuổi theo chúng cả chục cây số, hạ hết cả 3 chiến xa địch rồi mới chịu quay trở lại”. (Trời ơi! Người anh em Thiết Giáp ơi, ghê bỏ mẹ ra, lần sau đừng làm thế nữa nhé !).
Tới lúc này th́ các đơn vị của ta đă hoàn toàn làm chủ chiến trường, và cuộc giao tranh chỉ c̣n rất là lẻ tẻ, v́ các đơn vị lớn nhỏ của bọn phỉ quân cộng sản bắc việt đều đă thảm bại nhục nhă và xa chạy cao bay cả. (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
Trước đây mỗi khi giao tranh với chiến xa địch là chúng ta đều phải trả một giá đáng kể - Kinh nghiệm tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, và trong những tuần đầu Mùa Hè Đỏ Lửa 72 cho thấy như thế.
Nhưng, sau chiến thắng của Thần Ưng th́ toàn thể quân đội ta lên tinh thần rất cao và toàn quân ta đă tới độ coi thường chiến xa địch, do đó ta có thể nói trận đánh tại Phượng Hoàng của “Thần Ưng” là một pháo lệnh mở đầu cho quân đội ta quật khởi lại, tạo nên những chiến thắng vĩ đại như B́nh Long - Quảng Trị.
TĐ6/TQLC - Thần Ưng Xé Xác Xe Tăng Địch
Qua đợt đầu bọn phỉ quân cộng sản bắc việt tấn công mănh liệt, hung hăn, ồ ạt, các căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc (Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến) phải cầm cự lui dần. Căn cứ Pedro từ đó trở nên tuyến đầu pḥng thủ.
Thiếu Tá Đỗ Hữu Tùng, Sĩ Quan Khóa 16 Vơ Bị Quốc Gia Đà Lat, phong thái trầm tĩnh, luôn như suy nghĩ điều ǵ, từ từ, thủng thẳng trong mọi biến cố, kinh nghiệm chiến trường, một trong các Tiểu Đoàn Trưởng cự phách của Thủy Quân Lục Chiến. (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
Là Tiểu Đoàn Trưởng - Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến, anh biết thế nào căn cứ cũng bị chiến xa cùng quân bộ cộng phỉ bắc việt tấn công kế tiếp, nên anh phối hợp với Lữ Đoàn 258 TQLC xin đặt ḿn chống chiến xa sâu về hướng Tây đường tiến sát đến căn cứ.
Ngay trong đêm 8/4/1972, toàn bộ Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phân tán lực lượng ra khỏi căn cứ, chốt tại các đỉnh cao xung quanh. Thật quả như Đỗ Hữu Tùng dự đoán, địch chuẩn bị cho cuộc tấn công căn cứ vào ngày hôm sau nên pháo kích suốt đêm như mưa, binh sĩ Tiểu đoàn 6 dưới các hầm hố cá nhân bên ngoài căn cứ chờ địch suốt đêm.
Quả nhiên, lúc 6 giờ 45 sáng ngày 9/4/1972, một trung đoàn phỉ quân bắc việt cùng đoàn chiến xa T54, T59 xuất hiện từ hướng Tâỵ. Pháo binh được gọi can thiệp, nhưng chỉ cản sức tiến phần nào của bọn bộ binh địch mà thôi, c̣n chiến xa địch vẫn hăm hở xông xáo tiến lên trong thế nghênh ngang khinh đich. Đoàn chiến xa vượt hẳn đội h́nh bộ binh của họ, tiến thẳng đến căn cứ.
Từ một hố cá nhân chỉ huy đặt ống nḥm, Đỗ Hữu Tùng nở nụ cười nửa miệng, anh thường hay có lối cười như vậy, bạn bè thường nói: "Lại cười ruồi rồi", mà cứ mỗi lần cười ruồi là tiếp theo một đ̣n độc.
Bản chất vốn thủng thẳng, anh giữ im lặng vô tuyến với các đại đội xa gần, ngay cả với hệ thống chỉ huy cao hơn, các con cái sốt ruột quá, không rơ ông Thái Dương (danh hiệu của Thiếu Tá Đỗ Hữu Tùng) của ḿnh muốn ǵ đây.
Vài chiến xa đă cán hàng rào rồi, mà sao chưa lệnh lạc ǵ thế này, chờ cho đoàn chiến xa lọt hẳn vào tầm tác xạ dự trù, th́ cũng vừa lúc 1 chiếc cán ḿn, ầm một tiếng long trời dội đất, chiếc chiến xa lệch sang một phía bốc cháy, vài chiếc khác đă lọt hẳn vào trong căn cứ c̣n lựng khựng như đang cảm nghĩ chắc bị lừa, th́ lệnh khai hỏa tấn công của Đỗ Hữu Tùng vang lên trong máy truyền tin.
