CUỘC TRIỆT THOÁI BI THẢM CỦA QLVNCH KHỎI CAO NGUYÊN NĂM 1975 !
Liên tỉnh lộ 7B từ Pleiku xuống Tuy Hòa. (Hình: Tài liệu)
KẾT CỤC BI THẢM
Về cuộc di tản hỗn độn và đầy chết chóc của quân và dân Vùng 2 Chiến Thuật trên liên tỉnh lộ 7B từ Pleiku về Tuy Hòa, nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, trong bài viết nhan đề “44 Năm Sau, Nhìn Lại Mối Đau” đăng trân nhật báo Người Việt, kể lại:
- “Súng nổ… 105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng Sản, tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng…
Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một viên đạn.
Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang.
Xác người tung lên theo đất bay bay…”
Bà mẹ mất con tại Tuy Hòa. Ngày 25 – 3 – 1975
Theo “Cuộc Di Tản Đầy Máu và Nước Mắt” của Mũ Xanh Lưu Văn Phúc trên trang mạng aihuubienhoa.com, chỉ có xấp xỉ 60,000 người dân đến đích, trong khi hai phần ba trong số người dân di tản, tức hơn 100,000 người, bị chết hoặc bị thương phải bỏ lại dọc đường.
Về phía quân đội, gồm khoảng 20,000 quân tiếp vận và yểm tợ, chỉ còn 5,000 người đến nơi.
Sáu tiểu đoàn Biệt Động Quân, gồm 7,000 người, chỉ còn 900 người đến trình diện Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 2 ở Nha Trang.
Theo “The World Almanac of The Viet Nam War,” các kho đạn dược và quân nhu tại Kon Tum và Pleiku đã bị bỏ ngỏ, và tất cả quân trang, quân dụng cũng như vũ khí trị giá khoảng $253 triệu đều lọt vào tay Cộng Quân.
Cuộc lui binh của Quân Đoàn 2 trên liên tỉnh lộ 7B được coi là một cuộc lui binh bi thảm nhất trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Liên tỉnh lộ 7B từ đó được mệnh danh là “Hành Lang Máu,” con đường đầy nước mắt và xương máu của quân và dân Quân Khu 2 trong suốt chín ngày đêm từ Pleiku xuống Tuy Hòa.
LỊCH SỬ LÊN TIẾNG
Ngay sau khi Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay Cộng Sản, vào ngày 30 Tháng Tư, 1975, nhiều người Việt Nam trong và ngoài nước và dư luận tại nhiều nơi trên thế giới đã cho rằng :
Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về việc Sài Gòn sụp đổ, bởi vì kế hoạch rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần – và sau đó là Quân Đoàn 1 tại miền Bắc Trung Phần – của vị tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại thê thảm.
Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại Vạn Ninh, Ninh Hòa.
Những người dân chỉ có vài món đồ trên lưng , tức tưởi dẫn gia đình trốn chạy cộng sản
Sau biến cố đau thương này của đất nước, [b]việc giải mã các bí ẩn lịch sử ở hai bên bờ Thái Bình Dương dần dần cho thấy cái thế tất yếu của lịch sử không cho phép Việt Nam Cộng Hòa tồn tại lâu hơn cột mốc 1975 , cho dù ông Thiệu và các tướng lãnh trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, kể cả Đại Tướng Cao Văn Viên và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, có thành công đưa được chủ lực quân của Quân Đoàn 2 an toàn về Nha Trang tại Vùng 2 Chiến Thuật hay Sài Gòn tại Vùng 3 Chiến Thuật.
Cụ thể là, để duy trì một cuộc chiến tranh chống du kích với quy mô lớn lao như hồi thập niên 1970, chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa cần phải có ít nhất, tức tối thiểu, là $1 tỉ kinh viện và quân viện từ bên ngoài, trong khi kinh viện và quân viện của Mỹ cho năm 1975 đã bị Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm từ mức $700 triệu xuống chỉ còn $300 triệu, và rồi sẽ bị cắt đứt hẳn nếu chiến tranh còn kéo dài sang năm sau.
Dẫu sao, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và luôn cả Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cùng với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Vùng 2 Chiến Thuật, đều đáng bị chê trách vì đã tổ chức một cuộc lui binh tồi tệ nhất trong lịch sử Chiến Tranh Việt Nam.
Thật ra, các thông tin và tài liệu có được trước và sau Tháng Tư, 1975, cho thấy ông Thiệu và Tướng Viên cùng với Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Thiệu, đã từng thảo luận về một kế hoạch “co cụm” lãnh thổ – gọi là chiến lược “nhẹ đầu, nặng đuôi” – để Việt Nam Cộng Hòa có thể đủ ngân sách mà tồn tại thêm một thời gian từ ba đến năm năm nữa.
Bởi vì chính phủ VNCH đã “đánh hơi” thấy được chuyện Quốc Hội Mỹ thế nào cũng cắt giảm hoặc chấm dứt kinh viện và quân viện cho miền Nam Việt Nam một khi quân tác chiến Mỹ và các tù binh chiến tranh của họ đã an toàn hồi hương sau khi Hiệp Định Paris được ký kết hồi năm 1973.
Theo kế hoạch dự trù này, chậm nhất là hai năm sau ngày ký Hiệp Định Paris, chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải tự ý rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần và vùng duyên hải Bắc Trung Phần, tức Quân Khu 1 và Quân Khu 2, để tập trung về giữ phần lãnh thổ còn lại của miền Nam Việt Nam, tức là chỉ bao gồm các tỉnh thuộc Vùng 3 và Vùng 4 Chiến Thuật, cụ thể là từ Qui Nhơn hay Nha Trang tới Cà Mau mà thôi, nhằm tiết kiệm tiền bạc và thu nhỏ phạm vi phòng thủ của quân đội, với hy vọng Việt Nam Cộng Hòa sẽ có được một cơ may nào đó giúp mình tiếp tục tồn tại, như khả năng có tiền nhờ khai thác được dầu hỏa ngoài Biển Đông (Biển Nam Hoa) chẳng hạn.
Nhưng cả Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cứ chần chờ mãi mà không cho thực hiện chiến lược “nhẹ đầu, nặng đuôi” nói trên, có lẽ cả hai vị vẫn còn chút hy vọng rằng sẽ có những biến chuyển chính trị thuận lợi hơn tại Mỹ khi đảng Cộng Hòa giành lại được quyền kiểm soát Quốc Hội từ tay đảng Dân Chủ.
Họ thừa biết rằng đảng Cộng Hòa có khuynh hướng diều hâu nên không dễ gì chịu thua phe Cộng Sản tại Việt Nam, và rằng Quốc Hội Mỹ lúc đó sẽ có thể tiếp tục, không nhiều thì ít, tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa để giữ vững miền Nam Việt Nam.
Một lý do khác, có phần thầm kín hơn, là Tổng Thống Thiệu đã bị kẹt cứng vì lời thề “không nhường đất cho Cộng Sản” trong chủ trương “ 4 Không ” vốn là quốc sách trước và sau khi Việt Nam Cộng Hòa đặt bút ký vào Hiệp Định Paris 1973.
Thế rồi, khi Cộng Sản Bắc Việt khởi sự cuộc tấn công sau cùng để thôn tính Miền Nam Việt Nam qua việc đánh chiếm Ban Mê Thuột (ngày 12 Tháng Ba, 1975), Tổng Thống Thiệu và Tướng Viên mới gấp rút thực hiện kế hoạch “co cụm” đó, nhưng mọi sự đã quá trễ đi rồi.
Hơn nữa, các học viện quân sự lớn trên thế giới (trong đó có cả Trường Bộ Binh Thủ Đức và Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) đều cho rằng “ lui binh ” là một chiến thuật hết sức khó thực hiện và rất hiếm khi thành công nếu không có sự chuẩn bị chu đáo.
HỒI KÝ : TRẬN ĐÁNH TẠI CHI KHU THIỆN GIÁO - THÁNG 4 /1975
HỒI KÝ : TRẬN ĐÁNH TẠI CHI KHU THIỆN GIÁO - THÁNG 4 /1975
Hình ảnh cuối cùng trong những ngày hấp hối tháng 4 /1975 của NQ /BÌNH THUẬN
Sau hồi ký “Vượt biên đường bộ” , 2015 , Bằng được ủy thác, vinh dự góp tay viết về trận đánh tại quận Thiện Giáo, thuộc tỉnh Bình Thuận trong tháng 4 năm 1975 theo lời kể của một vị sĩ quan Quân Lực – Việt Nam Cộng Hòa (QL- VNCH).
Bài viết được trình bày qua hình thức hồi ký. Tác giả cho biết sau nhiều đề nghị từ các anh em đồng đội từng sát cánh chiến đấu, các con cháu, luôn yêu cầu ông nên kể lại. Ngoài mục đích di sản cho thế hệ sau về những chiến thắng oai hùng của cha ông trong công việc gìn giữ, bảo vệ đất nước, chống lại sự xâm lược của cộng sản (cs.) vô thần, ông còn mong như đóng góp nhỏ trong việc phản bác những lời nói vô trách nhiệm của cựu Tổng thống Hoa Kỳ, George W. Bush (Junior)* khi cho rằng :
- " QL – VNCH không chịu chiến đấu " thay vì ông ta nhìn nhận để miền nam tự do rơi vào tay cộng sản đa phần là do các chính trị gia Mỹ.
Phát biểu nông cạn thực đáng trách của ông Bush tạo ra những bực bội cho nhiều người lính của chúng ta, dù cuộc chiến đã tàn từ lâu.
Cá nhân ông và các đồng đội đã hy sinh tuổi thanh xuân, chiến đấu hết mình cho tới khi miền nam thân yêu bị bức tử, vận nước chấm dứt.
* Cựu Tổng thống Bush phát biểu trong một cuộc phỏng vấn.
Câu truyện đồng thời cũng ước mong như những đóa hoa thơm, thân thương gởi đến các chiến sĩ Địa Phương Quân - Nghĩa Quân (ĐPQ & NQ) của QL - VNCH trên mọi miền giới tuyến, đã nhiều phen đóng góp xương máu cho đất nước... nhưng luôn bị lãng quên, ít được đề cập tới.
- Về chiến thắng Thiện Giáo, dẫu muộn màng, nên được kể và ghi lại trong trang sử liệu đấu tranh can trường của QL-VNCH.
Trận chiến này ngoài ĐPQ & NQ thuộc tiểu khu Bình Thuận, còn có thêm ít binh lính từ các binh chủng khác như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, TQLC, ... di tản về sát nhập chung, tình nguyện chiến đấu.
Ở vào thời điểm khi vùng 1, vùng 2 tan rã, tình hình nhiều tuyệt vọng.
Chi khu TG. cho gia đình binh sĩ, vợ con quân nhân các cấp di tản trước, riêng các chiến binh, những người chồng, người cha ở lại sẵn sàng chờ địch tới.
Dù biết có thể phải hy sinh bản thân, mọi người quyết bảo vệ vùng trách nhiệm được giao phó. Nghĩ lại, thật hãnh diện.
Theo nhận xét của người viết, mặc dù ngoài 80, nhưng với trí nhớ minh mẫn, nhiều chi tiết tường thuật rõ ràng vì chính ông là người tham chiến, giữ trọng trách chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ chi khu.
Ông cho hay TĐ 230/ĐPQ được tiểu khu Phan Thiết bố trí ngăn địch tại tuyến đầu tức chi khu Thiện Giáo và cuộc đụng độ nặng cuối cùng nổ ra trong tháng tư, chống trả lại 2 trung đoàn việt cộng, trận đánh rất ác liệt và kéo dài khoảng 3 ngày.
Với quân số chỉ hơn 1 tiểu đoàn, các chiến sĩ ĐPQ & NQ đã anh dũng, chặn đứng, đẩy lui nhiều đợt tiền pháo hậu xung của địch , và rất may mắn chỉ một vài người bị thương nhẹ, cả tiểu đoàn hầu như vô sự.
