𝐓𝐫𝐮𝐧𝐠 𝐐𝐮𝐨̂́𝐜 – 𝐡𝐚̣̂𝐮 𝐩𝐡𝐮̛𝐨̛𝐧𝐠 𝐥𝐨̛́𝐧 𝐯𝐚̀ 𝐬𝐚𝐨 𝐁𝐚̆́𝐜 Đ𝐚̂̉𝐮 𝐜𝐮̉𝐚 cộng phỉ bắc việt 𝐭𝐫𝐨𝐧𝐠 𝐜𝐡𝐢𝐞̂́𝐧 𝐭𝐫𝐚𝐧𝐡 𝐕𝐢𝐞̣̂𝐭 𝐍𝐚𝐦
- Cộng phỉ bắc việt lộ rơ bộ mặt thật là tay sai, lính đánh thuê của cộng sản Trung Quốc – Không có quan thầy Trung Quốc viện trợ, công phỉ bắc việt KHÔNG BAO GIỜ xâm chiếm và ăn cướp được Miền Nam Việt Nam.
Khi nói đến chiến tranh Việt Nam, bạn đọc ắt hẳn sẽ nghĩ ngay đến Hoa Kỳ. Họ được mệnh danh là “kẻ xâm lược”, “kẻ giật dây”, “kẻ đầu sỏ” đứng đằng sau Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Điều này lại càng dễ nhận thấy hơn khi báo chí Hoa Kỳ và quốc tế liên tục đưa tin, bài về các hoạt động và những hỗ trợ của lực lượng này tại Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng c̣n nhiều “thế lực ngoại bang” khác can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Song bởi thông tin ít ỏi và môi trường báo chí bị kiểm soát chặt chẽ của quốc gia đó, ít ai biết đến việc tham chiến này của họ để b́nh luận hay phán xét.
Dưới đây là những điểm sơ lược bạn cần biết về vai tṛ của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến mà sách báo nhà nước cộng phỉ bắc việt vẫn quỷ quyệt, dối trá, gian xảo và lưu manh gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Trung Quốc can dự vào chiến tranh Việt Nam: Thuyết âm mưu trị giá 20 tỷ USD
Một trong những thất bại lớn nhất của báo chí phương Tây, cả trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam lẫn trong những khủng hoảng toàn cầu như đại dịch COVID-19, là Trung Quốc “nói sao” th́ họ “nghe vậy”. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Giới t́nh báo Hoa Kỳ từ lâu đă báo cáo rằng họ phát hiện một số lượng lớn quân dân Trung Quốc đi qua biên giới Bắc Việt. Cùng với đó, các lực lượng tham chiến rất thường ghi nhận “quân nhân Bắc Việt” nhưng lại mặc quân phục Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong suốt nhiều thập niên, Trung Quốc phủ nhận việc này. Và báo chí phương Tây cũng không khai thác hay làm rơ ǵ thêm. Trung Quốc can dự vào chiến tranh Việt Nam trong một thời gian dài chỉ được xem là “thuyết âm mưu”.
Tuy nhiên, những nghi ngờ bị đánh tan khi chính giới tướng lĩnh và các nhà khoa học quân sự, pháp luật quốc tế của đảng cộng sản Trung Quốc thừa nhận chuyện này. Vào khoảng đầu những năm 2000, Việt Nam b́nh thường hóa quan hệ với chính quyền Hoa Kỳ và hầu hết các tổ chức quốc tế trên thế giới, người Trung Quốc cũng “mở ḷng” hơn với những đóng góp của họ trong chiến tranh Việt Nam.
Theo ghi nhận của Washington Post, báo cáo của chính phủ Trung Quốc cho thấy có đến 310.000 quân Trung Quốc hiện diện tại Việt Nam trong thời kỳ đỉnh điểm của chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1960 – 1970.
Tổng chi phí mà họ đài thọ cho chính quyền cộng phỉ Bắc Việt (hay Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa) cả về kinh tế lẫn công cụ, vũ khí quân dụng là hơn 20 tỷ USD. Một đóng góp khổng lồ trong giai đoạn 1955 – 1975.
Như vậy, sự thật cần khẳng định trước tiên, là rơ ràng Trung Quốc có tham gia vào chiến tranh Việt Nam cả về nhân lực lẫn tài lực. Và khoản chi phí viện trợ của bọn chúng cho bọn cộng phỉ bắc việt xâm lược Miền Nam Việt Nam là khổng lồ. Câu hỏi đặt ra ở đây là tầm ảnh hưởng chính sách và đường lối của Bắc Kinh đối với Hà Nội như thế nào? (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Chuyên gia Trung Quốc: Cộng sản Việt Nam đă dối trá khi cho rằng họ thắng chiến tranh Việt Nam bằng nội lực
Giáo sư Sử Học người Trung Quốc Qiang Zhai là nhà khoa học đầu tiên mang góc nh́n của Trung Quốc về chiến tranh Việt Nam ra phương Tây. Quyển “Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam” (China and the Vietnam War) do ông chấp bút vẫn là tư liệu quan trọng nhất để các nhà nghiên cứu ngoại quốc t́m hiểu về chính sách, đường lối và tham vọng của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam.
