
40 năm trước tôi dắt vợ và hai đứa con nhỏ vào Nam. Thời ấy vừa ra khỏi quân ngũ, gầy trơ xương. Lương tháng làm cho nhà máy khoảng 50k, mỗi kỳ lương mua bao gạo 50kg, can nước mắm và vài kg cá khô, vậy là ổn.
Tôi thuê một căn nhà nhỏ, một nửa chủ chứa củi, nước th́ gánh dưới sông lên.
Xóm đa số là người Nam, họ nh́n chúng tôi thiếu thiện cảm. Vài tháng sau hai đứa con tôi chuyển giọng Sài G̣n, tôi trợn mắt hỏi lư do, chúng bảo nói tiếng Bắc bạn không chơi.
Thỉnh thoảng có đám trẻ nghịch ngợm ném đá vào cổng rồi chửi : Bắc kỳ ăn cá rô ki rồi chạy tán loạn.
Má chủ nhà là một người hiền hậu, tóc c̣n đen, chải ngôi giữa. Chồng má có học, nhưng bị liệt phải ngồi xe lăn. Nhà má có cây mận trắng um tùm trĩu quả. Nhà má sạch sẽ ngăn nắp. Mấy anh con má lớn tướng nhưng khi có lỗi là phải nằm trên bộ ván gơ, chồng má ngồi xe lăn cầm cây roi dài. Không một tiếng la mắng, chỉ nghe tiếng roi quất, đủ th́ thôi, không ai dám can.
Tới bữa cơm, mỗi người bới một tô rồi ra ngồi đâu tùy hứng, điều này với người Bắc rất lạ.
Trong xóm nhiều phụ nữ son phấn và chải chuốt. Có nhà có năm người con, các cô cậu không phải làm ăn ǵ, hỏi ra mới biết, họ đang chờ xuất cảnh.
Người Nam vốn sống vô tư, xởi lởi, có anh vác cần câu ra sông, được vài con tôm càng xanh béo mập là thu cần về, gầy độ nhậu đă, mai tính.
Tôi làm cùng hăng với một anh, cha mẹ giàu đă xuất cảnh, để lại cho anh căn nhà lớn. Nhà anh có cây xoài cổ thụ tán rợp sân. Anh ham nhậu và đăi đằng bạn bè, khi mang nợ, anh bán dần từng pḥng cho một anh trưởng pḥng gốc Bắc. Rồi cuối cùng anh giăng vơng dưới gốc xoài ngủ. Tới Tết do bị thúc nợ, anh đành bán nốt cái sân cùng cây xoài thần thánh rồi đi thuê pḥng trọ. Gặp nhau, anh vẫn vẫy tay mời nhậu, chỉ hai quả xoài với chai đế Bến gỗ là xong.
Tôi hay ghé nhà mấy anh đồng nghiệp chơi, người Nam không đành hanh, đáo để hoặc lợi dụng bạn bè, có anh c̣n cẩn thận dặn tôi : đừng nhắc tới từ ngụy quân, ngụy quyền trước mặt ông già tui nha, ổng vốn là cựu chiến binh chế độ cũ đấy!
Cứ đến ngày lễ, người Nam lên Đà Lạt hoặc ra Vũng tàu, tiêu vào chỉ vàng là b́nh thường. Họ rất lành nghề, chịu khó tuy không giỏi về lư thuyết như kỹ sư Bắc. Hết giờ làm việc, anh nào cũng áo quần ủi phẳng phiu, tóc chải mượt, ph́ phèo điếu thuốc lá thơm, dù nhiều anh gia cảnh không khá giả, có anh c̣n tá túc ở khoảng gầm cầu thang chung cư chật chội. Đôi lúc họ cũng nhắc đến thời vàng son, ḥn Ngọc Viễn đông, vài tiếng thở dài tiếc nuối. Hăng tôi làm đa số là dân kỹ thuật chế độ cũ, có người được Mỹ đào tạo bài bản. Mỗi lần điểm danh thấy vắng vài người, tôi hỏi họ đâu, có tiếng th́ thầm vào tai tôi: vượt biên rồi.
Rồi thế sự vật đổi sao rời, đất nước đổi thay, tôi thấy trong ḿnh ḍng máu Nam bộ đang chảy. Nơi này làm ăn đầy những bất ngờ, lên voi xuống chó là chuyện thường. Thấy kẻ phất lên, ngựa xe tấp nập chẳng lạ ǵ, những kẻ ngă ngựa cũng không hiếm. Chất Nam bộ vẫn c̣n đó, tính cách lăng tử, hào hiệp không nhỏ nhen, hèn mọn, mặc dù dân tứ xứ đổ về từ khắp nơi.
Tôi lăn lộn trong đời sống Nam bộ mấy chục năm rồi, giống như con cá nhỏ bé lên xuống theo sóng thủy triều.
Năm 2000, tôi có xây một resort ngay cạnh nơi mà tôi và vợ con tá túc khi lần đầu vào SG. Tôi bất ngờ gặp lại bà má cho thuê nhà năm xưa. Má nhận ra và hỏi tôi : anh đi câu cá hay hát karaoke ở đây à?
Sau khi tôi lên cắt băng Khánh thành cùng đại diện UBND tỉnh, má di lên trán tôi : tổ cha bây, khá giả th́ má mừng, chớ má có vay mượn ǵ anh đâu mà phải giấu !