Chiến thắng đầy tự hào cuối đời binh nghiệp này cũng đã được ghi lại trong trí nhớ của nhiều người dân Bình Thuận.
Ông “Anh Ba” , ở cương vị chỉ huy trưởng chiến trường, mặt trận Thiện Giáo, cung cấp thêm nhiều chi tiết về trận đánh này.
– Tiểu sử về U-80, “ Anh Ba ” , tức Đại úy Mai Vi Thành, nguyên quán Sa Châu, huyện giao Thủy, Nam Định, xuất thân khóa 4 Đồng Đế, ra trường ông phục vụ tại các đơn vị tác chiến quân khu II.
Qua nhiều thăng trầm, vào thời điểm trước tháng tư 1975, vì là lính trận chuyên nghiệp, được giao lại quyền Tiểu đoàn trưởng (TĐT)- TĐ 230/ĐPQ kiêm Xử Lý Thường Vụ Chi khu trưởng Thiện Giáo.
Sau khi tan hàng 30-4, vc. thù dai, liệt ông vào thành phần “ ác ôn ” , và chuyển giao ông ra bắc, ở tù qua các trại như Hoàng Liên Sơn, số 5 Thanh Hóa… từ 1975- 1982, vượt biên định cư Hoa Kỳ 1983. (See note update)
- Anh Ba cũng là con nuôi cũa Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, QL - VNCH, vị tướng công chính thanh liêm, người đã tuẫn tiết trong ngày 30-4-1975 tại bản doanh, căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho.
HỒI KÝ : TRẬN ĐÁNH TẠI CHI KHU THIỆN GIÁO - THÁNG 4 /1975
Vào truyện …
“ Giọt mưa Cali rớt vào ký ức
Lăn hồn ta về với núi với rừng
Gặp lại anh em tháng ngày thao thức
Hể hả cười… cùng khói lửa rưng rưng”
Thơ Trạch Gầm (Theo mưa đến thăm cà phê lính)
TRẬN ĐÁNH THIỆN GIÁO (TG.) THÁNG 4 , 1975
Khoảng đầu tháng 4, 1975, sau khi Ban Mê Thuật thất thủ, quân đoàn 2 hầu như tan rã và sát nhập vào quân đoàn 3 theo lịnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Mục tiêu quân sự của Hà Nội đã quá rõ ràng, cánh quân Duyên Hải, Trung đoàn 18 thuộc Quân đoàn 2 cộng sản đang tạo áp lực, chuẩn bị tấn công Phan Rang từ phía đông bắc, sau đó dọc theo đường Quốc lộ (QL) số 1 tiếp tục hành quân về phía Nam, với mục tiêu kế tiếp tiến vào địa bàn tỉnh Bình Thuận, xuống chiếm lấy tiểu khu Phan Thiết.
Tuy nhiên vì tình hình dân chúng từ vùng I và II bắt đầu di tản ngày càng đông trên quốc lộ 1, có thể không hẳn thuận lợi về mặt chiến thuật nên địch mở thêm mặt trận từ hướng tây, phía bắc tiểu khu Phan Thiết, nhằm khai thông đường tỉnh lộ 8.
Nỗ lực ở mặt này, thì bằng mọi giá, phải dứt điểm Chi khu Thiện Giáo, vì đây là cứ điểm phòng thủ quan trọng để vào Phan Thiết.
Cùng lúc, nơi mặt tây nam, tiến đánh Định Quán , rồi từ QL. 20 để vào mặt trận lớn hơn là tiểu khu Long Khánh, vòng đai phía bắc, nơi sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Đảo phòng ngự, bảo vệ cửa ngõ Sài Gòn.
Riêng mũi tấn công vô Thiện Giáo, vì là mặt trận then chốt, hầu như địch tập trung toàn lực lượng vũ trang quân khu 6 trên các cao nguyên Lâm Đồng, Bảo Lộc đưa xuống đồng bằng, đem vào trận.
Trận đánh tại chi khu TG bắt đầu lúc 3 giờ sáng, khoảng ngày 11, 12 tháng 4 năm 1975, và trong 3 ngày giao tranh, với nhiều đợt tấn công biển người, việt cộng (vc.) đều bị chặn đứng và đánh cho tan tác trên các cứ điểm, có thể nói là thảm bại, thiệt hại nặng mặc dù [/i][/color][/size][/b]quân số và vũ khí vượt trội gấp 5, 7 lần.
Ghìm được chân lực lượng lớn của địch tại đây là niềm tự hào, của tiểu đoàn 230/ĐPQ & NQ , cùng tất cả quân dân cán chính thuộc chi khu TG.
Nhưng khi đất nước lâm nguy, lãnh thổ hỗn loạn, rồi miền nam bị bức tử ! chiến thắng này lại ở giai đoạn gần… đứt phim , nên theo dòng thời gian đi vào quên lãng, hầu như không ai nhắc tới, chỉ được truyền thông để ý đến cách hời hợt, chung chung sau này.
Thiện Giáo nằm trên tỉnh lộ 8,
- Phía Tây Nam sát mật khu Tam giác
- Phía đông là quốc lộ 1 và mật khu Lê Hồng Phong
- Tây bắc có dãy Trường Sơn và mật khu Đăng Gia, phía nam là thị xã Phan Thiết.
Quận TG. có hơn mười xã như :
- Tân An
- Bình An
- Hòa Tân
- Tân Thành... ngoài 1 xã hay khu trù mật của người bắc di cư với tinh thần chống cộng cao được thành lập từ thời Tổng thống Diệm, thì tất cả những xã khác đều là vùng xôi đậu.
Chi khu Thiện Giáo, theo tầm nhìn chiến thuật là cứ điểm quan trọng, cái gai phải nhổ của vc. để tràn xuống phía nam, nên không bao giờ yên ổn, nơi đây với nhiều trận đánh đẫm máu liên miên của cả hai phía, lớn có, nhỏ có, không ngưng nghỉ.
Có câu :
- ” Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận ”, cọp thì không thấy nhưng ma quỷ là bọn giặc du kích thì đầy , chúng từ các mật khu luôn ra uy hiếp, quấy rối, giành dân, có nơi một vài xã, vc. đã thành lập được cả cơ sở nằm vùng.
Nhiều đời quận trưởng TG. đã bị tử nạn bởi phục kích, bị pháo, đánh lén, đánh úp**. Thiện Giáo hiền hòa, nhỏ bé, nhưng như một khiêu khích quá hiển nhiên, lộ liễu với các anh mật khu bao quanh nên thường bị đặc công quấy rối. [b][size=4][color=blue][i]
Vấn đề an ninh thiệt ớn óc !
Bởi vậy, cầm sự vụ lệnh trong tay về bình định quận TG. vị chỉ huy cần có mưu lược tài trí. Có lẽ chỉ có 2 loại người :
- Loại to gan, lớn mật, và loại sau, thê thảm hơn, bị… đì.
HỒI KÝ : TRẬN ĐÁNH TẠI CHI KHU THIỆN GIÁO - THÁNG 4 /1975
LỰC LƯỢNG VÀ PHỐI TRÍ : VNCH KHOẢNG 1.200 QUÂN
Sơ đồ phòng thủ Chi Khu Thiện Giáo
TĐ 230/ĐPQ có 5 Đại đội (ĐĐ) cơ hữu gồm :
- 1 ĐĐ chỉ huy công vụ
- 4 ĐĐ tác chiến và 2 ĐĐ biệt lập (tăng phái), thêm 7 trung đội nghĩa quân.
Ghi chú thêm về NQ của tiểu khu Phan Thiết, đặc biệt chi khu TG trong khoảng thời gian dài 20 năm ròng rã, sống mái với việt cộng để bảo vệ địa phương của họ, những người lính nghĩa quân nơi đây dạn dày kinh nghiệm và rất thiện chiến, họ đã nhiều phen gây tổn thất nặng cho đối phương, ghi nhiều chiến công.
- 1 trung đội Cảnh sát dã chiến.
- 1 đoàn cán bộ Xây Dựng Nông Thôn (lực lượng áo đen)
Chỉ huy trưởng mặt trận là Tiểu đoàn trưởng (TĐT) - Tiểu đoàn (TĐ) 230/ĐPQ kiêm xử lý thường vụ chi khu trưởng chi khu Thiện Giáo, Đại úy Mai Vi Thành, tức Thành Râu, tuy nhiên các chiến hữu và dân chúng Phan Thiết hầu như ai biết ông, đều thân thương gọi "Anh Ba".
Anh Ba vốn là cựu TĐT- TĐ 202/ĐPQ đóng tại Cây Táo, trên Quốc lộ 1, nhưng theo yêu cầu của các binh sĩ TĐ 230, được tiểu khu điều động về thế người tiền nhiệm là Thiếu Tá Thổ Thiêm, . người gốc Chàm, một vị đức độ, can đảm, chỉ huy giỏi, nhưng phải giải ngũ sau 3 lần lưu ngũ.
.
- Tiểu đoàn phó 230/ĐPQ là Đại úy Trần Đăng Thiệt , vì 230 phải chuyển sang phòng ngự, bảo vệ khu vực nên ngoài các Đại đội trưởng, phó, tương đối còn đầy đủ nhân sự các phòng ban 1,2,3,4,5 và truyền tin.
PHÍA ĐỊCH :
Theo nhiều tin tình báo ở thời điểm này, tuy không đủ thời gian kiểm chứng chính xác, nhưng qua khai thác tù binh được biết, quân số ước lượng vào khoảng 2 trung đoàn của lực lượng vũ trang quân khu 6, hơn 5,000 quân ?
Với toàn bộ du kích miền cao nguyên 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, trong đó Trung đoàn 812 là nỗ lực chính, và 1 trung đoàn tân lập, được điều động vào trận nhằm dứt điểm quận Thiện Giáo, xóa sổ TĐ 230.
Ngoài pháo binh với đầy đủ đạn dược tiếp vận từ mật khu, loại xe tăng V100 được ngụy trang thành T54 khá đe dọa tâm lý, mặc dù sau đó người lính ĐPQ - NQ. TĐ 230 đã chứng tỏ cho thấy dù địch có xe tăng nhưng cũng không làm khó được họ.
PHỐI HỌP :
Chi khu Thiện Giáo phối hợp hàng ngang với chi khu Định Quán, địa đầu của tỉnh Xuân Lộc. Địch tấn công Định Quán cùng lúc với chi khu TG. Thiếu Tá Lê văn Chánh, cũng là người bạn thân của anh Ba, nắm quận trưởng kiêm chi khu trưởng Định Quán đã anh dũng tử trận.
Việt cộng dùng pháo 100 ly trên xe tăng T59, bắn trực xạ vào hầm chỉ huy sau khi chúng loa gọi nhưng ông thà chết không hàng . Thiếu Tá Chánh hy sinh lúc đang liên lạc vô tuyến với trưởng chi khu TG.
HỒI KÝ : TRẬN ĐÁNH TẠI CHI KHU THIỆN GIÁO - THÁNG 4 /1975
Lúc 3 giờ sáng khoảng ngày11, 12. Với quyết tâm “giải phóng” TG hay cứ điểm Ma Lâm , vc mở màn bằng trận pháo mù mịt vào tất cả mọi vị trí, công sự các đại đội, đặc biệt quả pháo 155 ly đầu tiên rót vào bộ chỉ huy tiểu đoàn , được báo cáo là chui xuống gầm xe của anh Ba nhưng... không nổ.
Sau cơn mưa pháo, địch tổ chức nhiều đợt tấn công biển người, chúng vừa phát loa kêu gọi đầu hàng, vừa ồ ạt đánh vào từ mọi mặt đông tây nam bắc nhằm cắt rời các đại đội ra, không tiếp ứng được nhau.
Mặt tây bắc của Đại đội 2 (ĐĐ2) do Trung úy Sanh trách nhiệm chịu áp lực nặng nhất bởi vị trí phòng thủ nằm án ngữ nơi trục giao thông chính của liên tỉnh lộ 8, tuy nhiên, như 1 phép lạ, quân trú phòng vẫn đứng vững sau nhiều phen bị cường tập VC .