Qiang Zhai thừa nhận rằng giới sử gia và bọn cộng phỉ bắc việt không muốn làm rơ vai tṛ và đóng góp của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam. Trả lời phỏng vấn riêng của Wilson Center (hay tên đầy đủ là Woodrow Wilson International Center for Scholars, một trong mười tổ chức chiến lược hàng đầu thế giới), Zhai lư giải rằng v́ sự tự tôn, tự măn, và ngạo mạn, bon cộng phỉ bắc việt muốn mọi người tin rằng bọn chúng tự chiến thắng chiến tranh Việt Nam (thắng Mỹ) mà không cần quan thầy Trung Quốc và khối cộng sản quốc tế trợ giúp.
Ngược lại, Trung Quốc thời điểm đó cũng không muốn thế giới biết rằng ḿnh can dự trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung) Họ không muốn bị lôi vào cuộc chiến tranh Triều Tiên 2.0 này.
Ông này cũng nói thêm, khó có thể cáo buộc rằng Hồ Chí Minh và các ban bệ của ông ta là con rối của chính quyền Trung Quốc. Hồ có tham vọng riêng và theo đuổi những lợi ích riêng, và chúng đôi khi trái ngược với những thứ Trung Nam Hải mong muốn. Nhưng hầu hết những tham vọng mà bọn chúng đạt được, mặt khác, lại đều cần có sự hỗ trợ hết ḿnh, hay thậm chí là chỉ dẫn, từ phía quan thầy Trung Quốc.
Quyển “Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam” cùng với các nghiên cứu sau này của Trung Quốc lẫn quốc tế chứng minh giả thuyết đó.
Trung Quốc: Hậu phương lớn của Bắc Việt trong giai đoạn chuẩn bị chiến tranh
Zhai bắt đầu quyển sách các thảo luận về mối quan hệ giữa chính quyền Bắc Việt và Bắc Kinh bằng cách nói về lịch sử văn hiến giữa hai quốc gia. Người Việt luôn có thói quen ngàn năm là ḍ xét và học hỏi từ Trung Quốc. Từ nông nghiệp đến quân đội, từ thực phẩm đến văn hóa, và cao nhất là chính trị.
Vậy nên việc bọn phỉ quyền nhờ cậy vào chính quyền cộng sản Trung Quốc, vốn thành lập sau họ đến tận bốn năm, cũng là một chuyện dễ hiểu. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Đến cuối cùng, chính sách và Luật Cải Cách Ruộng Đất năm 1953 tại Bắc Việt cũng là một sản phẩm được hội ư rất kỹ với các tham mưu và lănh đạo người Trung Quốc. Thậm chí cũng có cáo buộc rằng toàn bộ chương tŕnh cải cách ruộng đất là từ sức ép của Bắc Kinh mà ra.
Những vấn đề trên chúng ta sẽ phải thảo luận trong một dịp khác, kỹ càng hơn, nhưng có thể an toàn mà thống nhất rằng vai tṛ của Trung Quốc trong các quyết sách của bọn phỉ quyền Hà Nội là không hề nhỏ.
Tác giả Chen Jian cũng sẽ đồng ư với nhận định trên. Trong nghiên cứu “China’s Involvement in the Vietnam War”, đăng tải trên tạp chí China Quarterly do Đại Học Cambridge chịu trách nhiệm xuất bản, Jian t́m kiếm các văn bản trao đổi chính thức giữa hai đảng và t́m thấy nhiều tài liệu thú vị.
Ví dụ, bộ chính trị đảng cộng phỉ Việt Nam gửi Bắc Kinh một văn kiện hỏi ư kiến Bắc Kinh về “cách mạng ở miền Nam Việt Nam” vào mùa hè năm 1958, tức sau khi họ thực hiện xong cải cách ruộng đất. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Khi trả lời, những người đồng nhiệm Trung Quốc khuyên rằng “nhiệm vụ cốt lơi, quan trọng và gấp rút nhất” hiện nay là quảng bá xây dựng xă hội chủ nghĩa và tái xây dựng miền Bắc. Theo Trung Nam Hải, kỳ vọng thực hiện cách mạng tại miền Nam Việt ngay tại thời điểm đó là “bất khả thi”.
Năm 1960, Chu Ân Lai (Zhou Enlai) thăm và làm việc tại Hà Nội. Ở đây, ông nhấn mạnh với những người bạn Việt Nam của ḿnh rằng cần kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Và rằng dù đấu tranh vũ trang là không thể tránh khỏi, Hà Nội cần chuẩn bị xây dựng lực lượng và tranh thủ các cơ hội chính trị để xây dựng nền tảng.
Trùng hợp thay, đây cũng là thời điểm Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20/12/1960. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Bản thân những người bạn Trung Quốc vẫn khẳng định quyết định tiếp tục tranh đấu ở miền Nam Việt Nam là ư muốn tự thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, họ vẫn là “hậu phương” vững chắc nhất cho Bắc Việt yên tâm chuẩn bị cho giai đoạn tiền leo thang của chiến tranh Việt Nam.