Các chiến sĩ Tiểu đoàn 6 nhô ra khỏi hố cá nhân, súng nhỏ nhằm bộ binh địch mà khiển, ống phóng chống chiến xa M72, 57 ly không giật tha hồ mà phóng từ bên hông và theo đuôi đoàn chiến xa; cả chục chiếc bốc cháy, những chiếc c̣n lại hốt hoảng, đội h́nh rối loạn và húc vào nhau phóng chạỵ (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
Nhưng đâu thoát, các đồi xung quanh căn cứ binh sĩ Tiểu đoàn 6 đă chốt hết rồi, cứ nhằm chiến xa địch mà xịt ống phóng M72, một hồi nuốt gọn gần 20 chiến xa. Nhiều chiếc xe tăng cộng phỉ c̣n đang bốc cháy, một số binh sĩ Tiểu Đoàn 6 TQLC hăng quá phóng ra khỏi hố cá nhân nhẩy phốc lên tháp chỉ huy chỉa súng M-16 vào trong xe tăng, dọa tung lưu đạn, kêu bọn phỉ quân ra đầu hàng.
Về phần bộ binh địch tiến theo sau thấy đoàn chiến xa dẫn đầu bị phản công hung hăn, bốc cháy hàng loạt, đâm hốt hoảng rối loạn hàng ngũ tháo lui.
Ngay khi được báo cáo t́nh h́nh, Trung tá Ngô Văn định, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 258 (sau thăng cấp đại tá) liền ra lệnh Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến cùng chiến xa M48 hoạt động gần đó nhào đến tiếp tay Tiểu Đoàn 6 TQLC truy kích ngược lại địch,.
Đồng thời, Không Quân VNCH cũng được gọi đến khi trời quang sáng để dội bom gây cho bọn phỉ quân cộng sản bắc việt thiệt hại năng nề. Bọn giặc cướp xâm lược cộng sản bắc việt thảm bại nhục nhă cố chạy thoát về hướng Tây bỏ lại hơn 400 xác đồng bọn nằm ngổn ngang đầy đồi núi và 23 xe tăng (kể cả Tiểu Đoàn 1 TQLC truy kích hạ thêm 4 và 2 xe tăng do Tiểu Đoàn 6 TQLC bắt sống) bị cháy ngổn ngang.
Vô cùng ngoạn mục và hùng tráng, thường th́ chiến xa chiến là 2 đoàn chiến xa bạn thù quần thảo với nhau, nhưng đây ngược lại lính Thủy Quân Lục Chiến quần thào với chiến xa hạng nặng địch khác nào như lấy trứng gà đập vào tảng đá.
Thật là một trận diệt chiến xa bằng bộ binh ít thấy ghi chép trong các trang quân sử trên thế giới. Sau trận này, 5 tiểu đoàn đàn anh, không một ông anh nào dám coi thường thằng em Thần Ưng nữa (xin xem bài trên “Thần Ưng trong Mùa Hè Đỏ Lửa” của Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến Lương Xuân Đương, để rơ nét thêm về trận đánh này).
Cũng lại Trung Tá Đỗ Hữu Tùng dẫn Tiểu Đoàn 6 TQLC tapi nửa Cổ Thành Đinh Công Tráng trong trận tái chiếm Quảng Trị sau đó ít tháng. (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
Lời kết
Nhân danh là vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên của Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến "Thần Ưng", tôi có vài cảm nghĩ như sau:
- Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, vị Tiểu Đoàn Trưởng lâu nhất, cũng là người dẫn dắt Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến lập được nhiều chiến công hiển hách lẫy lừng.
- Đỗ Hữu Tùng sống anh dũng, khi về th́ lặng lẽ biến đi, để lại biết bao thương tiếc cho bạn bè đồng đội và một mối t́nh sầu cho người nữ ca sĩ nổi danh.
- Nhiệm vụ sau cùng là Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 369 TQLC, anh cùng với Lữ Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc mất tích vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975. Đă bao nhiêu năm trôi qua, chúng tôi vẫn không t́m kiếm được một dấu tích nào về các anh.