Sau mỗi đợt pháo luôn cố gắng tràn ngập nhưng lần nào cũng [size=4][color=red]“chém vè” [/size[/b], phải rút ra với tổn thất không ít về nhân mạng, và cho đến khi tàn cuộc vẫn không chiếm được các cứ điểm.
Trong lửa cháy lẫn mùi thuốc súng khét lẹt… Anh Ba nhận định với các ban về những tuyên truyền láo từ chính trị viên cs nhồi vào đầu cán binh của họ, như tinh thần hốt hoảng, lo sợ, mất bình tĩnh của các chiến sĩ ĐPQ & NQ, QL - VNCH sẽ tiếp tục tháo chạy khi nghe tin “quân giải phóng” đến, đã không xảy ra giống như ở ngoài vùng 1, 2.
Ông cười cho biết, chúng đâu ngờ quân dân Bình Thuận của chi khu TG từ quan đến lính, đã rất tỉnh táo, kỷ luật, súng đạn đầy đủ, nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Địch vào đến đâu bị đốn ngã như sung tới đó.
Chiếc tank đầu tiên của vc. nhằm uy hiếp tinh thần bị người lính ĐPQ dùng M72 bắn cháy được thông báo cho nhau làm nức lòng mọi người”.
Xác xe tăng T-54 trên đường Ngô Quyền, thị xã An Lộc
Hình minh họa
Nhiều người dân TG. sau này kể lại trận đánh tháng tư vẫn hả hê, cho đây là 1 trận thắng lớn, để đời của các chiến sĩ ĐPQ - NQ của QL - VNCH, vốn bị chế diễu là lính "Địa...phao câu", lính... vườn.
Anh Ba cho biết trận TG, với quyết tâm cao độ, ai cũng kiên cường, thà chết để bảo vệ khu vực trách nhiệm của mình cách thần kỳ, mọi người đã anh dũng chống trả, bẻ gãy mọi mưu toan, và đứng vững sau nhiều xung phong cảm tử của địch.
Chiến thắng này cho thấy người lính ĐPQ và NQ của chi khu Thiện Giáo xứng đáng được nhận huân chương tiêu biểu, vinh danh cho truyền thống bảo vệ làng xã trên toàn lãnh thổ.
- Trình Đại bàng, tụi nó chết la liệt, nhiều lắm, có thâu lượm chiến lợi phẩm không ?
- Chỉ thu lượm súng đạn, trang bị ngược lại cho mình.
Sau nhiều vô vọng liên lạc về bộ chỉ huy tiểu khu, cuối cùng Anh Ba cũng được biết dân tị nạn từ phía bắc đã về tới thị xã Phan Thiết ? toàn bộ tiểu khu Phan thiết với 6 tiểu đoàn đã di tản chiến thuật ? Bằng tàu hải quân, một số ra đảo Phú Quý, số khác về Vũng Tàu.
Một trung sĩ trước khi cúp máy cho biết không còn bất cứ giới chức nào để ra lệnh, dĩ nhiên không tiếp vận, không yểm trợ, và thẩm quyền phải tự xoay sở lấy...
Cánh quân của TĐ. 230/ĐPQ như vậy đã chiến đấu đơn độc ngay trên đầu tuyến, “nhất kiếm trấn ải” trực diện với quân số vượt trội hơn nhiều lần của cs., để làm chậm bước tiến địch?
Thời điểm ngày cuối , vc. sau nhiều lần tấn công thất bại, với tổn thất nặng nề, [color=red ]chúng ngưng tấn công [/color], đánh giặc nước miếng ! vác loa réo liên tục, yêu cầu, đích danh tên người chỉ huy"anh Ba" và các binh sĩ "ngụy" :
- ” Các anh đã bị bao vây, mau buông súng, trở về với ... nhân dân, cách mạng sẽ khoan hồng!” (sic).
Kinh nghiệm cho ông biết chúng đang tập họp, chỉnh đốn hàng ngũ, bổ xung cho 1 đợt cảm tử mới, nhất quyết dứt điểm ?
28-4-1972 – ba xe tải chở đầy người tị nạn trúng mìn cách thị xă Quảng Trị 7 km làm 40 người chết và 60 người bị thương.
Trong khi giao tranh, ban 4 nhận lệnh tổng kết đạn dược, cho biết trang bị cho 1 người chỉ còn giới hạn không đủ để bảo vệ chính mình. Tình hình bi đát, sớm muộn sẽ bị tràn ngập ?
Anh Ba đã ra lệnh cho 4,5 mũi thăm dò để thoát ra, hầu hết đều bị khóa ! lúc này chung quanh chi khu TG việt cộng đông như đàn kiến, áp lực dày đặc từ mọi hướng.
Tuy vậy, cuối cùng, một toán trinh sát cũng tìm được sinh lộ cho toàn quân.
Trong âm thầm, tất cả các đại đội được lệnh len lỏi, triệt thoái về phía đông, băng ngang qua QL.1, xâm nhập thẳng vào... mật khu Lê Hồng Phong của địch.
Ông đã binh pháp đúng, "tìm đường sống nơi tuyệt lộ" , có cách nào tuyệt vời hơn để dưỡng sức cả nghìn quân ngoài chính mật khu của việt cộng, sự tiên đoán chính xác sau khi thẩm định các tin tức tình báo về việc lực lượng cộng sản đã hối hả rời khỏi mật khu Lê Hồng Phong, dốc toàn lực nam tiến, nương rẫy vắng bóng, chúng để lại mọi thứ hầu như nguyên vẹn, người lính tìm được ít lương khô dán mác tàu cộng, đủ để nuôi quân ta được khoảng...1 ngày.
Đạn dược và thực phẩm luôn là thứ cần thiết nhất.
Sau đó, tất cả mọi người được lệnh rời khỏi mật khu, theo đường chim bay, tiếp tục triệt thoái về phía nam.
GIẢI TÁN :
Khoảng 2 ngày sau đoàn quân về tới tiểu khu Phan thiết, anh Ba bàn bạc với các cấp chỉ huy tiểu đoàn và đi đến quyết định cuối cùng.
Trưa ngày 18 tháng 4 ông ra lệnh cho mọi người buông súng, tan hàng, ai về nhà nấy. Lý do, hết lương thực, đạn dược.
Sau ngày 30-04-1975, [/size]truyền đơn rải từ quận Hàm Thuận, Phan Thiết xuống tới Khu rừng lá ở Hàm Tân, cây số 25 tỉnh Bình Tuy, vào đến Ngã ba Dầu Giây thuộc tỉnh Long Khánh, kêu gọi đồng bào và các cựu quân nhân đầu quân, tìm vào chiến khu "Rừng Lá" để kháng chiến, tiếp tục chiến đấu chống cs.
Tờ truyền đơn ký tên Đại tá Ngô Tấn Nghĩa và Đại úy Mai Vi Thành như một xác tín nhằm kêu gọi phục quốc.
Dù thật hay giả hoặc phản gián, những tờ truyền đơn này đã trực tiếp vinh danh vinh danh "Anh Ba", người hùng Bình Thuận, người đã gây cho du kích cộng sản nhiều khiếp đảm, kinh hoàng qua trận đánh cuối cùng tại Thiện Giáo.
*** Anh Ba còn cho biết thêm, khi TĐ 230/ĐPQ về tới Phan Thiết, việc đầu tiên là tìm đến kho đạn của tiểu khu để bổ xung vũ khí, trang bị... trong đầu ông đã hình thành một tuyến phòng thủ mới, chuẩn bị ngăn địch vào thị xã, nhưng khốn thay, cả kho đạn cũng đã được di tản ?
Ông bất lực, ngao ngán nhìn thị xã Phan Thiết lúc đó coi như đã hoàn toàn bỏ ngỏ, và địch thì vẫn chưa vô tới ! Thiệt tình !
Sau khi toàn quân ”giải tán” . Anh Ba và mấy người anh em thân thương, tìm ra phía biển...
“ Mai về đâu mảnh cơ đồ ,
Các Anh gian khổ cam go giữ gìn ?”
Thơ Ý Nga (Trận tàn, ta vẫn chưa thua)
Ghi lại theo lời tường thuật của “Anh Ba”, Tiểu đoàn trưởng – TĐ 230 Địa phương quân, Đại úy Mai Vi Thành.
Ở vào tuổi này, ông chỉ mong lớp con cháu, hậu duệ luôn nhớ đến cha ông, một lần kia đã chiến đấu kiêu hùng để bảo vệ miền nam thân yêu.
Mỗi năm, khi tháng tư về, dành đôi phút, cùng nhau tưởng niệm đến những chiến sĩ VNCH đã "vị quốc vong thân” , những đồng bào đã hy sinh vì lý tưởng Tự Do, được vậy là quý lắm.
Tháng tư, mùa quốc hận, 2018.
Trần Kim Bằng
Chú thích:
** Như đã nói, các vị được chỉ định về nắm quận trưởng TG. thời gian này đều... rét vì 3,4 vị tiền nhiệm TG khi về nhậm chức đều bị tử thương hay hy sinh ngay khi còn tại vị.
Thiện Giáo với nhiều làng xã xôi đậu nên địch biết mọi chuyện phía ta, chúng có sẵn “đề lô” trong dân và pháo từ bên kia sông cứ rót vào bộ chỉ huy chi khu quận, sau đó rê chạy, các quận trưởng cựu hay mới về TG tuổi thọ chỉ là may mắn.
Quận trưởng quanh năm uống cà phê...dưới hầm.
Anh Ba vốn gốc tác chiến nên coi đây là chuyện nhỏ, ông chỉ thị cho 2 trung đội trinh sát và tình báo giả dạng du kích vc , vác AK lẻn qua bên kia sông trà trộn chung với chúng, vài ngày là giải quyết xong vụ nổ pháo chạy.
Khi ông về xử lý thường vụ chi khu TG. thế cho Thiếu Tá Nguyễn văn Lợi (bị thương vì pháo địch, về dưỡng thương ở Tổng Y viện Cộng Hòa), chỉ cần vài tuần là bình định, yên ổn.
*** Điểm qua sách báo việt cộng về trận Thiện Giáo, chỉ thấy có 1 bài vinh danh 1 người đại đội trưởng vc đánh thắng trận nào đó rất chung chung ở khu 6, Phan Thiết, và thậm chí không nhắc đến tên Thiện Giáo trong những bài viết.
Một số chi tiết về lực lượng, tên gọi (quân đoàn, khu…) cộng sản được tham khảo và trích từ báo SGGP cũ, nguồn VTV, nhưng hiện nay các nguồn link gốc của họ đã hết xử dụng được.
- Bản họa đồ vị trí đóng quân của ta và các mũi tấn công của địch.
- Hình ảnh internet (minh họa): Các chiến sĩ xây dựng nông thôn, và 2 người sĩ quan Địa Phương Quân (dưới).
TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN LONG KHÁNH THÁNG 4 /1975
Huy hiệu Tiểu Doàn 1 Nhảy Dù
Lời người viết :
Bài viết này đã được đăng trong Đặc san CÁNH HOA DÙ nhân ngày Đại Hội Gia Đình Mũ Đỏ VN - XXXV (Lần thứ 35); nhưng nhà in đã cắt xén và sửa chữa làm bài viết in trong đặc san này có một vài chỗ sai và không trọn vẹn ; vì vậy người viết cho đăng lại bài nguyên thủy nơi trang điện tử này.
Kính thưa quý Độc giả, đã 40 năm trôi qua, hôm nay nhân ngày Đại Hội GĐMĐ XXXV (July 2015) được tổ chức tại vùng DMV (District of Columbia, Maryland, Virginia), 242 (1) xin được ghi lại một ít hồi ức về những sự kiện đã xảy ra trên đường hành quân với Đại Đội 11 Nhảy Dù thuộc Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù vào những tháng ngày cuối của chiến tranh Việt Nam.
