Chính quyền VN đang nhốn nháo “triển khai phong trào toàn dân thi đua làm giàu,” “triển khai Nghị Quyết 68 của Bộ Chính Trị về phát triển kinh tế tư nhân.” Nghị Quyết 68, mà Tổng Bí Thư Tô Lâm kư ngày 5 Tháng Năm, 2025, được báo Tuổi Trẻ gọi là “giống nắng hạn gặp cơn mưa rào!”
Lên đồng với “chủ trương” làm giàu
Thoạt nh́n, đây có vẻ là một thông điệp tích cực: Cổ vũ người dân khởi nghiệp, đầu tư, sản xuất kinh doanh để xây dựng đất nước. Nhưng khi đi sâu vào bản chất thông điệp, người ta không khỏi đặt câu hỏi: “Toàn dân làm giàu” liệu là một chính sách thực chất hay chỉ là một khẩu hiệu khoác áo phong trào? Và liệu có thể làm giàu bằng tinh thần thi đua, khi thể chế vẫn đặt quá nhiều rào cản?
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, tư duy “phát động phong trào” vốn không phải điều xa lạ. Các khẩu hiệu đều mang màu sắc vận động hành vi tập thể thông qua tinh thần chính trị hóa. Việc làm giàu – một hành vi kinh tế mang tính cá nhân, tự nguyện và tùy thuộc vào năng lực – giờ đây cũng được chính trị hóa bằng cách đẩy lên thành “phong trào thi đua.”
Ở các nền kinh tế thị trường, người dân không cần phải “thi đua làm giàu.” Họ làm giàu v́ động cơ lợi nhuận, v́ môi trường pháp lư rơ ràng cho phép điều đó, và v́ hệ thống thể chế không ngăn cản họ. Nhưng ở Việt Nam, khi nhà nước phải “phát động phong trào” để làm điều đáng lẽ là bản năng kinh tế tự nhiên, điều đó cho thấy môi trường vẫn chưa thật sự cho phép người dân yên tâm làm giàu. Thay v́ “phát động,” điều cần làm hơn là “tháo rào cản!”
Thông điệp “toàn dân thi đua làm giàu” vô h́nh trung biến một quyền cá nhân (làm giàu hợp pháp) thành một nghĩa vụ tập thể, như thể ai không làm giàu là đang đứng ngoài lề phát triển đất nước. Trong khi đó, phần lớn dân số – nông dân, công nhân, giáo viên, tiểu thương – không có điều kiện tiếp cận nguồn lực để “làm giàu,” mà chỉ đang cố sống đủ, sống không nghèo hơn.

Suốt hàng chục năm nay, nhà nước cộng sản nhai nhải tuyên bố “xóa bỏ tư duy xin-cho” nhưng chưa bao giờ thực hiện đến nơi đến chốn. Vấn đề là, chính hệ thống công vụ hiện tại đă sản sinh ra tư duy ấy như một phần cấu trúc. Khi cơ quan nhà nước có quyền ban phát (thậm chí tùy tiện) các “cơ hội làm giàu,” th́ mối quan hệ giữa dân và chính quyền không c̣n là quan hệ giữa hai chủ thể b́nh đẳng, mà là quan hệ giữa “người xin” và “người cho.” Mà đă là “xin-cho” th́ không thể có cạnh tranh lành mạnh, cũng không thể có khởi nghiệp sáng tạo. Trong môi trường ấy, “thi đua làm giàu” dễ trở thành cái cớ để những nhóm có đặc quyền càng thâu tóm thêm tài nguyên, trong khi người yếu thế ngày càng tụt lại phía sau.
Phát triển kinh tế không thể chỉ đo bằng số lượng “người giàu.” Nó phải được đánh giá bằng mức sống chung, bằng độ bao phủ an sinh, bằng khoảng cách giàu-nghèo, và bằng niềm tin rằng ai cũng có cơ hội vươn lên – kể cả khi không cần phải thi đua. Nếu nhà nước thực sự muốn tư nhân là “động lực phát triển đất nước,” th́ không thể chỉ hô hào. Cần phải hành động cụ thể:
-Cắt giảm thủ tục hành chính: Doanh nghiệp không thể phát triển nếu mỗi bước đi đều phải qua “cửa quan.”
-Bảo vệ quyền tài sản và hợp đồng: Không ai dám đầu tư nếu rủi ro pháp lư quá lớn, hoặc luật thay đổi thất thường.
-Chống độc quyền và thân hữu: Các “sân sau” và nhóm lợi ích đang làm méo mó thị trường, triệt tiêu tinh thần cạnh tranh.
-Minh bạch hóa chính sách tín dụng và đầu tư công: Không để tiền rót vào tay những kẻ biết “vận động chính sách,” thay v́ thật sự có năng lực.
Đó là những việc cần làm, thay v́ ban hành khẩu hiệu.
Làm giàu ở Việt Nam: Ai có thể? Ai thật sự?
Sau gần bốn thập niên đổi mới, khi khoảng cách giàu-nghèo ngày càng rơ rệt và sự tích lũy tài sản diễn ra không đều, câu hỏi “ai có thể làm giàu?” và “ai thật sự giàu?” trở thành những vấn đề không chỉ kinh tế, mà mang tính hệ thống. Bởi v́ ở Việt Nam, không phải ai cũng có điều kiện để làm giàu – và không phải ai có nhiều tiền cũng thật sự là người “giàu.”