Khi ngồi ghi lại những ḍng này, người viết không khỏi bùi ngùi, xúc động tưởng nhớ các anh, những chiến hữu đă cùng người viết chia sẻ mười mấy năm vinh nhục trong cuộc nội chiến phi lư nhất lịch sử Việt Nam. (Sài G̣n trong tôi/ MX Phạm Văn Chung)
Đất Lục Tỉnh ta là cái nôi xuất hiện đầu tiên của chữ Quốc Ngữ, của các thể loại thơ, tiểu thuyết, văn chương và báo chí Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam. Chúng ta tự hào có Trương Vĩnh Kư, Trương Minh Kư, Huỳnh Tịnh Của, Trần Chánh Chiếu…
“Miền Nam vốn có một một địa vị về văn nghệ và có ảnh hưởng sâu rộng trong quảng đại quần chúng lan tràn đến cả miền Trung lẫn miền Bắc.
Miền Nam đă gây phong trào tiền phong về mọi phương diện văn nghệ: báo, tạp chí, truyện ngắn, truyện dài, truyện dịch, đặc biệt là tiểu thuyết Trung Hoa, truyện phóng tác tiểu thuyết Tây, phong trào xuất bản rộng lớn các loại thơ b́nh dân và rất phồn thịnh…” (Khi lưu dân trở lại, tác giả Nguyễn Văn Xuân).
Dần dà trong lịch sử văn chương Việt Nam có sự “ăn hỗn” khi sau này người ta lấy văn chương kiểu Bắc của Nam Phong tạp chí làm chuẩn để nói văn chương Bắc là số 1.
Học giả Nguyễn Văn Xuân viết vầy:
“. . .không ǵ mỉa mai hơn là học Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Trọng Thuật, cả Hoàng Ngọc Phách nữa, những nhà văn mà chính phê b́nh gia có tiếng là Vũ Ngọc Phan nh́n nhận là kém hơn Hồ Biểu Chánh”.
Hồ Biểu Chánh - Hồ Văn Trung (1/10/1885-4/9/1958) người làng B́nh Thành, tỉnh G̣ Công.
C̣n nhỏ ở G̣ Công học chữ Nho, sau học Quốc Ngữ tiểu học ở tổng Vĩnh Lợi, trường tỉnh G̣ Công, sau về Mỹ Tho học Collège de Mỹ Tho, rồi lên Sài G̣n học trường Pháp Chasseloup-Laubat.
Hồ Biểu Chánh con nhà nghèo nên lấy sức học và sự kiên tŕ mà đi lên. Sau khi thi đậu Thành Chung, xin làm giáo làng nhưng rồi đi thi kư lục.
Năm 1906, ông đậu kư lục và được bổ nhiệm ở dinh Thượng Thơ Sài G̣n.
Năm 1911, Thống đốc Nam Kỳ nghi ông có liên lạc với nhóm Gilbert Trần Chánh Chiếu trong phong trào Minh Tân chống Pháp nên đổi ông xuống Bạc Liêu. Được 9 tháng, ông t́nh nguyện đi Cà Mau thay cho một đồng liêu có con c̣n nhỏ.
Năm sau 1913 ông đổi đi Long Xuyên và lập Hội Khuyến Học, lập tờ Đại Việt Tạp Chí (tờ báo chỉ phát hành được 13 số th́ đ́nh bản) ở đây.
Năm 1918, ông được đổi về Sài G̣n.
Năm 1921 ông thi đậu Tri huyện và năm 1927 được thăng tri phủ.
Hồ Biểu Chánh làm chủ quận Càng Long (1927), Ô Môn (1932).
Năm 1934, v́ bất chủ tỉnh ông bị đổi đi Phụng Hiệp.
Năm 1936 lúc 51 tuổi, ông được thăng Đốc Phủ Sứ.
Tháng 6/1936, ông xin hồi hưu, nhưng chánh phủ Pháp ép ông làm tới tháng 6/1941.
Rồi ngày 4/8/1941, ông được cử làm nghị viên Hội Đồng Liên Bang Đông Dương, rồi nghị viên Hội đồng Sài G̣n kiêm Phó Đốc Lư. Tức là làm ông hội đồng kiêm phó thị trưởng Sài G̣n.
Trong thời gian nầy, ông c̣n làm giám đốc cho hai tờ báo là Nam Kỳ Tuần Báo và Đại Việt Tạp Chí (bộ mới).
Năm 1946, khi bác sĩ Nguyễn Văn Thinh lập chánh phủ Nam Kỳ tự trị ông có làm đổng lư văn pḥng, nhưng đến cuối năm, khi Nguyễn Văn Thinh tự tử, ông từ giả chính trường.