(1) Danh số 242/T242 :
- “242” là danh hiệu truyền tin của tôi, Nguyễn Bá Toản .
Nguồn gốc con số “242” là thế này :
Ở quân trường Đồng Đế mỗi tân binh được phát cho một con số. Con số này được sắp xếp theo từng đại đội Sinh viên Sĩ quan (SVSQ) và theo thứ tự tên gọi abc... trong mỗi đại đội.
Tôi được xếp vào Đại Đội 749/Trung đội 3 SVSQ, và tên tôi được đánh trùng ngay số “242”.
Người ta (ban quản trị quân trường) gọi con số này là “DANH SỐ” , nó được viết trên nón sắt (trước và sau), và may trên nắp túi áo bên trái của các SVSQ.
Từ đó người ta, kể cả các AE SVSQ gọi nhau bằng “DANH SỐ” , cách xưng hô này đã trở thành thói quen trong suốt thời gian thụ huấn ở quân trường.
Ngày ấy, mẹ 242 và nhiều bà mẹ của các SVSQ khi thăm chúng tôi lần đầu tiên ở khu tiếp tân, nghe chúng tôi chỉ gọi nhau bằng danh số thì họ tròn mắt... ngạc nhiên, 242 giải thích cho mẹ rằng :
" Trong khóa có nhiều người trùng tên nhau; nhà binh chúng con chuộng sự rõ ràng minh bạch nên mỗi người có 1 con số, ngắn gọn và không thể nhầm lẫn được. "
Khi ra trường tôi tiếp tục dùng nó làm danh hiệu truyền tin và “biệt danh” khi qua Mỹ này.
Con số 242 cộng chung lại là con 8 - số MAY ! T242 - Tên tôi là Toản, nên lấy chữ T đặt trước số 242.
Và trong bài viết này, tôi xin mạn phép được dùng danh số “242” thay cho chữ “tôi” cho tiện.
Truyện kể gồm hai phần :
1. Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (TĐ1ND) tiến vào Mặt trận Long Khánh.
Trong phạm vi này, 242 chỉ thuật lại những gì đã xảy ra cho ĐĐ11ND thôi vì người viết đã phục vụ tại đơn vị này liên tục từ 12/1973-30/4/1975.
2. TĐ1ND rút khỏi Mặt trận Long Khánh và cuộc vượt biên có một không hai của một đơn vị Bộ Binh thiện chiến QLVNCH, Lữ Đoàn I Nhảy Dù, bằng thuyền sang Mỹ.
Trong truyện kể dưới đây, người viết chỉ thuật lại những gì mắt mình đã thấy. ]]Tuy nhiên sẽ có một vài mẩu chuyện người viết chỉ nghe anh em (AE) kể lại thôi và dĩ nhiên sẽ có ghi chú tử tế trong những trường hợp như thế.
Chữ khoảng” chỉ thời gian thay cho ngày, tháng, năm trong câu chuyện vì đã lâu nên 242 quên sạch sẽ ngày chính xác của một vài sự kiện. Kính mời quý Độc giả theo dõi câu chuyện sau đây.
TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN LONG KHÁNH THÁNG 4 /1975
TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN LONG KHÁNH
Sơ lược về người viết :
242 (1) trình diện Trung Tâm 2 Tuyển mộ nhập ngũ tọa lạc tại Thành, thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa vào khoảng tháng 9, năm 1972, và sau khi tốt nghiệp Khóa 10A-1972 Sĩ Quan Trừ Bị tại quân trường Đồng Đế Nha Trang , 242 tình nguyện về Binh chủng Nhảy Dù QLVNCH và tốt nghiệp Khóa 321 Nhảy Dù tháng 11, 1973.
Từ Khối Bổ Sung/Sư Đoàn Nhảy Dù, 242 được C-130 bay ra Huế trình diện Bộ Tư Lệnh/Sư Đoàn Nhảy Dù Tiền Phương, lúc bấy giờ đồn trú tại căn cứ Hiệp Khánh, Thừa Thiên-Huế.
Lưu lại Bộ Tư Lệnh/Sư Đoàn Nhảy Dù Tiền phương 2 tuần lễ để học khóa điều chỉnh Pháo binh.
Sau đó được bổ về TĐ1ND lúc ấy đang đóng tại làng Cổ Bi, huyện Hiền Sĩ, Huế.
Tiểu Đoàn đóng quân ở làng Cổ Bi bình an vô sự, được hơn 1 năm thì vào đầu tháng 8, năm 1974, tình hình chiến sự sôi động trở lại sau mùa ngưng chiến Hòa đàm Ba-lê 1973.
THƯỜNG ĐỨC , VÙNG KHÓI LỬA CHIẾN TRANH TÀN BẠO
Bọn cộng sản Bắc Việt đã chính thức xé bỏ Hòa Đàm Ba-lê bằng việc xua quân chiếm đóng quận lỵ Thường Đức phía nam đèo Hải Vân của VNCH, mục tiêu chính là Đồi 1062, một cao điểm có thể nhìn thấy cả thành phố Đà Nẵng từ chóp đỉnh.
TĐ1ND được lệnh hành quân Mặt trận Thường Đức (2).
(2) Một bài viết về Mặt trận Thường Đức
Trong trận này, TĐ1ND và các đơn vị Nhảy Dù bạn đã gây rất nhiều thiệt hại cho quân bên kia, riêng TĐ1ND cũng hy sinh không nhỏ ở trận này, 242 đã mất đi 4 vị Thần ưng (3) thân thiết nhất ở Đồi 1062 này trong 3 tuần đầu giao tranh.
3) Thần Ưng :
Ở TĐ1ND, các sĩ quan cấp Đại đội trưởng trở lên gọi chúng tôi, các “Thiếu úy” và “Chuẩn úy” trung đội trưởng tác chiến, là “Thần Ưng”.
Vì 2 chữ đầu của cấp bậc thiếu úy cộng với chữ “u” của chữ “úy”, ráp lại với nhau ra “Thần Ưng”.
Họ chỉ gọi vậy qua làn sóng vô tuyến ngoài mặt trận thôi để tránh sự tò mò của quân địch.
Như chúng ta đều biết, trong các loài chim muông cầm thú thì chim ƯNG (Falcon) là giống chim săn thịt sống (predator), có dáng oai phong, hùng dũng và bạo dạn.
Các chuẩn úy và thiếu úy tác chiến QLVNCH ngày xưa cũng thế thôi, bất luận binh chủng nào , rất bạo gan, coi cái chết nhẹ tựa lông mi con gái với thái độ “đéo ngán thằng GIÁP đéo” nào.
Là một loại thiêu thân không hơn không kém, do đó các đại huynh/đích thân trong đơn vị “cưng lắm-nhưng không chiều, chiếu cố hơi kỹ…” là thế.
Thần Ưng Nhảy Dù thành THẦN , nghĩa là rửa cẳng lên bàn thờ, cũng nhiều lắm. Những ai sống được sau cuộc chiến vừa qua đều là “thánh” cùng “tiên” cả đó
Sau gần một năm hành quân tại Thường Đức, chúng tôi, Lữ Đoàn I Nhảy Dù gồm 3 tiểu đoàn tác chiến 1, 8 và 9ND được lệnh rời mục tiêu Đồi 1062 để về Sài Gòn trang bị đơn vị và dưỡng quân.
TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TẠI MẶT TRẬN LONG KHÁNH THÁNG 4 /1975
KHÓI LỬA CHIẾN TRANH TIẾP TỤC TIẾN VÀO CỬA NGÕ SÀI GÒN :
Thời gian dưỡng quân và trang bị đơn vị tại hậu cứ TĐ1ND, trại Nguyễn Trung Hiếu tọa lạc trên đường Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, không bao lâu thì lại được lệnh lên đường hành quân. Nhưng lần hành quân này là Tiểu khu Long Khánh, phía bắc Sài Gòn.
Đây là lần đầu tiên trong đời lính Nhảy Dù được hành quân gần nhà.
Từ hậu cứ TĐ1ND đến tỉnh Long Khánh khoảng hơn 80 cây số/km (59-60 miles/dặm Anh).
242 còn nhớ mãi cảnh một chiếc phản lực F5 hay A37… thả bom xuống Dinh Độc Lập lúc đoàn công-voa (convoy) GMC chở TĐ1ND trực chỉ Long Khánh ngang qua thủ đô Sài Gòn.
Sau này mới biết là tên Trung úy phi công KLVNCH nằm vùng tên Nguyễn Thành Trung là thủ phạm trong việc ném bom này (4).
Khoảng hơn 2 giờ đồng hồ thì đoàn công-voa chở TĐ1ND vào địa phận Long Khánh , nơi đây AE nhảy dù bắt đầu thấy các Chiến xa M48 QLVNCH cũng đang di chuyển cùng chiều với đoàn công-voa chở quân Dù, nhìn cảnh này, trong thâm tâm 242 bắt đầu nghĩ đến chiến tranh chết chóc rất khốc liệt sắp xảy ra.
Lúc này đây danh số 242 là trung đội trưởng thực thụ với 20 tay súng dưới tay tuổi từ 17…, ngồi gọn trong lòng Quân Xa GMC, riêng 242 sinh ngày 30-March-1954, vừa tròn 21 tuổi.
Đoàn xe đến điểm hẹn rồi, và điểm hẹn cũng là tuyến xuất phát của cuộc hành quân này.
Chúng tôi được đổ xuống một bìa rừng cao su, các Sĩ quan Trung đội trưởng nhận bản đồ hành quân, và đến xế chiều toàn thể TĐ1ND được trực thăng vận ngay vào [color=blue]“vùng hành quân”.[/coloor]
Đêm nay anh Nhỏ, Tiểu đoàn trưởng TĐ9ND, bị thương vì đạn pháo, nghe đâu Nghĩa quân của giáo xứ Bảo Định cố thủ trong khuân viên giáo đường Bảo Định bắn nhầm quân bạn vì nghĩ đấy là quân VC nên ông Nhỏ lãnh đạn phải di tản !
TĐ1ND, Thiếu tá Ngô Tùng Châu K19VB, Tiểu đoàn trưởng, vào mặt trận Long Khánh với 5 đại đội như sau :
1. ĐĐ10ND:
- Đại Đội Súng Nặng, Trung úy Nhân(?) Đại đội trưởng chỉ huy, nhiệm vụ bảo vệ Bộ chỉ huy (BCH) TĐ1ND và yểm trợ hỏa lực cận phòng (cối 81ly) cho các đại đội tác chiến
2. ĐĐ11ND :
- Thiếu úy Khanh Đại đội trưởng chỉ huy
3. ĐĐ12ND :
- Trung úy Thọ K25VBĐL chỉ huy
4. ĐĐ15ND* :
- Đại úy Lộc K23VBĐL chỉ huy
5. ĐĐ14ND :
- Trung úy Hữu chỉ huy
ĐĐ11ND vào vùng hành quân với 4 trung đội và ban chỉ huy (bch) như sau :
- Trung đội 1 – Hắc Long (Rồng đen) do Thiếu úy Mẫn chỉ huy
- Trung đội 2 – Thanh Long (Rồng xanh) do Chuẩn úy Nguyễn Văn Ba chỉ huy
- Trung đội 5* – Hoàng Long (Rồng vàng) do Thiếu úy Nguyễn Bá Toản (T242) chỉ huy
* Vì một lý do nào đó (dị đoan) mà các đại đội thuộc TĐ1ND tránh các con số 3 và 13. Do đó mới có các Trung đội 5 [3] và Đại Đội 15 [13]
- Trung đội 4 – Xích Long (Rồng đỏ) (242 không nhớ cu nào trách nhiệm khoản này)
Bạch Long (Rồng trắng) – bch ĐĐ11ND do Thiếu úy Khanh Đại đội trưởng trụ trì.
Các danh hiệu truyền tin này do anh Thể đặt cho khi anh còn là Đại đội trưởng/ĐĐ11ND.
