VIỆT NAM ĐÁNH MẤT CƠ HỘI NGÀN VÀNG LÀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất về mặt lănh thổ, nhưng đă đánh mất một cơ hội vô giá là thống nhất ḷng dân. Thay v́ hóa giải hận thù sau năm mươi năm chiến tranh tàn khốc, Việt Nam đă để cho vết thương dân tộc ngày càng rỉ máu.
Biến cố lịch sử đó đă đẩy hàng triệu người Việt Nam vào những cuộc vượt biển kinh hoàng. Phân nửa số người ra đi đă bỏ ḿnh ngoài biển khơi, trong rừng sâu, hoặc chết tức tưởi dưới tay hải tặc. Những phụ nữ Việt Nam, từ già đến trẻ, đă phải chịu đựng những cảnh tượng bị cướp bóc, cưỡng hiếp, giết chết một cách dă man, không c̣n chút nhân tính.
Các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, những người từng chiến đấu cho miền Nam tự do, đă bị trả thù tàn bạo. Họ bị giam giữ trong các trại cải tạo kéo dài hơn mười năm, chịu đựng sự tra tấn, hành hạ, và rất nhiều người đă bỏ mạng trong những điều kiện khắc nghiệt. Gia đ́nh họ bị phân biệt đối xử, bị đẩy ra khỏi xă hội, bị giam trong nghèo đói và tủi nhục.
Hàng triệu người Việt Nam đă tị nạn cộng sản, ly hương đến khắp các quốc gia trên thế giới. Dù mang theo h́nh ảnh của một đất nước "thống nhất," nhưng trong ḷng dân tộc vẫn là sự phân ly sâu sắc. Hai bên chính kiến vẫn hận thù nhau, thay v́ cùng nhau gác lại quá khứ, hàn gắn những vết thương, bước tới xây dựng tương lai.
Đáng lẽ sau chiến tranh, nhà nước Việt Nam phải nắm lấy cơ hội ngàn vàng để kêu gọi đoàn kết dân tộc, quên đi quá khứ đau thương, như những đàn gà con cùng chung một mẹ. Đáng lẽ, nhà nước phải dang rộng ṿng tay, ôm lấy tất cả những người con Việt dù khác chiến tuyến, để cùng nhau xây dựng một đất nước hùng cường, bao dung và nhân ái.
Nhưng không, nhà nước Việt Nam đă chọn một con đường khác. Họ tổ chức diễu hành rầm rộ, vinh danh bên chiến thắng, khơi lại vết thương chưa kịp lành, khiến hận thù giữa người Việt tị nạn và chế độ cộng sản ngày càng khắc sâu. Không dừng lại ở đó, nhà nước c̣n đào tạo và tung ra lực lượng dư luận viên chuyên nghiệp lên mạng xă hội, bôi nhọ h́nh ảnh cộng đồng người Việt tị nạn, bôi nhọ lá cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng thiêng liêng của tự do và ḷng yêu nước ở hải ngoại.
Những h́nh ảnh chó phóng uế lên cờ vàng, những cử chỉ thô tục như giơ ngón tay xúc phạm, những lời lẽ hạ thấp nhân phẩm người tị nạn như "ba que," "đu càng," "tộc nail," đă làm nhức nhối những trái tim Việt Nam lưu lạc. Vết thương tưởng chừng đă có thể hàn gắn, nay lại bị khoét sâu, sưng mủ, rỉ máu. Cộng đồng người Việt hải ngoại, dù xa quê hương nửa ṿng trái đất, vẫn không thể nào nguôi ngoai nỗi đau bị xúc phạm và bị phản bội.
Nửa thế kỷ đă qua, nhưng nỗi đau và hận thù đối với chế độ cộng sản vẫn c̣n đó. Và có thể, không chỉ năm mươi năm, mà sẽ c̣n kéo dài thêm hàng trăm năm nữa, khi vết thương dân tộc chưa bao giờ được thật sự chữa lành.
Ngày nay, lá cờ đỏ sao vàng được biết đến như quốc kỳ chính thức của nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, rất ít người biết rằng nguồn gốc thực sự của lá cờ này không thuần túy xuất phát từ lịch sử dân tộc Việt Nam, mà có liên hệ trực tiếp với lá cờ từng được sử dụng tại tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc.