Ngoài việc làm quan chức, thú vui của Hồ Biểu Chánh là viết lách, ông viết rất hăng.
64 tiểu thuyết
8 đoản thiên
4 truyện ngắn
2 truyện dịch (1 dịch sách Tàu:Tân soạn cổ tích và 1 dịch vở kịch Pháp: Lửa ngưng th́nh ĺnh)
12 tuồng hát (5 hài kịch, 4 hát bội, 3 cải lương)
5 tập thơ và truyện thơ (truyện U T́nh Lục thể lục bát gồm 1790 câu)
8 tập kư
28 tập khảo cứu và phê b́nh.
Và ông soạn tuồng hát bội nữa, Thanh Lệ kỳ duyên năm 1927.
Nhưng vui vầy nè, bản thân Hồ Biểu Chánh cũng đă khẳng định ông không làm nghề văn chương. Tức ông không nhận danh hiệu “nhà văn”, “nhà nghiên cứu” ǵ cả.
Ông là người Nam Kỳ dẫn đường, làm lá lót đường truyền bá tư tưởng đạo lư, giữ tinh thần dân tộc, tả lại cuộc sống xă hội đời thường Nam Kỳ thời của ông mà thôi.
(Trích) “Đi thi thông ngôn, kư lục phải ăn mặc cho đàng hoàng. Cháu đă hết cái lớp học tṛ rồi, c̣n mặc sắc phục nhà trường nữa sao được. Cháu có sắm áo dài hay không? Phải bận áo dài, chớ không lẽ đi thi làm thầy mà bận áo vắn” (Tơ hồng vương vấn).
Nên nhớ giọng văn của Hồ Biểu Chánh là giọng văn Nam Kỳ hịch hạp, nguyên xi, y chang đời thường Nam Kỳ.
Đọc sách ông sẽ gặp hầu hết xă hội Nam Kỳ xưa, từ cai tổng, tri phủ, tri huyện, chủ quận, hội đồng, thông ngôn, kư lục, lục sự, thầy bang biện, thầy xă, hương cả, hương thân, hương giáo, hương quản, cử nhơn, tấn sĩ, tú tài, bác vật... tới tá điền, tá thổ, con ở, con làm thuê làm mướn.
Đọc sách ông ta sẽ đi ḷng ṿng Nam Kỳ Lục Tỉnh từ G̣ Công tới Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Cần Đước, Đất Hộ, Phú Nhuận, Rạch Kiến, Cà Mau, Chợ Lớn, Chí Ḥa, Xă Tài… Đọc Hồ Biểu Chánh ta sẽ biết cách cất nhà, cái nhà Nam Kỳ xưa ra sao, có mấy gian, làm bằng ǵ, cách bày trí, bộ ngựa đặt chổ nào, làm bằng danh mộc ǵ, bàn thờ ông bà mấy cái. Đọc Hồ Biểu Chánh sẽ biết Nam Kỳ xưa ăn mặc ra làm sao, quần áo, khăn xếp, khăn đóng màu ǵ.
Thí dụ coi hương quản mặc đồ nè: “Chánh Hương quản Sum bận quần lănh đen, áo bành tô trắng, chơn mang giày hàm ếch, đầu đội kết có rằn, tay cầm ba ton, miệng ngậm điếu thuốc” (Cha con nghĩa nặng).
Đọc Hồ Biểu Chánh như đi xuyên không, một chuyến du lịch về Nam Kỳ thời ông cố, ông nội, ông ngoại ḿnh. Nghe đặng tiếng chèo đ̣, tiếng heo kêu ụt ịt đ̣i ăn, tiếng ḥ dân nghèo cấy lúa, giọng the thé chửi tá điền của bà cai, bà hội đồng.
Cái cảm giác kỳ lạ lắm, rất gần, rất máu thịt, rất Nam Kỳ, đọc xong c̣n rần rần trong ḷng v́ theo chưn con Tí, thằng Tèo, cậu cử, ông chệt chưa có đă.
Nhưng nh́n ra là Hồ Biểu Chánh không giỏi về ẩm thực, món ăn, thành ra rất ít khi tả sâu vô đồ ăn.
Những năm 1930 trước sự “xâm lăng” của kiểu văn chương hoa ḥe hoa sói, đầu môi chót lưỡi từ Miền Bắc, khi các nhà văn hóa Nam Kỳ bị lai tạp ít nhiều th́ Hồ Biểu Chánh (Cùng Sơn Nam, Vương Hồng Sển. . .) vẫn cố thủ giữ rịt, kiên quyết giữ nguyên cách viết đậm đà hơi hám Nam Kỳ của ḿnh.