Nghe rất cải lương đượm tí kiếm hiệp nhưng bùi tai, không ai phàn nàn.
Vùng hành quân đầu tiên của TĐ1ND trong trận này bắt đầu là một ngôi làng nhỏ trong một khu vườn trái cây đang chín mọng.
Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời 242 thấy vườn trái cây mênh mông bao la với vô vàn trái cây chín thơm ngát một vùng như thế.
Lác đác bên các gốc ổi đã có một số trái ổi rơi nằm trên đất và đang rữa thối, có lẽ vì chiến tranh đến bất thường nên các chủ vườn không thể hái trái cây đem ra chợ bán.
ĐĐ11ND được lệnh làm khinh binh tiến về ngôi làng nhỏ trên để làm đầu cầu tiến vào thị xã Xuân Lộc với Trung đội 1 của Thần ưng (3) Mẫn đi đầu, Trung đội 5 (242) bao chót.
Trung đội 2 (Ba) theo chân 1, Trung đội Súng Nặng 4 luôn cặp sát bch đại đội do Thần ưng Khanh làm Sĩ quan Đại đội trưởng.
Nơi đây – ngày hôm nay – có một sự việc trọng đại xảy ra :
Đại úy Trần Văn Thể K24VB đã bàn giao ĐĐ11ND cho Thiếu úy Khanh và anh Thể về BCH TĐ1ND giữ chức Sĩ quan hành quân, tức Ban 3 Tiểu Đoàn.
Khoảng trưa, Trung đội 5 vượt qua một vườn ổi xá-lị chín thơm phưng phức, không có bóng dáng đồng bào ở đây, lúc này địch pháo kích bằng cối 61ly rải rác không chính xác vào khu vực ĐĐ11ND đang hành quân tảo thanh.
242 nghỉ dừng chân, nhân tiện thưởng thức ổi xá-lị chín với Binh nhất (B1) Tập (những cây ổi ở đây rất thấp, cao ngang nhau, không cần trèo, có lẽ là loại cây “chiết” nên cao vừa tầm tay hái).
Hai AE đang dùng ổi chín và ngợi khen ổi Long Khánh thì… Đoành ! Một trái đạn cối 61ly của địch quân vu vơ (random) rơi ngay bên hông và đốn ngã người lính nhảy dù cao, đẹp trai, B1 Tập, người anh cao hơn cả cây ổi.
Tập trút hơi thở bên cây ổi chín thơm ngát mùi quê hương miền nam nước Việt… lặng lẽ không lời trăn trối.
Nhìn người AE Nhảy Dù ra đi mà chết điếng người ! Khoảng cách giữa 2 AE chúng tôi lúc bấy giờ gần lắm, có thể bắt tay nhau được.
Bụi đất bu quanh hai AE và quả ổi cũng biến mất khỏi bàn tay khi ấy, 242 không hề hấn gì. Đúng ra, Tập đã chết thay cho 242. “quả ổi” định mệnh đã khiến 242 phân vân không ngừng nhiều ngày sau đó.
Vì nếu anh ta cứ tiếp tục di chuyển hay 242 đã không rủ hắn hái ổi thì Tập vẫn còn sống đâu đây trên quả đất này.
Sơ qua về Tập :
Anh là người rất chịu khó, “rất khỏe mạnh” và can đảm, bơi giỏi, có thể thích hợp với Người Nhái hơn là Nhảy Dù, người anh cao ráo và đẹp mã, một con người rất tháo vát, quê anh ở vùng 4.
Hồi đánh ở Đồi 1062, có một lần, TĐ1ND không nhận được quân lương (tiếp tế), cả Trung đội 5 chúng tôi cạn lương khô lẫn tươi. Để cứu đói, một mình Tập lặng lẽ xuống núi/hạ san (Đồi 1062 cao 1.62km) vào làng Hà Nha, đi không địa bàn hướng dẫn, nhắm một đường thẳng từ đỉnh xuống chân núi.
Thời tiết hôm ấy lại âm u nữa, hạ san dễ nhưng lên khó, mây mù phủ đỉnh núi suốt ngày nên từ chân núi nhìn lên không biết đỉnh nào là mục tiêu mình muốn đến. Vậy mà chỉ hơn nửa ngày, Tập đã trở lại quả núi với vài ký ngô pha gạo mua được của dân làng Hà Nha dưới chân núi.
Mỗi lần nghĩ đến tình cảnh này, 242 phải ngậm ngùi thương nhớ về người chiến binh Nhảy Dù này khôn nguôi, 242 không thể quên đi được hình ảnh ngày hôm đó và cái chết của Tập, nó cứ ám ảnh mãi mãi thôi….
Trở lại chiến trận Long Khánh, trong ngày này, ĐĐ11ND đã chiếm trọn vẹn ngôi làng nhỏ, lục soát và đã tìm thấy một số dân trốn trong hầm (đào trong nhà dân).
Không phát hiện một tên địch trong vùng hành quân.
ĐĐ11ND tiếp tục hành quân tiến về thị xã Xuân Lộc thuộc Tiểu khu Long khánh.
Trên đoạn đường này, đơn vị hành quân bình an vô sự hay gặp sự phản kháng rất yếu ớt từ hướng địch quân cộng sản Bắc Việt.
Vào một buổi sáng tinh sương, chúng tôi họp hành quân ở một bìa rừng cao su với Đại đội trưởng Khanh, Khanh chia công tác cho các thần ưng như sau :
- Trung đội 5 khinh binh (các Trung đội, ngoại trừ Trung đội Súng Nặng, của ĐĐ11ND thường chia phiên nhau làm khinh binh trong các công tác chiến trường)
- Trung đội 1 (Mẫn) đi sau trừ bị .
- Trung đội 2 Chuẩn úy Ba và Trung đội 4 (Súng Nặng) cùng bch đại đội đi sau cùng.
Vào ngày này khu vực hành quân của ĐĐ11ND rất thanh bình, không có pháo kích hay tiếng súng cá nhân nổ tí tách trong rừng cây quanh vùng.
Trưa hôm ấy cả ĐĐ11ND dùng cơm ở một bìa rừng cao su trước khi xuất quân.
Khoảng 13:30g Hoàng Long (danh hiệu truyền tin của Trung đội 5) bắt đầu vượt tuyến xuất phát từ bìa rừng và tuần tự là các “Long” đã được anh Khanh chia cắt.
Đi được hơn một giờ thì Bạch Long lệnh cho khinh binh báo cáo tình hình.
Hoàng Long tả địa hình cho Bạch Long biết hướng tiến quân đằng trước hoàn toàn trống trải, không chạm địch, rất thinh lặng. Khanh lệnh cho toàn ĐĐ11ND dừng chân để anh lên quan sát địa hình.
Khanh đổi đội hình tiến quân :
Hoàng Long hành quân lục soát vườn mía và bảo vệ sườn trái cho đại đội, Hắc Long tiến vào rừng phía trước. Đi được khoảng hơn nửa giờ thì Hắc Long (Trung đội 1/ĐĐ11ND) bị lọt ổ phục kích của địch khi đoàn quân vừa chạm mí rừng.
Thần ưng Mẫn cùng các khinh binh đầu của anh bị hạ tại chỗ không phản ứng kịp.
Lệnh Bạch Long cho toàn đại đội án binh bất động và TĐ1ND đã điều động ĐĐ15ND của anh Lộc (K23VBĐL), từ hướng tây bắc tiến xuống giải quyết ổ phục kích trước khi hoàng hôn xuống.
Chiến công này là của Thần ưng Lịch từ ĐĐ15ND sang tiếp ứng cho thằng 11.
Kết quả :
- Địch bỏ lại dăm bảy xác chết, một trong các khẩu súng cá nhân tịch thu được của địch gồm 1 khẩu CKC bắn sẻ.
Khẩu này đã bắn Thiếu úy Mẫn phía trước từ trán xuyên qua ót và nón sắt, ngay phút đầu tiên Hắc Long lọt ổ phục kích.
Đêm nay, Đại đội trưởng chia cắt công việc cho các Thần ưng còn lại của ĐĐ11ND :
- Trung đội 1 do Trung sĩ nhất Nguyễn Văn Đức hay “Đức đen” thay thế cố Trung úy Mẫn vừa tử trận hôm chiều, cùng với Trung đội 2 và 4 bao bọc bch đại đội, Trung đội 5 khinh binh nằm tiền đồn cho ĐĐ11ND bên kia cánh rừng.
Một điều cần để ý là các “thần ưng” (3) ngày ấy còn trẻ lắm, không có kinh nghiệm chiến trường, đã hy sinh một cách lãng nhách, và cố Trung úy Khanh là trường hợp điển hình.
Khanh được đôn lên chức Đại đội trưởng ĐĐ11ND khi anh Thể nhận nhiệm vụ mới, trưởng B3 (ban hành quân) tiểu đoàn.
Cũng nên biết, ĐĐ11ND là Đại Đội Nhảy Dù tiên khởi của Binh chủng Nhảy Dù/VNCH và là đại đội đầu tiên của Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH xếp theo thứ tự.
Đêm nay, Khanh cho các Sĩ quan Trung đội trưởng biết anh sẽ sử dụng lại hệ thống phòng thủ vừa mới lấy được của địch quân. 242 quan sát hệ thống hầm hố này và nhận thấy đây chỉ là loại hầm dã chiến vừa mới được thiết lập vội vã vì vật liệu dùng làm hầm còn “tươi rói” , AE đề nghị :
- " Thế cũng được nhưng phải sửa sang lại cho chắc hơn ", vì kinh nghiệm từ mặt trận Thường Đức, hầm hố chiến đấu ở Thường Đức rất kiên cố, của cả ta lẫn địch.
Có lẽ vì thiếu kinh nghiệm hay vì một lý do nào đó… mà Khanh đã không chú ý đến đề nghị của AE.
Hừng đông hôm sau, địch trả thù dùng cối 61ly của chúng dội vào hệ thống phòng thủ bch ĐĐ11ND suốt nửa giờ đồng hồ và hậu quả là Khanh tử trận ngay trong căn hầm chỉ huy vừa chiếm được của địch chiều hôm qua bằng một loại đạn pháo vòng cầu rất tầm thường.
Trong tuần này, ngay tại địa thế này, ĐĐ11ND gặp vận đen, trong chỉ vỏn vẹn hai ngày, tử thần đã cướp đi hai Thần Ưng và 3-4 khinh binh Nhảy Dù ưu tú của Sư Đoàn Nhảy Dù. Riêng phe địch để lại 5, 7 xác chết và một ít súng cá nhân xoàng.
Trong cuộc giao tranh này, phía địch đã lời to, và ta lỗ quá mất thôi ! Anh Thể tạm thời xử lý thường vụ ĐĐ11ND. Khi ra Phước Tuy thì bàn giao lại cho 242.
(3) Thần Ưng : ở TĐ1ND, các sĩ quan cấp Đại đội trưởng trở lên gọi chúng tôi, các “Thiếu úy” và “Chuẩn úy” trung đội trưởng tác chiến, là “Thần Ưng”.
Vì 2 chữ đầu của cấp bậc thiếu úy cộng với chữ “u” của chữ “úy”, ráp lại với nhau ra “Thần Ưng”.
Họ chỉ gọi vậy qua làn sóng vô tuyến ngoài mặt trận thôi để tránh sự tò mò của quân địch.
Như chúng ta đều biết, trong các loài chim muông cầm thú thì chim ƯNG (Falcon) là giống chim săn thịt sống (predator), có dáng oai phong, hùng dũng và bạo dạn.
Các chuẩn úy và thiếu úy tác chiến QLVNCH ngày xưa cũng thế thôi, bất luận binh chủng, rất bạo gan, coi cái chết nhẹ tựa lông mi con gái với thái độ “đéo ngán thằng GIÁP đéo” nào.
Là một loại thiêu thân không hơn không kém, do đó các đại huynh/đích thân trong đơn vị “cưng lắm-nhưng không chiều, chiếu cố hơi kỹ…” là thế.