Trong thời kỳ đầu thế kỷ 20, khi phong trào cách mạng bùng lên tại nhiều tỉnh thành Trung Quốc, tỉnh Phúc Kiến đă chọn lá cờ đỏ với một ngôi sao vàng năm cánh làm biểu tượng. Màu đỏ tượng trưng cho máu của những người cách mạng, c̣n ngôi sao vàng biểu trưng cho quyền lực của giai cấp công nhân và liên minh cách mạng. Mẫu cờ này xuất hiện rộng răi tại các vùng do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát, đặc biệt trong các chiến khu của Bát Lộ Quân và Hồng quân Trung Hoa.
Trong giai đoạn 1938 đến 1940, Hồ Chí Minh, lúc ấy mang bí danh Hồ Quang, đă hoạt động trong hàng ngũ Bát Lộ Quân tại căn cứ địa Diên An. Theo nhiều tài liệu lưu trữ và nghiên cứu lịch sử, Hồ Chí Minh giữ chức vụ tương đương cấp thiếu tá hoặc trung tá trong quân đội cộng sản Trung Quốc. Thời gian hoạt động trong môi trường Bát Lộ Quân không chỉ giúp Hồ Chí Minh nắm vững nghệ thuật tổ chức cách mạng, chiến tranh nhân dân, mà c̣n ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư duy biểu tượng và biểu ngữ cách mạng.
Khi trở về Việt Nam năm 1941 để thành lập Việt Minh, Hồ Chí Minh đă mang theo nhiều mô h́nh tổ chức từ Trung Quốc, trong đó có biểu tượng cờ đỏ sao vàng. Ban đầu, trong các hội nghị Việt Minh, lá cờ này được sử dụng như biểu tượng cách mạng, sau đó được chính thức chọn làm cờ của lực lượng Việt Minh năm 1941 tại khu vực Pác Bó. Tới năm 1945, khi Việt Minh tổ chức Cách mạng tháng Tám và giành chính quyền, lá cờ đỏ sao vàng được tuyên bố là quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
Việc lựa chọn lá cờ này phản ánh sự ảnh hưởng sâu đậm của đường lối cộng sản Trung Quốc đối với phong trào cộng sản Việt Nam giai đoạn đầu. Đó không chỉ là ảnh hưởng về tư tưởng, chiến lược quân sự, mà c̣n là sự ảnh hưởng về biểu tượng quốc gia.
Nhiều nhà nghiên cứu độc lập cho rằng, đây là một vết gợn lớn trong hành tŕnh xây dựng bản sắc dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Một đất nước có hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, lẽ ra phải có một lá cờ phản ánh truyền thống, văn hóa riêng biệt, chứ không phải vay mượn từ một mô h́nh ngoại lai, nhất là mô h́nh của một quốc gia từng mang tham vọng bá quyền đối với Việt Nam từ ngàn xưa.
Ngày hôm nay, khi nh́n lại chặng đường hơn nửa thế kỷ, câu hỏi về bản sắc, về sự lệ thuộc biểu tượng và tư tưởng vẫn c̣n đó. Và sự thật về nguồn gốc lá cờ đỏ sao vàng, gắn liền với lá cờ của tỉnh Phúc Kiến và bước chân của một sĩ quan Bát Lộ Quân mang nó về Việt Nam, vẫn là một sự thật không thể phủ nhận trong ḍng lịch sử dân tộc.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Nguồn Gốc Lá Cờ Vàng Việt Nam Cộng Ḥa Từ Thời Vua Thành Thái Và Câu Chuyện Trương Minh Giản Treo Cờ Tại Paris.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng thiêng liêng của Việt Nam Cộng Ḥa, đă h́nh thành từ cuối thế kỷ XIX, trong những năm bi thương của đất nước dưới sự đô hộ của Pháp.
Năm 1890, chỉ một năm sau khi vua Thành Thái lên ngôi, giữa bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp khống chế ngày càng sâu rộng, ngài đă cho thiết kế một mẫu cờ mới. Mẫu cờ ấy có nền vàng rực rỡ tượng trưng cho ḍng giống Lạc Việt, giữa nền vàng có ba sọc đỏ thẳng đứng tượng trưng cho ba miền Bắc Trung Nam. Ba sọc đỏ c̣n mang ư nghĩa trời đất và con người ḥa hợp, cùng chung một vận mệnh, một chí hướng. Mặc dù quyền lực của vua Thành Thái lúc ấy bị giới hạn, ḷng yêu nước và tinh thần giữ ǵn hồn dân tộc của ngài vẫn không hề phai nhạt. Ngài lặng lẽ cho ra đời lá cờ ấy như một lời nhắc nhở âm thầm rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ khuất phục.