Hồ Biểu Chánh cùng với Sơn Nam và Vương Hồng Sển có thể nói là chuẩn mực văn chương Nam Kỳ.
Nhưng Sơn Nam có đôi khi không đi sâu phong tục phương diện tả thực hơn Hồ Biểu Chánh, văn Vương Hồng Sển th́ đôi lúc tỉ mỉ tẳn mẳn kiểu léo téo, thành ra Hồ Biểu Chánh là dễ hiểu nhứt.
(Trích) “Ḿnh đừng thèm giận thói đời, đừng thèm kể hủ tục, cứ che mặt bít tai mà tu tâm khai trí, cứ lo học cho thành công đặng người bạn yêu dưới suối vàng khỏi thất vọng, đặng bà mẹ già trên dương trần hết lao khổ, đặng thân danh ḿnh vượt lên cao, khỏi vướng śnh lầy, khỏi bị khinh rẻ, vậy th́ xong, chẳng cần nghĩ tới việc giận hờn, thù oán làm chi nữa.” (Tơ hồng vương vấn).
Nhiều người Nam Kỳ theo cách viết Bắc Kỳ xưa không ưa Hồ Biểu Chánh, họ nói văn ông ko là văn viết, viết như nói và rất hời hợt.
Đông Hồ viết: “Đọc th́ cũng đọc, thích th́ cũng thích, duy chúng tôi cứ không chịu được lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của ông”.
Ông B́nh-nguyên Lộc th́ công tâm hơn khi nhận xét kiểu văn Bắc:
“Ở đất Bắc, tiểu thuyết chẳng hay hơn ǵ ở đây, nếu có hơn ở văn vẻ, kiểu cách…
… càng văn vẻ, kiểu cách th́ càng rỗng, càng sáo”.
B́nh-nguyên Lộc nói về Hồ Biểu Chánh: “Lần đầu tiên độc giả Việt Nam được thấy h́nh ảnh con chó phèn nằm thè lưỡi nơi hàng hiên của nếp nhà tranh, được nghe nhạc nhái dưới các ruộng sâu vào buổi chiều, toàn là những cảnh quen thuộc mà sao như mới lạ, hấp dẫn hơn liễu rũ bên hồ sen mới tàn bông, cúc vừa trổ nhuỵ”.
Chê Hồ Biểu Chánh nhưng nói tới Đông Hồ th́ chẳng ai biết, c̣n Hồ Biểu Chánh th́ dân đọc rần rần, in sách ào ào.
Trời ạ! Hành văn như nói, trơn tuột đó là kiểu Nam Kỳ, đặc trưng Nam Kỳ đó nha chưa.
Thử hỏi cái nồi canh chua bông điên điển, bông sua đủa Nam Kỳ mà bỏ mắm tôm vô th́ ai dám ăn?
Bạn đọc Hồ Biểu Chánh bạn nhận ra con người Nam Kỳ ḿnh trong đó, tiểu thuyết hiện thực mà.
Thí dụ như nghèo nhưng từ ban đầu là không làm ẩu, làm bậy, nghèo có danh dự.
Trong “Ngọn cỏ gió đùa” nhà Lê Văn Đó đói tới mức không c̣n cháo mà húp, trước nguy cơ mẹ già và bầy cháu chết đói anh Đó đàng hoàng đi kiếm việc làm, nhưng không ai mướn, túng quá anh đi vô nhà bá hộ Cao hỏi thẳng:
(Trích) “Nhà tôi nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm. Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết thảy, tôi đi đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa về ăn đỡ”.
Cái tánh “danh giá” Nam Kỳ ở chổ đó, nghèo nhưng không trộm cướp, giựt dọc, phải tận sức b́nh sanh trước, đi làm mướn trước đă. Đói quá, bần cùng quá th́ “mượn”, nhưng cũng công khai đàng hoàng ở cổng chánh.
Lê Văn Đó sau đó bị chủ nhà xịt 6 con chó cắn máu me tùm lum, anh chàng lê lết tấm thân tàn ra ngoài bụi tre ngồi gục mặt xuống, trăng rằm sáng treo trên trời rừng rực mà đời anh tối thui “Cuộc đời đắng cay dường ấy, cảnh trời thanh lịch dường ấy, mà Lê-văn-Đó ngồi trơ trơ như một cục đá hay là một khúc cây, không buồn, không vui, không lo, không cảm chi hết”.