Thần Ưng Nhảy Dù thành THẦN, nghĩa là rửa cẳng lên bàn thờ, cũng nhiều lắm. Những ai sống được sau cuộc chiến vừa qua đều là “thánh” cùng “tiên” cả đó.
Sau trận phục kích ĐĐ11ND này thì khoảng 2 đêm sau, toàn thể TĐ1ND được lệnh triệt thoái khỏi mặt trận Long Khánh.
242 còn nhớ rất rõ đó là một đêm trăng thanh gió mát, bầu trời ban đêm đầy sao và rất thơ mộng cộng thêm với hương thơm ngát từ vườn cây ăn trái đang chín tới.
242 bàng hoàng vì lệnh cho gài mìn trước khi thực hiện buổi dạ hành.
Ý thức được đây là tài sản mầu mỡ của đồng bào miền nam, nên đã lờ đi không gài mìn trước khi rời địa điểm.
Kể từ đêm nay, 242 bắt đầu nghĩ vận nước đã hết cho toàn thể miền nam nước Việt bởi vì rất dễ hiểu thôi :
Long Khánh là cửa ngõ của Sài Gòn, rút khỏi Long Khánh và còn gài mìn nữa thì… chẳng còn gì nữa để gỡ gạc.
Kết luận trong hai trận đánh :
Thường Đức và Long Khánh, cường độ đạn bay giữa hai bên thật khủng khiếp.
Người ta không thể cậy tài để khoe khoang chiến tích của họ… Ai đó đã nói rất đúng :
- “ Trên chiến địa, chỉ có đạn tránh người chứ người không thể tránh đạn.”
Thật thế, có thấy đạn bay đâu mà tránh né chúng được ! Là bổn đạo Công giáo, 242 nghĩ Thiên Chúa đã phái một hay nhiều Thiên Thần từ trời cao xuống gìn giữ mình nên mới thoát được các trận chiến kinh khủng này.
Đây chỉ là “niềm tin” hay “đức tin” của một cá nhân thôi.
Trên đây là câu chuyện về trận đánh của ĐĐ11ND/TĐ1ND tại mặt trận Long Khánh.
Kính mời quý vị theo dõi phần II, cuộc triệt thoái của TĐ1ND từ Mặt trận Long Khánh về Tiểu khu Phước Tuy, và sau đó là cuộc vượt biên có một không hai của QLVNCH do Lữ Đoàn I Nhảy Dù QLVNCH thực hiện vào ngày 30-Tháng-4-Đen “năm ấy”.
CUỘC VƯỢT BIỂN CÓ MỘT KHÔNG HAI CỦA LỮ ĐOÀN I NHẢY DÙ , QUÂN LỰC VNCH VƯỢT BIỂN ĐÔNG – 30/4/1975
TĐ1ND RÚT KHỎI MẶT TRẬN LONG KHÁNH
Khoảng ngày 25-4-1975 , TĐ1ND được lệnh lui binh khỏi Long Khánh trong một đêm trăng sao với khítrời mát mẻ trong lành.
Hừng đông hôm sau thì thấy vô số dân-quân Long Khánh cùng tháp tùng với đoàn quân Lữ Đoàn I Nhảy Dù rời Long Khánh.
Lộ trình : Long Khánh-Phước Tuy-Bà Rịa.
Chỉ huy cuộc lui binh này là cố Trung tá Lê Hồng (anh tử trận ở Thái Lan khi đi theo đám AE Hoàng Cơ Minh lập chiến khu ở Thái vào đầu thập niên 80) lúc bấy giờ là Lữ đoàn phó Lữ Đoàn I Nhảy Dù.
Anh là sĩ quan cao cấp nhất của Nhảy Dù bọc hậu cho cả đoàn quân :
- “ Đoàn quân ” đây ngoài Lữ Đoàn I Nhảy Dù, còn có các lực lượng :
- Địa Phương Quân, Nghĩa quân
- Cảnh sát, dân chúng, v.v. của tỉnh Long Khánh không muốn sống với cộng sản.
242 ước lượng có khoảng gần 1 sư đoàn “người” theo gót chân Nhảy Dù tìm cách rời Long Khánh ngày hôm đó.
Đông lắm ! Đông như kiến ! Đoàn người hướng về tỉnh Phước Tuy rất dài, dài lê thê… rất thê thảm ! Rất thê lương !
Không thể tưởng tượng nổi ! Không khác gì ĐẠI LỘ KINH HOÀNG NĂM XƯA mặc dù 242 chưa từng thấy ĐLKH này.
Ngày nay, thỉnh thoảng nghĩ về ngày này năm ấy vẫn còn cảm giác “rùng mình”.
Trong đêm và suốt buổi sáng trên đường lui binh chúng tôi không chạm địch. Đến xế chiều thì cánh ĐĐ11ND và BCH TĐ1ND do Thiếu tá Ngô Tùng Châu chỉ huy bị địch phục kích ngay tại chân núi đất phía bên kia đường.
Tại nơi này nghe nói đêm trước đó, một Trung đội Trinh Sát Nhảy Dù, 1 Pháo Đội Nhảy Dù 105ly, và quan đầu tỉnh Long Khánh đã bị phục kích và “bị” hiệt hại đáng kể.
Trở lại đoàn quân lui binh :
- Ổ phục kích tương đối nhỏ và đã bị TĐ1ND dọn dẹp sạch sẽ trong vài phút giao tranh, đổi lại ta mất Thần ưng Nhành, Khóa 27VBĐL mới về TĐ1ND không lâu.
Theo lời y-tá Tiểu Đoàn thuật lại, Nhành bị miểng lựu đạn ghim vào nơi cột tủy sống (spinal cord) không cử động được, AE ĐĐ11ND thay phiên nhau cõng Nhành về đến địa đầu tỉnh Phước Tuy thì Nhành trút hơi thở cuối cùng.
Xác anh được Chiến xa di tản về Phước Tuy. Vì Nhành là lính mới nên BCH Tiểu Đoàn chưa trao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tác chiến cho anh.
Tổng kết hy sinh về nhân mạng của ĐĐ11ND tính đến thời điểm này là :
- 3 ông Thần ưng (3)
- 2 sĩ quan thiếu úy trừ bị và 1 hiện dịch).
Ấy là chưa kể các AE binh sĩ đã hy sinh trong trận này, và các AE binh sĩ mất tích, và vẫn còn mất tích cho đến ngày hôm nay, Thứ Bảy, March 4, 2015….
ĐƯỜNG VỀ VŨNG TÀU
Sau cuộc hành quân triệt thoái khỏi mặt trận Long Khánh về tỉnh Phước Tuy, TĐ1ND được bổ xung quân số và nhận quân lương.
Quân số các đại đội của TĐ1ND đã giảm đi 1 phần vì trên đường di tản từ mặt trận Long Khánh về Tiểu khu Phước Tuy một số binh sĩ đã thất lạc trong rừng người, một số thì tự động bỏ ngũ đi riêng rẽ hay sáp nhập vào các Tiểu Đoàn khác…
Riêng ĐĐ11ND nhận thêm 2 Sĩ quan tân binh K29/30 VBĐL.
Người về thì cũng có người đi, trong ngày này, Trung sĩ Giang, cựu xạ thủ súng cối 81ly Tiểu Đoàn được thuyên chuyển về ĐĐ11ND đã đến xin 242 cho phép anh ta được rời đơn vị (vĩnh viễn), đã đến nước này thì giữ người ta ở lại cũng vô ích thôi, 242 chúc Giang thượng lộ bình an, bây giờ không biết Giang lưu lạc nơi đâu.
Cùng ngày các Kế toán trưởng của TĐ1ND ra tiền phương phát lương cho AE và họ về trong ngày bằng trực thăng Chinook, cũng trong tuần này, các đệ nhất phu nhân và con cái họ đã bay ra Vũng Tàu bằng trực thăng Chinook để thăm các quan chỉ huy Lữ đoàn trưởng, Lữ đoàn phó, và các Tiểu đoàn trưởng của các Tiểu Đoàn Nhảy Dù 1, 8 và 9.
Ở Phước Tuy, bch ĐĐ11ND đóng ngay tại Pháo Đội 155ly của Tiểu khu Phước Tuy, Pháo Đội này còn đầy đủ súng ống và đạn dược nhưng hình như không còn người nữa (căn cứ bỏ trống).
Chiều hôm đó, 242 được lệnh của Tiểu Đoàn cho phá hủy Pháo Đội 155ly này và lên đường, đây là chặng đường lui binh lần thứ hai và điểm hẹn là Bến Đá, Vũng Tàu.
Trên đường triệt thoái, đoàn quân nghỉ chân ở một ngôi làng (không nhớ tên) đến gần sáng có một xe vận tải Molotova của VC đi lạc vào chính giữa đoàn quân đang nghỉ ngơi, và đã bị các chiến binh Dù tiêu diệt trong vài phút, xe bốc cháy sáng cả một góc trời trong đêm đen… và sau cùng tan thành tro bụi.
Rạng sáng, ĐĐ11ND băng qua sông Phước Tuy, ĐĐ14ND của anh Hữu đi về hướng cầu Cỏ May (242 chỉ còn nhớ rất rõ đội hình lui binh của ĐĐ11ND của mình thôi).
CUỘC VƯỢT BIỂN CÓ MỘT KHÔNG HAI CỦA LỮ ĐOÀN I NHẢY DÙ , QUÂN LỰC VNCH VƯỢT BIỂN ĐÔNG – 30/4/1975
Đoàn quân băng qua sông Phước Tuy đến buổi chiều thì nước thủy triều lên đến cổ , giây dù đã được các AE ĐĐ11ND buộc qua các thân cây tràm (mọc dưới sông) để đoàn quân nương theo mà đi.
Nếu không có sợi giây dù này thì đoàn quân ĐĐ11ND đã chết đuối giữa dòng sông hôm ấy.
Hành trang của 242 lúc bấy giờ gồm những hình ảnh kỷ niệm, nhật ký ghi chép từ Khối Bổ Sung/Sư Đoàn Nhảy Dù ra đến Cổ Bi, Thường Đức, quyển sổ danh sách của Trung đội 5 hồi 73-74, mấy bao gạo sấy, v.v. đều cuốn theo dòng nước , chỉ còn lại mấy quả lựu đạn và vài kíp đạn M-16 nằm dưới đáy ba-lô không bị rơi xuống nước thôi.
Khoảng 16-17 giờ chiều thì đoàn quân gặp được 3 chiếc ghe buôn muối bằng gỗ của dân đi ngang qua, cả 3 chiếc ghe lúc bấy giờ không chở muối.
Họ thấy AE Nhảy Dù đang tiến thối lưỡng nan nên động lòng ngừng lại (hay đã có ai ở đâu đó chỉ thị cho họ làm điều này?) vớt đoàn quân Nhảy Dù lên và đưa AE về Bến Đá, Vũng Tàu an toàn.
Khi đoàn thuyền ra đến giữa sông thì 242 thấy các AE ĐĐ14ND của anh Hữu (242 đoán thế thôi chứ không rõ đơn vị nào của Lữ Đoàn I Nhảy Dù) cho giật sập cầu Cỏ May để chặn quân cộng sản Bắc Việt không cho tiến vào thị xã Vũng Tàu, nhất là Chiến xa của chúng.
Về đến Vũng Tàu, đêm hôm đó và suốt ngày hôm sau ĐĐ11ND đóng trên một chòm núi ở Bãi sau (hay Bãi trước, không còn nhớ nữa) gần một ngôi chùa nhỏ và xinh xắn nằm trên núi, không nhớ rõ chùa ni tên chi nhưng phong cảnh thật thơ mộng, quan sát bằng ống nhòm thấy có một vài thầy lảng vảng quanh hiên chùa, không ngờ lại bị mấy thầy “Thích-Đề-Lô” này gọi pháo chào mừng, 242 bèn cho AE ngự ngay vào chùa và xung quanh chùa, làm một cuộc “kim sơn” (5) trong chùa chỉ thấy còn có một ni cô già thôi, còn mấy “thầy” Thích-Đề-Lô kia đã tàng hình đâu đó rồi.