Đến năm 1907, trong nỗ lực vận động cho dân quyền Việt Nam tại Pháp, cụ Trương Minh Giản, một vị đại thần của triều Nguyễn, đă mang theo lá cờ vàng ba sọc đỏ trên chuyến tàu vượt đại dương đến Paris. Cụ không chỉ đem theo một tấm vải, mà mang theo cả hồn thiêng sông núi.
Khi đặt chân đến Paris, vào những ngày của Hội nghị các Thuộc địa được tổ chức tại quảng trường Place de la République, cụ Trương Minh Giản đă trịnh trọng treo lá cờ vàng ba sọc đỏ trên ban công một ngôi nhà nhỏ nơi cụ trọ tại quận 3, gần đại lộ Boulevard du Temple. Lá cờ cũng được cụ mang ra các cuộc hội thảo để giới thiệu với giới trí thức Pháp. Giữa một trời cờ xí của các đế quốc thực dân, h́nh ảnh lá cờ vàng đơn sơ mà oai hùng đă gây sự chú ư đặc biệt.
Cụ Giản, trong bộ áo dài xanh thâm và khăn đóng, đă đứng giữa quảng trường Place de la République, tay giương cao lá cờ vàng. Những người qua đường, những phóng viên Pháp, đă nh́n thấy trong h́nh ảnh ấy một dân tộc bé nhỏ nhưng bất khuất. Lá cờ vàng ba sọc đỏ lúc ấy như một ngọn đuốc nhỏ giữa trời Tây lạnh lẽo, mang theo hơi thở nóng hổi của quê hương cách xa nửa ṿng trái đất.
Mặc dù sau đó phong trào đấu tranh của cụ Trương Minh Giản không thành công trong việc lay chuyển chính sách thực dân, nhưng h́nh ảnh lá cờ vàng đầu tiên tung bay tại Paris năm 1907 đă trở thành dấu ấn không thể phai nḥa. Nó mở ra một ḍng chảy âm thầm trong tâm thức dân tộc, tiếp nối qua các phong trào Đông Du, Duy Tân, Trần Cao Vân, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, và những thế hệ tiếp nối.
Đến năm 1945, khi Nhật Bản đảo chính Pháp tại Đông Dương, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập tại Hà Nội. Lần đầu tiên trên đất Việt Nam, lá cờ vàng ba sọc đỏ được chính thức treo lên các công thự tại thủ đô, đánh dấu một thời khắc ngắn ngủi nhưng đầy ư nghĩa khi dân tộc Việt Nam giành được quyền tự chủ. Lá cờ vàng lúc ấy không chỉ đơn thuần là một biểu tượng, mà c̣n là niềm hy vọng, là tiếng thở dài từ hàng triệu con tim mong mỏi tự do.
Đến năm 1948, tại Hội nghị Hương Cảng, chính phủ Quốc Gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại chính thức lấy mẫu lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ.
Và từ năm 1955, khi nền Đệ Nhất Cộng Ḥa được thành lập dưới sự lănh đạo của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, lá cờ vàng tiếp tục tung bay trong tư thế của một quốc gia độc lập, tự do và có chủ quyền. Khi bước sang thời kỳ Đệ Nhị Cộng Ḥa từ năm 1967 đến năm 1975, với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lănh đạo, lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn được duy tŕ và tiếp tục là biểu tượng của miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến giữ ǵn tự do trước làn sóng cộng sản.
Ngày nay, dù lịch sử đă sang trang sau biến cố đau thương ngày 30 tháng Tư năm 1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn sống mănh liệt trong ḷng hàng triệu người Việt Nam lưu vong. Tại các cộng đồng người Việt tị nạn trên khắp thế giới, từ Little Saigon ở California, đến khu Paris 13, đến các thành phố lớn như Houston, Sydney, Toronto hay Berlin, lá cờ vàng không chỉ xuất hiện trong các ngày lễ tưởng niệm mà c̣n hiện diện như một biểu tượng văn hóa cộng đồng. Nó là hiện thân của kư ức, của bản sắc, của ḷng trung thành với lư tưởng tự do, nhân quyền và dân tộc.