Cùng đường anh Đó làm bậy, nhưng cũng “sĩ” lắm, chỉ lấy cái tră cháo heo của nhà giàu về cứu đói cho mẹ già và các cháu thôi.
Rốt cuộc anh Đó bị người làm bá hộ Cao lấy cây tre nhắm vô đầu mà đánh, nó đánh vô tay anh làm tră cháo heo rớt xuống bể nát, cháo đổ hết xuống đất.
Bị đánh đau, bị hàng chục người thoi, đạp mà Đó không đau, cứ tiếc nồi cháo heo “Làm giống ǵ dữ vậy? Đổ cháo hết uổng hôn!”.
Rốt cuộc Đó bị đánh đ̣n đủ 100 roi, nát thịt văng máu; chừng mở trói ra th́ ḅ mà đi chớ đứng không nổi, án tù khổ sai 10 năm.
Ai nói Hồ Biểu Chánh binh nhà giàu Nam Kỳ, quá xá ác.
Thương người Nam Kỳ ḿnh.
Nhà giàu Nam Kỳ ác có nhiều trong Hồ Biểu Chánh.
Bà Cai Hiếu (Con nhà nghèo) không nói lư lẽ dù con trai ḿnh hiếp dâm giá tá điền có chửa, biết chuyện bà đuổi thẳng cả nhà cai tuần Bưởi tá điền lâu năm trong đất của bà “Mày phải liệu lấy, nếu mày dễ ngươi, tao niểu nó lấy ruộng lại mà cho người khác mướn, rồi không có cơm mà ăn th́ chịu đa”.
Ba Cam chém cho hai Nghĩa một dao, với lư luận thế này: “Không phải liều mạng. Quân giàu có mà ăn ở mọi rợ quá, làm hiền với nó sao được kia”.
Tức là Hồ Biểu Chánh đâu có nương tay với nhà giàu ác, ông kêu chém nó cho biết mùi. Diễn biến tâm lư của bà Cai Hiếu rất đúng logic nhà giàu Nam Kỳ xưa.
(Trích)
“Bà Cai hỏi rằng:
- Thằng nào cả gan dám chém con tao đây! Vậy chớ làng xă ở đâu, có bắt nó chưa, hử?
Hương quản đứng dậy đáp:
- Thưa bà, làng người ta đă bắt nó rồi đây. Xin bà đừng rầy rà để cho tôi tra hỏi nó.
Bà Cai ngó Ba Cam và hỏi rằng:
- Thằng đó phải không?
- Thưa phải.
- Chú làm chức ǵ?
- Tôi làm Hương quản.
- Sao chú bắt phạm nhơn chú không đóng gông nó lại, chú để nó đứng thong thả đó vậy hử?
- Làng tôi có gông đâu mà đóng. Thuở nay tội ǵ cũng đóng trăng, chớ đâu có tới đóng gông. Mà tôi đương tra hỏi, đóng trăng sao được.
Bà Cai xốc xốc đi lại rồi xỉa vào mặt Ba Cam mà hỏi:
- Mầy là quân ở đâu mà mầy dám chém con tao hả?
- Bà không được phép xỉ tôi.
- Tao xỉ rồi mầy làm sao? Tao đánh dù trên đầu mầy bây giờ.
- Bà đánh thử coi. Có chứng ông Hương quản đa nghe. Bà muốn sanh sự, chớ không phải tôi đa. Tôi có tội th́ quan phạt tôi, chớ hễ bà Cai động đến tôi th́ tôi không nhịn.
Hương quản sợ sanh chuyện thêm nữa, nên đứng trước mặt bà Cai và mời bà ngồi.
Ba Cam nói:
- Bà đừng quen thói ăn hiếp tá điền, rồi bà tưởng ai cũng sợ bà hết. Tôi có mướn ruộng đất vay lúa vay tiền ǵ của bà đâu mà tôi sợ bà, nên bà ăn hiếp tôi. ” (Hết trích).
Logic là, rất Nam Kỳ, có mướn đất chủ điền th́ tá điền mới sợ chủ điền, không dính quyền lợi th́ không sợ.
“Tôi có tội th́ quan phạt tôi, chớ hễ bà Cai động đến tôi th́ tôi không nhịn” là câu nói khẳng định Nam Kỳ c̣n có luật pháp.
Và bà Cai giải quyết cách nhà giàu cũng rất Nam Kỳ là “Thây kệ nó. Để tao thí ít ngàn bạc, rồi coi nó có sợ tao hay không mà”.