Nhờ vậy mà không còn bị ăn pháo lai rai nữa.
(5) Kim sơn : ám hiệu truyền tin là “kiểm soát”.
ĐƯỜNG VỀ BẾN TÀU VÀM LÁNG , TIỂU KHU GÒ CÔNG
Sau khi nghỉ ngơi ở Bến Đá một đêm, ngày hôm sau Lữ Đoàn I Nhảy Dù chia nhau lên các con tàu đã bị “ ai đó ” trưng thu hay tịch thu, cướp, hay cưỡng ép của dân... (cũng có thể do chủ nhân tàu tình ng
uyện) như sau:
• BCH Lữ Đoàn I Nhảy Dù đi trên chiếc tàu buôn lớn Sài Gòn-Hồng Kông. Tàu có tên là “Vĩnh Nguyên” (7) được cấu trúc hoàn toàn bằng gỗ.
(7) “Vĩnh Nguyên”: tên của con tàu buôn Hương Cảng-Sài Gòn trước 1975, 242 để nó trong ngoặc kép vì không còn nhớ rõ có phải nó là “VN” hay là một tên khác? Nhưng còn nhớ chữ đầu là Vĩnh hay Vinh...
• TĐ1ND đi trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ, và một số binh sĩ của 8 và 9 Dù đi trên thuyền của ĐĐ11ND. (
Đặc biệt trên thuyền của 242 có hai Sĩ quan khách :
-1 đại úy hay thiếu tá (?) TQLC tên Liễu, khóa đàn anh của anh Thể (vì nghe anh gọi ông ta bằng “niên trưởng”) nhờ anh Thể cho đi quá giang và 1 đại úy Địa Phương Quân không quen biết xin đi cùng).
• Tiểu đoàn 8 & 9 Nhảy Dù đi trên hai chiếc tàu lớn bằng sắt.
Đoàn tàu & ghe đánh cá chở Lữ Đoàn I Nhảy Dù rời Bến Đá, Vũng Tàu lúc xế chiều ngày 30/4/1975 trực chỉ bến Vàm Láng, Tiểu khu Gò Công.
Trên đường từ Vũng Tàu về Gò Công trời nổi cơn giông bão to, AE không quen đi thuyền trên biển nên nhiều người bị say sóng, ói ra đến mật xanh vì thuyền cứ nhảy 1 điệu điên loạn do sóng biển gây ra suốt dọc đường.
Có lúc tưởng như thuyền sắp chìm xuống vực sâu, 242 có một khoảnh khắc quẩn trí bi quan... nghĩ rằng đoàn quân sẽ phải chết ở đây thôi - và cái chết này chỉ là chết chìm... chết trôi sông... chẳng vinh dự tẹo nào, lịch sử dân tộc VN sẽ cho là không đúng nghĩa [color=red“tử sĩ” [/color]tử trận trên một chiến địa đàng hoàng...
Nhưng rồi lại tự an ủi mình có mệnh hệ nào thì cũng là [b]“tử vì nước thôi !” .Nhưng Trời cao chỉ hù/ghẹo Nhảy Dù vài phút thôi, sau cơn giông bão thì trời sáng tỏ.
Đoàn tàu cặp bến Vàm Láng khoảng 15-16 giờ chiều.
Đại bộ phận BCH Lữ Đoàn I Nhảy Dù và một số binh sĩ từ hai Tiểu Đoàn 8 & 9 ở lại trên tàu buôn “Vĩnh Nguyên” và các tàu sắt.
CUỘC VƯỢT BIỂN CÓ MỘT KHÔNG HAI CỦA LỮ ĐOÀN I NHẢY DÙ , QUÂN LỰC VNCH VƯỢT BIỂN ĐÔNG – 30/4/1975
ĐỔ BỘ LÊN BẾN VÀM LÁNG
TĐ1ND đổ bộ lên chợ Vàm Láng trước nhất vì đi các thuyền đánh cá nhỏ nên cặp bến rất dễ dàng, các Sĩ quan CH Lữ Đoàn I Nhảy Dù như các anh Châu, Đỉnh, Hồng, v.v. cũng đã lên chợ Vàm Láng
Đại úy Tiếp (Sĩ quan B3/Lữ Đoàn I Nhảy Dù) nằm lại tàu buôn “Vĩnh Nguyên”, tàu chở BCH Lữ Đoàn I Nhảy Dù, để canh chừng tên “tài công” trốn mất sẽ không có ai lái tàu (nghe nói thế).
Riêng 242 phải nằm lại trên thuyền con vì say sóng, khi tỉnh lại mới mò lên bến, lúc này một số các AE binh sĩ có radio nên nghe được lệnh “đầu hàng” của tên tổng thống miền nam VN cuối cùng Dương văn Minh.
Khi 242 lên chợ Vàm Láng thì được biết anh Thể đã đưa một số các AE của ĐĐ11ND và đám truyền tin TĐ1ND lên Tiểu khu Gò Công để bắt tay với bác tỉnh trưởng ở đó (không rõ các đại đội khác của TĐ1ND có đi với anh Thể hay không).
Khi anh Thể trên đường lên Tiểu khu GC bằng Quân Xa GMC thì cùng lúc ông đại tá tỉnh trưởng GC (quên tên lão này mất rồi) và vợ con cũng di tản khỏi tòa tỉnh Gò Công về bến Vàm Láng để di tản....
Cũng nên biết là Vàm Láng không có một tiếng súng của địch cũng như của ta. Vàm Láng thuộc Vùng 4 của ta lúc bấy giờ rất thanh bình !
CHUYỆN VUI BUỒN TRÊN BỜ SÔNG VÀM LÁNG ( VL) VÀO NGÀY 30/4/1975 :
Ở thời điểm này, 242 đi lang thang trong chợ Vàm Láng, dùng số tiền lương còn lại vừa mới lãnh hôm nọ ở Phước Tuy đớp mấy tô phở lót lòng, ăn xong rảo bước vào một căn nhà tôn lớn của chợ VL thì gặp Trung tá Lữ đoàn phó Lê Hồng , đang ngồi giữa nhà với một số AE, anh Hồng không nói gì, cũng không cử động, dáng vẻ anh trầm tư và bình tĩnh đáng sợ.
242 chán quá lại bỏ đi ra đường, lang thang một hồi thì thấy một đám đông gồm toàn quân nhân Nhảy Dù đang bu quanh một chiếc xe jeep nhà binh Nhảy Dù, 242 tò mò đến xem thì ra là bác Trung tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Đỉnh, và đây là lần đầu tiên 242 gặp mặt Lữ đoàn trưởng kể từ lúc tình nguyện về Binh chủng Nhảy Dù.
242 đến trễ nên chỉ thấy cảnh quan quân khóc như mưa, nhất là các Sĩ quan tân binh mới được bổ về TĐ1ND lúc còn ở Phước Tuy, lại nghe anh Đỉnh tuyên bố với AE đại khái như :
- Sẽ đưa AE sang Úc định cư, v.v.
Lúc này, thấy anh Thể trở về bến Vàm Láng trên Quân Xa GMC với một vài AE..., anh Thể đã để lại một số binh sĩ TĐ1ND trên Tiểu khu Gò Công, và trở lại Vàm Láng định để chở tiếp nữa.)
Nhưng mọi sự liên hệ đến chiến tranh & đánh đấm... đều đã chấm dứt từ đây.
PHÚT CHIA LY BÊN BỜ SÔNG VÀM LÁNG :
Sau cùng anh Đỉnh anh Châu thay quần áo dân sự, chia tay với Lữ Đoàn I Nhảy Dù, và họ về Sài Gòn (trên một chiếc xe gắn máy hiệu Honda?)... để đón gia đình của họ.
Trước khi đi, anh Đỉnh yêu cầu Lữ Đoàn đợi các anh ấy ở bến Vàm Láng trong lúc họ (Đỉnh & Châu) về Sài Gòn tìm vợ con... rồi sẽ trở lại đây... và a-lê... “chúng ta sẽ cùng nhau đi sang Úc Đại Lợi định cư!!!”
Sau khi họ rời khỏi đơn vị thì Lữ đoàn phó Lê Hồng để các AE tự quyết định với số phận của họ :
- Một là theo anh, hai là về với gia đình.
Đa số AE và hầu hết các sĩ quan trẻ đều chọn con đường về với gia đình họ, cũng nhiều lắm, mọi người được đem theo vũ khí cá nhân để tự vệ trong khi đi đường, chỉ tội cho số AE kẹt lại trên Tiểu khu GC không biết lệnh lạt chi cả vì lúc này anh Thể đã quyết định đi theo Lữ Đoàn I Nhảy Dù vượt biên chứ không trở về Tiểu khu GC nữa, không biết anh Thể có liên lạc bằng máy truyền tin cho họ biết không ?
Riêng các AE còn lại và 242 chọn con đường vượt biên theo anh Hồng, bình tĩnh vào chợ VL ăn uống cho buổi tối ngày hôm ấy, cũng may là bến Vàm Láng vào ngày hôm đó không có chuyện gì xảy ra, không thấy một tên VC nào lai vãng gây sự nơi đây.
Chợ Vàm Láng cũng rất vui vẻ như không có gì xảy ra, một quang cảnh thật thanh bình.
Ăn uống xong thì trời tối, đoàn quân lục tục lên các con tàu đang đậu chờ ở ngoài khơi Vàm Láng, Gò Công để hành trình ra biển Đông.
Trước khi lên tàu, như đã hứa với anh Đỉnh và anh Châu, anh Hồng đã để lại bến Vàm Láng một trung đội Nhảy Dù, Trung đội 1 của ĐĐ11ND do Trung sĩ nhất Đức thế anh Mẫn làm Trung đội trưởng, để chờ hai ông (Đỉnh & Châu) và gia quyến họ, anh Hồng còn giao hẹn nếu đúng 23giờ00, tức 11giờ đêm hôm đó mà không thấy 2 anh Đỉnh & Châu trở lại thì trung đội Đức đen phải rút về tàu Lữ đoàn ngay.
GIÂY PHÚT KINH HOÀNG TRÊN TÀU BUÔN “ VĨNH NGUYÊN ” :
Tàu này chở BCH LĐ1ND, TĐ1ND, Đại tá tỉnh trưởng tỉnh Gò công & gia đình ông, gia đình ông bà Mekong Nguyễn Văn Minh (một nhà buôn giầu có ở Vùng I), và một số dân sự mà 242 không bao giờ biết họ là ai.
242 chỉ nghe AE kể lại chuyện như vầy :
Anh Tiếp ở lại trên tàu lữ đoàn với nhiệm vụ canh giữ “tài công” của tàu “Vĩnh Nguyên” không cho lão bỏ trốn, nhưng anh Tiếp nhà ta đã bị lão già kia bịp sao đó, để cho lão lên bến Vàm Láng ăn uống, kết quả dĩ nhiên là ông “tài công” này đã trở thành con chim xổ lồng bay tự do khắp muôn phương !
Mọi người trên tàu buồn và lo lắng lắm, sau cùng thì bên TĐ9ND có một thiếu úy (không rõ tên) biết lái ghe trên sông, tình nguyện làm “tài công bất đắc dĩ” (8) cho con tàu “Vĩnh Nguyên”.
Thực hư ra sao về chuyện “tài công bỏ trốn” thì chỉ có anh Tiếp B3 Lữ Đoàn biết rõ nhất thôi.
***
(8) Tài công bất đắc dĩ : 242 chỉ nghe AE thuật lại thôi và chưa hề gặp vị thiếu úy TĐ9ND này, và cũng không biết hiện giờ anh ta lưu lạc nơi đâu.