Lá cờ ấy, dù trải qua sóng gió, vẫn bay lên cùng với lời thề bất diệt của những người con Việt Nam c̣n trân quư cội nguồn ḿnh.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Phan Thanh Giản sinh năm 1796 tại làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc tỉnh Bến Tre. Thuở nhỏ nhà nghèo, thân phụ mất sớm, cụ được mẹ tảo tần nuôi lớn trong cảnh thiếu thốn. Từ nhỏ đă nổi tiếng thông minh, cần mẫn, nên dù nghèo khó vẫn quyết chí đèn sách.
Năm 1825, dưới triều vua Minh Mạng (ở ngôi 1820–1841), Phan Thanh Giản đỗ Tiến sĩ, trở thành người Nam Kỳ đầu tiên đạt học vị cao quư này. Từ đó, cụ bước vào quan trường, làm quan trải qua ba triều vua lớn: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Đến thời vua Tự Đức (ở ngôi từ 1847 đến 1883), vận nước suy yếu rơ rệt. Khi thực dân Pháp nổ súng chiếm Đà Nẵng năm 1858, rồi đánh Gia Định năm 1859, nhà Nguyễn rơi vào thế tuyệt vọng. Trước t́nh h́nh đó, vua Tự Đức, biết cụ Phan Thanh Giản là người đức độ, hiểu biết, nên giao cho cụ trọng trách đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha năm 1863, với hy vọng điều đ́nh, giành lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đă rơi vào tay Pháp.
Đi cùng cụ trên chuyến sứ mệnh năm 1863 là hai phó sứ: Phạm Phú Thứ và Nguyễn Khắc Niêm.
Đoàn sứ bộ lên đường, băng qua biển lớn đến tận Paris và Madrid.
Tại Pháp, Phan Thanh Giản được tiếp xúc với Hoàng đế Napoléon III. Nhưng hy vọng chuộc đất là điều viển vông. Pháp, lúc ấy đang mở rộng thuộc địa khắp thế giới, không có ư định trả đất cho Việt Nam. Họ đối xử lịch sự với sứ bộ Việt Nam, nhưng trong thực tế đă định đoạt xong số phận Nam Kỳ.
Kẻ trực tiếp đối đầu với cụ là các viên toàn quyền thực dân Pháp tại Nam Kỳ như De La Grandière và các tướng chỉ huy lực lượng Pháp đang tiến hành kế hoạch chiếm toàn bộ miền Tây Nam Bộ.
Khi sứ mệnh thất bại, Phan Thanh Giản buồn bă trở về nước. Đầu năm 1867, t́nh h́nh càng bi đát. Quân Pháp liên tiếp đưa quân chiếm thêm các vị trí chiến lược. Triều đ́nh Huế, không c̣n người đủ uy tín ở miền Nam, đă cử cụ Phan Thanh Giản làm Kinh lược đại thần Nam Kỳ, giao toàn quyền trông coi ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Nhiệm vụ giao phó lúc ấy là gần như bất khả thi. Cụ ra Vĩnh Long, nhưng không có quân cứu viện, không có tiền bạc, vũ khí chỉ c̣n lèo tèo. Triều đ́nh Huế đă bỏ rơi miền Nam từ trong ư chí.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, viên Đô đốc Pháp De La Grandière gửi tối hậu thư buộc cụ phải trao thành Vĩnh Long. Trước thế lực quân sự vượt trội và không có phương tiện kháng cự, cụ đành giao thành trong ḥa b́nh để tránh đổ máu cho dân lành.
Ôm nỗi nhục mất nước, cụ Phan Thanh Giản tuyệt vọng. Ngày 4 tháng 8 năm 1867, cụ uống thuốc độc tự vẫn tại tư dinh Tổng đốc Vĩnh Long. Trước khi chết, cụ để lại nhiều thư từ tuyệt mệnh gửi vua Tự Đức, đồng liêu và thuộc hạ, trong đó bày tỏ nỗi ḷng đau đớn v́ không làm tṛn trách nhiệm giữ thành, giữ nước.
Gia đ́nh cụ Phan Thanh Giản
Cụ có một người vợ chính là bà Nguyễn Thị Vân.
Cụ có nhiều con trai tài giỏi, nổi bật nhất là Phan Tôn (chữ Tôn: 尊), một nhà nho yêu nước, sau này tham gia kháng Pháp, bị Pháp bắt và đày ra Côn Đảo.
Một người con khác là Phan Liêm, cũng tham gia nghĩa quân chống Pháp, sau bị bắt và lưu đày.