Hồ Biểu Chánh vạch trần bản chất xấu xa, tham lam đến độc ác, không chừa thủ đoạn nào để bóc lột tá điền của một vài điền chủ Nam Kỳ.
Thí dụ ông rể Vĩnh Thái ( Khóc thầm ) nạo xương róc tủy tá điền, đặt ra quy đinh mướn đất một trăm công ruộng th́ phải vay năm chục giạ lúa, hoặc năm chục đồng bạc để cuối mùa được cả ba nguồn lợi, ông này đánh thuế lên nhà cửa, mồ mả tá điền luôn.
Bạc vay 100 th́ Vĩnh Thái ăn lời có… 60.
Nhưng cô vợ Thu Hà và cha vợ là ông hội đồng Chánh không đồng t́nh, ông hội đồng nói:
“Theo lời người ta nói th́ con cải lương cách cho muớn ruộng đất thiệt.
Ngặt có một điều này: chớ chi con cải lương cho tá điền tá thổ người ta nhờ th́ ba cũng cầu, cái nầy con cải lương đặng lột da người nghèo th́ tội nghiệp cho người ta quá, sao con nỡ làm như vậy?
Theo lẽ tự nhiên, kẻ khôn th́ phải thương kẻ dại, kẻ giàu phải giúp người nghèo chớ. Nếu không thương, không giúp nhau th́ sao gọi là nghĩa đồng bào đồng loại cho được.
Mà con buộc vay và con thâu thổ cư cũng chưa ác cho lắm. Con bày đào mồ cuốc mả đem chôn chỗ khác, bằng không th́ phải đóng cho con mỗi cái mả mỗi năm một đồng bạc, cái đó bậy quá, người ta hờn con là tại cái đó đa.
Thà là ruộng của ba mất giá, chớ ba không nỡ đào mồ cuốc mả ông bà người ta đâu con”.
Xuất thân Kư Lục, Hồ Biểu Chánh thấy rơ một số “thầy” rất gian manh, trong “Con nhà giàu” có thầy Thông Hàng ở ṭa bố Mỹ Tho rất gian xảo, ăn của người này thọt người kia, bày đủ tṛ lừa gạt bạn bè.
Xuất thân con nhà nghèo, Hồ Biểu Chánh luôn thương dân nghèo.
(Trích) “Tuy Thượng Tứ sanh trưởng nơi chốn nầy, nhưng mà hồi nào bị mẹ cưng không cho ra khỏi nhà, chừng khôn lớn th́ mắc đi học, lúc băi trường về nhà mẹ cũng không cho tới nhà tá điền tá thổ mà chơi, bởi vậy cậu không biết nhà ai, không quen với ai, cậu chỉ thấy nhà cậu cao lớn sung sướng, chớ cậu không dè nhà người ta lúm túm nghèo khổ.
Hôm nay cậu đi ṿng trong xóm, cậu thấy quang cảnh khó khăn của con nhà nghèo, già cả mà c̣n lụm cụm đi làm, con nít mà phải trần truồng không quần áo, người trải nắng dầm mưa mà không đủ cơm nuôi vợ con, kẻ chai tay nám mặt mà không dám than phiền mệt nhọc.
Cậu thấy như vậy cậu lấy làm đau ḷng, nên chừng ngồi ăn cơm với Hương hộ, cậu thở ra mà nói rằng: “Tôi nghĩ lại thiệt tôi dại quá. Tôi đi chơi bậy bạ mấy tháng tốn bốn năm ngàn đồng bạc. Chớ chi tôi để số tiền ấy tôi phát cho mỗi người nghèo trong xóm, mỗi người năm bảy chục hoặc một trăm, th́ họ mừng biết là chừng nào”.
Đừng bắt Hồi Biểu Chánh phải “đấu tranh” lật đổ giai cấp điền chủ, mổ bụng nhồi trấu thả trôi sông, đó là Việt Minh-CS rồi.
Trong di chúc sau cùng ông viết:
“Tuy là tay sai của quan Pháp, song nếu ḿnh cứ lấy ḷng siêng năng ngay thẳng mà làm việc, đừng a dua, đừng bợ đỡ, phải th́ ở, không phải th́ đi, nói oan dám giận, nói bậy dám căi, th́ phận ḿnh khỏi hổ, mà thiên hạ lại được nhờ nữa”.
Phải nh́n nhận một điều người Pháp nói ǵ th́ nói đă góp phần khai hóa Nam Kỳ ta và những trí thức thời Pháp đă để lại một cái nền văn hóa rất lớn cho Nam Kỳ.