Nhưng 242 biết anh ta đã lên xà-lan lúc bấy giờ nếu thật anh là người đã lái chiếc tàu này từ bến Vàm Láng, Gò Công ra hải phận quốc tế.
Vì chẳng bao lâu sau đó, chính mắt 242 đã thấy con tàu “Vĩnh Nguyên” không người bốc cháy dữ dội trên biển đông gần xà-lan chở người tỵ nạn cộng sản hôm đó.
Câu chuyện người “tài công bất đắc dĩ” này được 242 đem vào đây là vì trong suốt đoạn đường đã có hai sự kiện quan trọng xảy ra :
- 1) tàu đụng dàn đèn bằng tre hay gỗ đưa dẫn tàu bè đánh cá ra vào bến Vàm Láng
- 2) sự luộm thuộm trong lúc rước Trung đội 1 của Trung sĩ nhất Đức khi chiếc ghe anh ta đuổi theo tàu Lữ Đoàn từ trong bến :
Nếu là một tài công kinh nghiệm trên đại dương (Sài Gòn-Hương Cảng) thì không đụng vào dàn đèn trên biển Vàm Láng đêm hôm đó một cách dễ dàng như thế, và
- 3) là một tài công kinh nghiệm, khi vớt một tàu nhỏ, thì người tài công sẽ cho con tàu đi chậm lại hay ngừng hẳn để rước người chứ không để tàu nhỏ đuổi theo mình hụt hơi như vậy.
Cả 2 dữ kiện này cho phép 242 tin rằng anh “tài công” này quả là anh thiếu úy lái ghe trên sông từ TĐ9ND sang cầm lái.
Còn ông pi-lốt chính đã cao chạy xa bay như kể trong câu truyện bên trên.
*****
Last edited by hoathienly19; 3 Weeks Ago at 19:35.
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
CUỘC VƯỢT BIỂN CÓ MỘT KHÔNG HAI CỦA LỮ ĐOÀN I NHẢY DÙ , QUÂN LỰC VNCH VƯỢT BIỂN ĐÔNG – 30/4/1975
ĐƯỜNG RA BIỂN ĐÔNG
Khi chàng đã lỗi hẹn :
Trong khi chờ đợi 2 ông Đỉnh & Châu trở lại cùng với gia đình họ thì hai tàu lớn bằng sắt chở Tiểu Đoàn 8 & TĐ9ND đã cao chạy xa bay (9).
(9) Cao chạy xa bay : người viết dùng các chữ này (phần này không có trong đặc san Cánh Hoa Dù 2015) để chỉ khoảng cách và thời gian giữa 2 hay 3 con tàu trên đại dương lúc bấy giờ.
Không có ý chỉ trích hay châm biếm ai cả, cũng không dính dáng gì đến 2 chữ "trách nhiệm" áp dụng cho bất cứ một nhóm hay một người nào.
Bốn chữ này thích hợp với hiện trường vào ngày 30-4-1075 của 40 năm về trước - nghĩa là mạnh ai nấy đi.
Như mọi người chúng ta đều biết, khi một tổng thống của 1 nước tuyên bố đầu hàng một nước khác thì mọi người bên phe chiến bại không phải chịu trách nhiệm với chính quyền cũ của họ nữa.
Bằng chứng là cố Trung tá Lữ Đoàn phó LĐIND Lê Hồng đã tuyên bố trước Ba quân :
- " AI MUỐN VỀ VỚI GIA ĐÌNH HỌ THÌ CÓ THỂ LÀM ĐIỀU ĐÓ TỰ NHIÊN - AI MUỐN ĐI THEO ANH THÌ CŨNG TỰ NHIÊN THOẢI MÁI !"
Rất sòng phẳng ! Đấy là nói về LÝ; còn về TÌNH thì mọi người có thể hiểu riêng theo quan điểm thầm lặng của mỗi người.
[color=red]22 giờ 30 phút, tức 10:30 giờ đêm 30/4/1975, [/clor]tàu BCH Lữ Đoàn I Nhảy Dù nổ máy và bắt đầu từ từ lướt sóng, trực chỉ Vũng Tàu và sau đó là biển Đông ! 23 giờ tức 11:00 giờ đêm, Trung đội 1/ĐĐ11ND của Trung sĩ nhất Đức không thấy 2 anh Đỉnh-Châu như đã hẹn ban chiều, biết là họ đã không về được điểm hẹn nữa nên Đức phải rút trung đội khỏi vị trí để đuổi theo cho kịp tàu Lữ Đoàn.
Thật tội nghiệp cho trung đội Đức, bầu trời đêm hôm đó không mưa nhưng mây đen che mất ánh trăng làm đêm đen mù mịt trên sông, ghe nhỏ đuổi tàu lớn, hì hục mãi gần nửa giờ đồng hồ mới đưa hết Trung đội 1 lên tàu lớn được, thật gian nan !
Trong lúc vượt sông ra bể lớn, tàu Lữ Đoàn lại đụng phải một đồn canh của dân chài, đụng sập hoàn toàn cái đồn bằng cây dùng như ngọn Hải đăng để đưa dẫn ghe đánh cá, nhưng không gây thương vong cho ai trên tàu cũng như trên sông, thật là may !
[i] Khoảng 2 hay 3 giờ sáng [/]thì con tàu lướt qua địa phận Vũng Tàu, và chẳng bao lâu thì ra biển lớn, anh Tiếp đi vòng quanh trên boong tàu, dặn dò và trấn an mọi người, trong khi 242 kiểm soát lại khẩu Colt-45 của mình và lên nòng sẵn sàng chờ... nếu tàu bị vỡ vì một lý do gì, thề quyết không để cho mình chết đuối được (242 không biết bơi, rất sợ bị ngộp nước).
Khi con tàu qua khỏi biển Vũng Tàu thì trời sáng trăng, không còn mây mù nữa, mặt nước phẳng lặng như tờ, không một tiếng động.
Từ lúc rời bến Vàm Láng, suốt đêm trường cho đến gần sáng, anh Hồng một mình gọi các tàu chở Tiểu Đoàn 8 & 9 Nhảy Dù qua hệ thống máy PRC-25, giọng anh oang oang trong đêm thanh vắng trên biển Thái Bình bao la, có lúc nghe giọng anh như giọng của một con chim lạc đàn mất mẹ, rất thê lương và thảm thiết như...
- “ Hồng Vân đây! (6) Các anh đã bỏ tôi rồi...”.
(6) “Hồng Vân” là danh hiệu truyền tin của cố Trung tá Lê Hồng.
Nhưng rồi trước khi trời sáng, anh Hồng đã liên lạc được với Tiểu Đoàn 8 & 9 Nhảy Dù. Và chẳng bao lâu thì ba con tàu chở đoàn quân Lữ Đoàn I Nhảy Dù nhìn thấy nhau trong tầm mắt thường.
Đoàn tàu tiếp tục lướt trên mặt biển sáng ngày 01/05/1975 đến khoảng 10:00 giờ sáng thì gặp được chiếc “ xà-lan ” khổng lồ đang được một chiếc tàu kéo (tugboat) trên biển do 1 thủy thủ người Thái Lan điều khiển.
Chiếc xà-lan này ngày xưa được quân đội Hoa Kỳ dùng để chứa vũ khí và đạn dược tiếp viện cho QLVNCH (nghe nói thế), sau ngày 30/4/1975 đã được quân đội Mỹ chuyển thành hòn đảo di động tý hon đón các thuyền nhân tỵ nạn miền nam VN muốn rời bỏ thiên đàng cộng sản.
Xà-lan lớn bằng một sân vận động FootBall của Mỹ (in-field), xung quanh được bao bọc bằng bốn bức tường với 4 lớp bao cát dầy, bên ngoài cùng và bên trong cùng là lớp lưới bằng sắt để giữ cho các bao cát không bị đổ.
Chiếc xà-lan khổng lồ này lúc đó đang trôi chầm chậm, rất là chậm trên mặt biển Đông một mình, và nhờ vậy mà đoàn tàu Lữ Đoàn I Nhảy Dù đuổi kịp trong vòng nửa giờ đồng hồ khi phát hiện được nó.
Đến nơi thì thấy dân chúng đang ngồi trên các bờ tường bao cát của chiếc xà-lan này, đông lắm, đông như đàn cá mòi trên biển.
Có một ông lúc bấy giờ, nghe nói y là một Đại tá QLVNCH, thấy đoàn tàu Lữ Đoàn I Nhảy Dù quăng giây cáp sang xà lan để cặp vào thì lão ta hoảng quá, cầm megaphone ra lệnh cho đoàn tàu Nhảy Dù rằng :
-“ Mỹ họ bắt quý vị phải vất hết vũ khí và đạn dược xuống biển thì nó mới cho lên xà-lan” (đại khái thế)."
Bên tàu Nhảy Dù nghe theo và quăng hết mọi thứ xuống biển, chưa yên tâm, y ta tiếp tục ra lệnh :
- “ Các bạn phải thay quân phục đang mặc bằng y phục dân thường thì Mỹ họ mới chịu cho lên xà-lan!”
Lúc này đa số quân Nhảy Dù đã đổ bộ lên xà-lan, 242 cũng đã lên được xà-lan, phải phì cười vì chỉ thấy toàn “mỹ mũi tẹt”, chả thấy một mống “mỹ mũi lõ” nào cả.
Thấy “lính dù đông và hùng dũng” quá, bà con dân sự trên xà-lan mỗi gia đình cống hiến quần áo cho mỗi tên lính nhảy dù để thay thế cho bộ quân phục họ đang mặc, vì quần áo đủ mọi loại đến từ nhiều tầng lớp dân chúng trên xà-lan, phút chốc đã biến đoàn quân Nhảy Dù uy phong lẫm liệt hàng đầu của QLVNCH giống như một đoàn người bị bệnh “Đồng tình luyến ái” đang diễn hành trên các đại lộ Hoa Kỳ đòi quyền luyến ái tự do như những cặp tình nhân nam nữ bình thường vậy.
Có một gia đình thấy 242 ngồi đực mặt ra đó (vì khát nước) không chịu nhận quần áo, nên một cô trong gia đình “ động tâm” đã chọn được một cái áo T-Shirt mầu xanh lợt vừa vặn, lịch sự, và một chiếc quần đen ống loa híp-pi, 242 miễn cưỡng mặc chiếc áo thôi, đã trở thành bán quân sự, trên “dân” dưới “lính”.
Sau khi ăn diện xong thì 242 đi kiếm nước uống, may quá, trong người còn giữ khẩu Colt-45 (phát cho Đại đội trưởng ở Phước Tuy), 242 bèn gỡ hết các viên đạn quẳng xuống biển, đem đến thành xà-lan cạnh chiếc tàu kéo đổi cho tên thủy thủ lấy một lon soda uống cho đỡ khát.
Lúc đó trên người 242 còn lại mấy thứ rất giá trị :
- Hai tấm thẻ bài
- Giấy tờ cá nhân
- Chiếc địa bàn
- Tấm bản đồ hành quân Long Khánh
- Chiếc quần Nhảy Dù đang mặc lúc bấy giờ, và đôi giầy hành quân còn khá mới (sau này lên tàu Mỹ chiếc địa bàn và bản đồ hành quân bị lính “TQLC Mỹ nó” tịch thu , các thứ khác thì “Mỹ nó” trả lại).
Trong lúc tàu lữ đoàn quăng giây cáp nối vào chiếc xà-lan, trung sĩ Vân (người của BCH Lữ Đoàn I Nhảy Dù) điều khiển đầu giây phía bên xà-lan, vì sơ ý nên đã bị giây cáp nghiến gẫy một chân, sau này lên tàu Mỹ, các bác sĩ Mỹ cưa chân (nghe nói thế) anh Vân vì xương gẫy nát không bó được !
Thật tội nghiệp cho anh Vân trở thành Thương Phế binh bất đắc dĩ. Không biết Vân bây giờ sống chết phương nào !
***
Last edited by hoathienly19; 2 Weeks Ago at 05:46.
The Following User Says Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.