Tức là, ḍng dơi của Phan Thanh Giản, dù cụ từng v́ hoàn cảnh phải đầu hàng, nhưng con cháu cụ sau này đều nối chí lớn, cầm gươm súng chống thực dân.
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Viên Gạch Nung Của Hồ Chí Minh Và Những Sự Thật Cần Xem Lại
Trong các câu chuyện được kể lại về quăng thời gian Hồ Chí Minh sống tại Paris đầu thế kỷ 20, h́nh ảnh "viên gạch hồng" được sử dụng để chống chọi với mùa đông giá lạnh thường xuyên được nhắc đến như một biểu tượng cho ư chí chịu đựng và khổ luyện. Theo lời kể phổ biến, mỗi ngày ông Nguyễn Ái Quốc nung một viên gạch trong ḷ sưởi, sau đó bọc trong giấy báo và đặt vào giường ngủ để sưởi ấm suốt đêm.
Tuy nhiên, khi đối chiếu với thực tế khoa học vật lư cũng như hoàn cảnh sinh hoạt ở châu Âu cùng thời, có nhiều chi tiết trong câu chuyện này đặt ra vấn đề cần phân tích.
Về mặt vật lư, một viên gạch nung khi vừa lấy ra khỏi ḷ có thể đạt đến nhiệt độ trên 200 độ C. Giấy báo có điểm bắt cháy chỉ khoảng 233 độ C. Khi bọc một vật nóng bằng giấy báo, rủi ro bốc cháy là cực kỳ cao, nhất là trong môi trường thiếu kiểm soát nhiệt độ như pḥng trọ nghèo thời bấy giờ. V́ thế, phương pháp sử dụng viên gạch nóng bọc trong giấy báo để đặt trong chăn là cực kỳ nguy hiểm, hoàn toàn không thực tế và dễ dẫn đến hỏa hoạn.
Thêm vào đó, xét về khả năng giữ nhiệt, một viên gạch nung cỡ trung b́nh chỉ có thể giữ hơi ấm trong khoảng 2 đến 3 giờ đồng hồ. Trong khi đó, đêm đông ở Paris có thể kéo dài 8 đến 9 tiếng với nhiệt độ dưới 0 độ C. Với mức nhiệt này, chỉ một viên gạch chắc chắn không thể đủ giữ ấm cho một người trong suốt đêm dài.
Ngoài ra, vào thời điểm đầu thế kỷ 20, Paris tuy c̣n nhiều người nghèo nhưng cũng đă có các hệ thống sưởi tối thiểu, từ ḷ đốt than cho đến ḷ gas đơn giản trong các khu nhà trọ. Sinh viên nghèo thời đó thường dùng những h́nh thức này thay v́ những phương pháp nguyên thủy như nung gạch. Hơn nữa, giá than và củi không quá đắt đến mức phải chọn cách nung gạch như một phương tiện chính để sưởi ấm.
Từ góc độ lịch sử dân gian, câu chuyện viên gạch nung thực chất không phải là điều xa lạ ở châu Âu. Tại Pháp, từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, người dân nghèo ở vùng nông thôn thường dùng các viên "briques chauffées" để giữ ấm cho giường ngủ trong những đêm lạnh. Họ nung viên gạch hoặc viên đá nhỏ trong ḷ, rồi bọc trong vải nhiều lớp và đặt dưới giường. Đây là tập tục dân gian khá phổ biến, được ghi nhận trong nhiều sách sử sinh hoạt đời thường châu Âu.
Do vậy, nhiều khả năng khi Nguyễn Ái Quốc sinh sống ở Paris, ông có thể đă nghe những câu chuyện này từ người dân lao động Pháp, hoặc đọc được trong các tài liệu phổ biến lúc bấy giờ, và câu chuyện đă được kể lại với mục đích nhấn mạnh sự khổ luyện và tinh thần vượt khó. Cũng không loại trừ khả năng các nhà viết tiểu sử sau này đă mượn mô-típ này để xây dựng một h́nh tượng đầy cảm xúc nhằm mục đích tuyên truyền.
Tóm lại, xét về cả thực tiễn vật lư lẫn bối cảnh sinh hoạt thời bấy giờ, câu chuyện về viên gạch hồng sưởi ấm của Hồ Chí Minh có nhiều dấu hiệu là một sự thêu dệt hoặc phóng đại dựa trên chất liệu dân gian châu Âu, chứ không hoàn toàn phản ánh đúng thực tế lịch sử.