Không thủ cựu, không đả cựu, mà là tiến tới thích ứng, hay ta học, tệ ta bỏ, nhưng vẫn giữ bản sắc, nền tảng văn hóa bổn địa xưa rày của ông bà ḿnh.
Hồ Biểu Chánh là như vậy đó.
Nguyễn Gia Việt
KHÔNG, 100 LẦN KHÔNG, 1000 LẦN KHÔNG. Trước khi mất nước 1975, VNCH chúng ta đă quá nhân đạo nếu không muốn nói thẳng ra là NGU. Vâng chúng ta quân tử với lũ chó đẻ súc vật đó, chính chúng ta tự giết chúng ta. Chiến dịch chiêu hồi thời đó, đă giúp lũ chó chết Cộng Sản đó cho người trà trộn vào khắp chính quyền của chúng ta. Ngu 1 lần thôi, với bọn chó đẻ này không có chuyện hoà hợp hoà giải với chúng nó. Có chúng nó th́ không có chúng ta. Công tâm mà nói, thử nh́n lại đi tại Việt Nam bây giờ bọn chó đẻ Cộng Sản VN có hoà giải ǵ với các thành phần VNCH cũ không? Hay chúng nó vẫn đang trù dập thành phần quân dân cán chính VNCH cũ? Phải tiêu diệt hết bọn Cộng Sản, Việt Nam chúng ta mới có thể khá lên được. Phải đập nát cái chính quyền vô nhân đạo của chúng nó. Phải chặt cổ thằng chó đẻ Tô Lâm, thằng Phạm MInh Chính và tất cả những đứa trong chính quyền chúng nó, hay nói cách khác phải lật đổ bọn Cộng Sản VN, nước Việt Nam của chúng ta mới có thể ngóc đầu sánh vai với các nước trong tự do và hoà b́nh.
Đả đảo bọn chó đẻ Cộng Sản VN.
The Following User Says Thank You to ngoclan2435 For This Useful Post:
Ai xúi nữa đây, bom đạn nhiêu đó chưa đủ sao? Dân khổ rồi, dù la bên thắng hay bên thua cuộc, cũng què gị cụt chân nhiều rồi.
Đồng ư, què giỏ, cụt chân nhiều rồi nhưng tụi súc vật, cu li này 50 năm qua chúng nó có làm đúng những ǵ thằng chó đẻ Hồ Chí MInh đă banh cái lỗ mồm thối của nó ra mà nói: "Không có ǵ quư hơn Độc lập và Tự Do" Độc Lập th́ tạm có đấy, nhưng Tự Do th́ không. Chúng nó không những sợ thằng chó chết Ba Tầu. Thằng Tập Cận B́nh không những chiếm các đảo của VN, chúng nó c̣n bắt bớ, cấm đoán VN đánh cá ngay trong vùng biển của ḿnh? Vậy có Tự Do không? Mọi chuyện quan trọng, mấy thằng chóp bu của chúng nó như thằng Trọng, thằng Tô Lâm phải ḅ sang Tầu để xin ư kiến, xin phép trước khi gặp Mỹ để ăn mày tiền bạc.
50 năm qua, cướp được miền Nam VN, bọn chó đẻ thằng Hồ làm được cái ǵ hay toàn bộ chúng nó thay phiên nhau ăn cắp tiền của công, tham nhũng tối đa. Dân chúng vẫn sống trong nghèo đói. Đó là lư do tôi vẫn kêu gọi và hy vọng lật đổ cái chính quyền vô nhân đạo Cộng Sản VN, để mong VN ngày 1 khá hơn.
Không thể nói, què gị, cụt chân nhiều rồi để chấp nhận để chúng nó tung hoành như vậy, nó chẳng khác ǵ nhiều người vẫn ngu muội nói rằng: "Ôi họ cũng là máu đỏ da vàng như chúng ta mà thôi"
ĐM... Đứa đéo nào hay ho hơn VC th́... đéo nó cho tao coi cái, "cướp" lại đất xứ Việt cho tao coi cái coi, c̣n hơn là 50 năm chui đéo xuống cống rănh Cali, Texas, vv... rồi lâu lâu chỏ mơ sủa bâng quơ mà mỏ thúi hoắc hoằn hoăng, cứt cũng thúi đéo bằng... Mẹ bố tiên sư, lũ 3Quặp (aka 3Que) vô dụng, hèn nhát một cách đốn mạt....
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.