Trên lư thuyết, bất kỳ công dân nào cũng có quyền và cơ hội làm giàu nếu họ có ư chí, năng lực, và sáng tạo. Nhưng thực tế xă hội Việt Nam lại phơi bày một điều cay đắng: khởi điểm của mỗi người khác nhau – không phải do lựa chọn cá nhân, mà do cấu trúc xă hội quy định.
Một bộ phận không nhỏ trong xă hội Việt Nam giàu lên nhờ vào mối quan hệ với quyền lực – chứ không phải từ sáng tạo, sản phẩm hay năng lực thị trường. Họ là con cái quan chức, bạn bè của những người có quyền phân phối đất đai, cấp phép đầu tư, hoặc phê duyệt dự án. Họ “làm ăn” trong vùng đặc quyền, nơi thông tin nội bộ là tài sản lớn nhất, và năng lực xoay xở với cơ chế là kỹ năng quan trọng nhất.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân phất lên nhờ trúng thầu các dự án đầu tư công, mua rẻ đất từ các thương vụ cổ phần hóa, hoặc đơn giản là “được giao đất” mà không qua đấu giá. Đây là “con đường làm giàu” được thiết kế riêng cho nhóm có quan hệ với hệ thống quyền lực – mà người ngoài không thể chen vào. Một nhóm khác làm giàu bằng cách khai thác các “vùng xám” của luật pháp: Buôn bán bất động sản “chui,” đầu cơ đất nền, nhập hàng lậu, lách thuế…
Một số quan chức, cựu cán bộ, hoặc người thân của họ giàu lên từ việc tham nhũng, lợi dụng chức quyền, hoặc “đi đêm” với nhà thầu. Khối tài sản này không bao giờ được công khai, không ai biết nguồn gốc – nhưng ai cũng ngầm hiểu. Loại giàu này là “giàu ngầm” – và thường t́m cách hợp thức hóa thông qua mua bất động sản, gửi con du học, đầu tư ngầm vào doanh nghiệp.
Tạp chí Forbes có thể xếp hạng tỷ phú người Việt, nhưng lại không thể xếp hạng hàng trăm đại gia “ngầm” – những người không bao giờ xuất hiện trên truyền thông, nhưng điều khiển ḍng vốn và dự án ở hậu trường. Đó là một kiểu “tư bản thân hữu” – nơi tài sản không đi cùng trách nhiệm, và giàu có không đi kèm minh bạch. Và cũng từ đây, ta thấy một nghịch lư: trong một xă hội chưa có cơ chế giám sát tài sản cán bộ, chưa có luật thuế tài sản hiệu quả, và chưa có văn hóa kê khai minh bạch, th́ sự giàu có dễ bị nghi ngờ hơn là ngưỡng mộ.
Nhiều tiền để làm ǵ?
Một câu hỏi quan trọng nữa cần đặt ra: Chúng ta làm giàu để làm ǵ, nếu không c̣n một môi trường sống lành mạnh để tận hưởng thành quả của sự giàu có?
Tiền bạc có thể mua được nhà, xe, đồ hiệu, tiện nghi. Nhưng tiền bạc không thể mua được bầu không khí sạch để hít thở, nguồn nước sạch để uống, thực phẩm sạch để nuôi con, và sự an tâm mỗi khi bước ra đường mà không lo đụng phải một tai nạn giao thông, một cú sập giàn giáo, hay một đợt triều cường đột ngột nhấn ch́m phố phường.
Hệ lụy c̣n xa hơn nữa: nếu hệ thống y tế mục nát, giáo dục bị thương mại hóa, thực phẩm bẩn tràn lan, và đạo đức công quyền xuống cấp, th́ người dân – dù có làm giàu đến đâu – vẫn sống trong một trạng thái bất an toàn diện. Một xă hội văn minh không chỉ đo bằng số lượng triệu phú đôla, mà c̣n bằng số lượng công viên công cộng, mức độ trong lành của không khí, độ an toàn của thực phẩm, sự tử tế trong bệnh viện, và tiếng cười của trẻ em khi chơi đùa mà không phải lo “bụi mịn vượt ngưỡng.” Ngoài ra, bạn có thể giàu. Nhưng bạn không có quyền. Không quyền phản biện, không quyền đ̣i hỏi, không quyền từ chối những quyết định vô lư…
Bạn có thể có một căn hộ cao cấp giữa trung tâm thành phố, nhưng sáng sớm mở cửa ra chỉ thấy khói bụi, mùi cống rănh và âm thanh xe cộ inh ỏi. Bạn có thể đưa con đến trường quốc tế đắt tiền, nhưng không thể yên tâm với bữa ăn trưa của con, khi thực phẩm bẩn len lỏi từ nhà cung cấp đến nhà bếp học đường. Bạn có thể chi tiền mua bảo hiểm y tế tư nhân đắt đỏ, nhưng vẫn phải chen chúc trong bệnh viện công nếu tai nạn xảy ra bất ngờ. Bạn có thể sở hữu một chiếc ô tô tiền tỷ, nhưng vẫn mắc kẹt ba giờ đồng hồ trên đoạn đường ngập nước chỉ v́ một trận mưa lớn kéo dài 30 phút.
Một cách tổng quát, khi nhà nước chỉ chăm chăm vào các chỉ số GDP, tăng trưởng công nghiệp, mở rộng hạ tầng – nhưng không có tầm nh́n môi trường bền vững, không xây dựng được hệ thống giám sát chất lượng thực phẩm, không bảo vệ được rừng tự nhiên, không ngăn được t́nh trạng xả thải công nghiệp ra sông hồ – th́ làm giàu trở thành một hành vi đơn độc, chông chênh, thậm chí vô nghĩa trong một tổng thể xă hội đang xuống cấp toàn diện.