Tài liệu tham khảo
"Quest for a Toasty Warm Bed", bài viết về tập tục dân gian sử dụng viên gạch nung để giữ ấm trong lịch sử châu Âu, Heroes, Heroines, and History, 2023
"Chaufferette", mục từ về dụng cụ giữ ấm truyền thống tại Pháp, Wikipedia tiếng Pháp
"The History of Heating" trong sách "Everyday Life in the 19th Century" xuất bản bởi Routledge, 2018
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Hăy Thức Dậy Trong Tư Duy, Đừng Quên Chính Ḿnh
Có một thực trạng âm thầm mà đau ḷng trong cộng đồng người Việt tại Mỹ. Một bộ phận người Việt, sau nhiều năm sinh sống nơi đất khách, đă dần h́nh thành trong tâm trí ḿnh một cảm giác kỳ lạ. Họ tự cảm nhận bản thân như thuộc về tầng lớp thượng lưu da trắng, bênh vực những chính sách cứng rắn của chính phủ đối với người da màu, người nhập cư khác.
Khi những chính sách đàn áp dân chủ, siết chặt nhập cư, hay cắt giảm an sinh xă hội được ban hành, họ không những không buồn, mà c̣n lấy làm hả hê. Họ đánh giá những người nghèo khổ đang cần giúp đỡ là những kẻ ăn bám nước Mỹ, đáng bị loại bỏ khỏi hệ thống hỗ trợ xă hội.
Trong những khoảnh khắc đó, họ quên mất chính h́nh ảnh thật của ḿnh. Quên rằng, dù có quốc tịch Mỹ, họ vẫn là người da vàng, mắt đen, mũi tẹt trong ánh mắt của những sắc dân bản xứ khác. Quên rằng, những ngày đầu đặt chân lên đất Mỹ, phần lớn gia đ́nh người Việt đă dựa vào chương tŕnh trợ cấp xă hội, vào những đồng tiền an sinh mà nước Mỹ rộng lượng ban phát, để được có cơ hội học tập, gây dựng lại cuộc đời sau chiến tranh và lưu vong.
Họ quên rằng, những thành tựu hôm nay của họ, từ tấm bằng đại học cho đến căn nhà ấm cúng, đều ít nhiều có dấu ấn của ḷng nhân ái nước Mỹ dành cho những người đi t́m tự do. Và trên hết, họ quên mất một điều căn bản, rằng người Việt tại Mỹ măi măi là người di dân. Dù có ḥa nhập đến đâu, dù thành công đến mức nào, chúng ta vẫn là những người bước đến từ một quê hương khác, mang theo lịch sử, thân phận và kư ức không thể chối bỏ.
Hăy nhớ, tự trọng không nằm ở việc phủ nhận quá khứ, mà ở chỗ biết trân trọng hành tŕnh ḿnh đă đi qua. Hăy nhớ, người Việt chúng ta là di dân, là những con người từng nhờ ḷng bao dung của nước Mỹ để vươn lên. Và ḷng biết ơn, sự sẻ chia với những người nghèo khổ hôm nay, cũng chính là ḷng biết ơn đối với những ngày tháng mà chính chúng ta từng được nước Mỹ mở rộng ṿng tay che chở.
__________________
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
DIỄU HÀNH, ÁNH SÁNG HÀO NHOÁNG GIỮA BÓNG TỐI CỦA NỖI LO
Trong những ngày gần đây, người ta dễ dàng bắt gặp những cuộc diễu hành, duyệt binh, lễ hội rầm rộ được tổ chức ở Việt Nam. Hàng ngàn người tham gia, đồng phục chỉnh tề, cờ hoa bay phấp phới, các h́nh ảnh này phủ khắp các mặt báo và mạng xă hội chính thống.
Nh́n bề ngoài, đó là những sự kiện thể hiện "niềm tự hào dân tộc", "tinh thần yêu nước", "h́nh ảnh đất nước ổn định và phát triển".
Nhưng nếu lắng lại và nh́n sâu hơn, chúng ta sẽ thấy những câu hỏi lớn đang hiện lên sau những thước phim hào nhoáng đó.
Tại sao những nước như Bắc Hàn, Venezuela, Cuba, thậm chí Liên Xô trước đây, dù đời sống người dân vô cùng khó khăn, đói khổ, vẫn tổ chức những cuộc diễu hành cực kỳ hoành tráng?
Đó không phải ngẫu nhiên. Đó là một chiến lược tâm lư xă hội đă được áp dụng lặp đi lặp lại trong nhiều thể chế toàn trị: tạo ra một ảo giác về sức mạnh và ổn định để làm lu mờ thực tại của đói nghèo, bất công và bất ổn.
1. Tâm lư của chính quyền khi tổ chức diễu hành rầm rộ.
Trong bối cảnh kinh tế gặp khủng hoảng ngầm, xă hội tiềm ẩn nhiều bất ổn, sự bất măn âm ỉ trong ḷng dân chúng có thể bùng phát bất kỳ lúc nào. Để đối phó, thay v́ đối diện trực tiếp bằng cải cách, minh bạch hóa, hoặc chia sẻ khó khăn với người dân, một số chính quyền chọn cách khuếch đại h́nh ảnh ổn định, mạnh mẽ, đoàn kết bằng những sự kiện quy mô lớn.
Tâm lư đằng sau đó rất rơ ràng:
Dùng h́nh ảnh đám đông ḥ reo, chỉnh tề để trấn an dân chúng rằng "mọi thứ vẫn đang vận hành tốt".
Đánh vào cảm xúc tập thể, gây cảm giác tự hào ngắn hạn, từ đó làm dịu bớt những lo âu, bức xúc.
Chuyển hướng chú ư của quần chúng khỏi những vấn đề nóng như lạm phát, thất nghiệp, nợ công, giáo dục y tế xuống cấp.
Ngầm nhắc nhở người dân về sức mạnh tổ chức của nhà nước, củng cố h́nh ảnh "khó lay chuyển".
2. Hiệu ứng đánh lạc hướng tâm lư đám đông
Một cuộc diễu hành với hàng vạn người không chỉ đơn giản là một buổi lễ. Nó tạo ra một hiệu ứng đám đông rất mạnh v́ khi tất cả cùng khoác lên một bộ đồng phục, cùng giơ cao khẩu hiệu, cùng bước đều trong tiếng trống rền vang, cá nhân sẽ dễ dàng đánh mất cái nh́n độc lập, dễ bị cuốn theo cảm xúc tập thể.
Trong khoảnh khắc đó, cái đói, cái nghèo, nỗi bất công cá nhân bị tạm thời đẩy lùi ra khỏi tâm trí, nhường chỗ cho cảm giác ḿnh đang là một phần của một đại cuộc lớn lao. Chính quyền cần những khoảnh khắc đó để tiếp tục duy tŕ sự kiểm soát trong bối cảnh khó khăn.
3. V́ sao diễu hành xuất hiện
nhiều hơn trong giai đoạn này?
V́ bất ổn xă hội đang lớn dần.
V́ kinh tế Việt Nam đang đối diện với những thách thức ngày càng gay gắt: nợ xấu ngân hàng, doanh nghiệp phá sản, thất nghiệp ngầm, lạm phát đời sống.
V́ niềm tin xă hội vào hệ thống chính trị, vào truyền thông chính thống ngày càng xói ṃn.
Khi ḷng tin giảm sút, nhu cầu "khoe ra sự ổn định" bằng h́nh thức bề ngoài càng trở nên cấp thiết.
4. Hệ quả lâu dài
Diễu hành có thể che lấp thực tại trong chốc lát, giống như phủ lớp sơn bóng lên một bức tường đang mục nát. Nhưng thực tế đời sống không thể được duy tŕ măi bằng những cuộc duyệt binh.
Khi những h́nh ảnh hào nhoáng dần mất đi sức thuyết phục, và những nỗi lo đời thường ngày càng hiện hữu, sự vỡ mộng sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Một xă hội cần sự trung thực, cải cách thực chất và tiếng nói của nhân dân, chứ không phải những sân khấu đông người được dàn dựng công phu.
5. Một lời nhắn gửi nhẹ nhàng
Tiếng trống rộn ră có thể làm người ta say mê trong phút chốc, nhưng sau tiếng trống, bụng đói vẫn cồn cào, nỗi lo vẫn hiện hữu.
Chỉ khi đối diện thẳng thắn với sự thật, tôn trọng dân trí, cải cách thực chất, mới có thể xây dựng một đất nước vững mạnh thật sự.
Những tiếng cười chân thành trên gương mặt tự do bao giờ cũng đẹp hơn một ngàn hàng quân diễu hành theo nhịp bước g̣ bó.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.