Theo nghiên cứu của Li Ke và Hao Shengzhang có tên gọi “The People’s Liberation Army during the Cultural Revolution” (bản gốc tiếng Trung), một trong những nguồn khả tín nhất về lịch sử chiến tranh của quân đội Trung Quốc trên toàn thế giới, các chuyến hàng viện trợ quân sự chở đến Việt Nam bao gồm 270.000 khẩu súng, 10.000 pháo, 200 triệu đạn các loại, 2 triệu đạn pháo, 1.000 xe tải, 15 máy bay, 28 tàu hải quân và 1,18 triệu bộ quân phục, chưa kể đến hàng triệu loại quân nhu khác. Và chúng chỉ tính đến năm 1963.
Đây là những con số khổng lồ trong thời kỳ khó khăn, khi mà bản thân Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với những hậu quả của phong trào Đại Nhảy Vọt và Đả Ma Tước Vận Động.
Điều này cho thấy Trung Quốc hết ḷng trong việc can dự và gây ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Song những khoản viện trợ được tiết lộ nói trên cũng chỉ là những con số lẻ. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Sao Bắc Đẩu
Mùa hè năm 1962, Hồ Chí Minh và tướng Nguyễn Chí Thanh sang Trung Quốc để tổng hợp t́nh h́nh chung tại Việt Nam cho lănh đạo ở Trung Quốc. Bọn chúng nhắc đến khả năng Hoa Kỳ sẽ can dự sâu hơn vào chiến tranh Việt Nam, không loại trừ khả năng Hoa Kỳ dùng không quân tấn công ra Bắc Việt. Ngay lập tức, Bắc Kinh đề nghị hỗ trợ 230 tiểu đoàn bộ binh đóng ở Bắc Việt để sẵn sàng yểm trợ.
Tháng Năm năm 1963, Lưu Thiếu Kỳ thăm và làm việc chính thức ở Hà Nội. Đây là một sự kiện lớn, bởi Lưu Thiếu Kỳ là nhân vật thứ hai chỉ đứng sau Mao Trạch Đông trong giai đoạn cầm quyền này ở Trung Quốc, thể hiện sự cam kết lớn của Bắc Kinh đối với chiến tranh Việt Nam.
Trong các buổi làm việc với Hồ Chí Minh và các lănh đạo đảng, ông Lưu cũng nhấn mạnh rằng những hỗ trợ của Trung Quốc sẽ không dừng lại ở mức pḥng vệ Bắc Việt. Ông nói miễn là chính quyền Bắc Việt có quyết tâm trong việc tiếp tục thực hiện cách mạng vô sản tại miền Nam, Hà Nội luôn có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ chiến lược tuyệt đối của Bắc Kinh.
Ngày 8 tháng Tư năm 1965, Lưu Thiếu Kỳ gặp lại Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp trên đất Trung Quốc để bàn về các hỗ trợ nhân sự cần thiết. Theo đó, Lê Duẩn đề nghị Trung Quốc gửi “chí nguyện quân” là phi công, bộ binh và một lực lượng quan trọng khác là các đơn vị kỹ thuật công binh cho hoạt động xây dựng, sửa chữa hệ thống hạ tầng.
Lê Duẩn nhấn mạnh rằng nếu yêu cầu hỗ trợ được đáp ứng, Hà Nội có thể chuyển trực tiếp quân đội chính quy của ḿnh vào miền Nam Việt Nam, giao việc bảo vệ miền Bắc cho quân đội Trung Quốc. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung) Từ đó đẩy nhanh “cuộc kháng chiến chống Mỹ”. Những yêu cầu này đều được phía Bắc Kinh gật đầu.
Đây chỉ là những cuộc gặp mặt điển h́nh mà người viết nghĩ bạn đọc cần quan tâm. Khi chiến tranh diễn ra, mỗi năm hai bên có đến hàng trăm cuộc điện đàm và hàng chục chuyến thăm chính thức hay không chính thức, vừa để yêu cầu hỗ trợ, vừa để tham vấn ư kiến của Bắc Kinh.
Và Trung Quốc cũng tỏ ra là một bên tham chiến thực thụ.
Tháng Tám năm 1964, hàng ngh́n máy bay và các đơn vị đất đối không được chuyển đến biên giới Việt – Trung. Cơ quan đầu năo của Quân Đoàn 7 Không Quân Giải Phóng Quân Trung Quốc được chuyển từ Quảng Đông (Guangdong) sang Nam Ninh (Nanning). Điều này giúp cho không quân Trung Quốc có thể tham chiến tại vùng trời Bắc Bộ và Vịnh Bắc Bộ bất kỳ lúc nào. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
Cùng lúc đó, hơn 300.000 quân Trung Quốc đi vào biên giới Việt Nam, với 100.000 trong số đó thuộc nhóm công binh. Nhóm này có công xây dựng 12 con đường huyết mạch khắp Bắc Bộ, nối với Trung Quốc, từ đó bảo đảm quá tŕnh vận chuyển và giao thông liên lạc suốt chiến tranh. Các tùy viên quân sự Trung Quốc cũng có mặt với số lượng lớn để chỉ đạo việc xây dựng hệ thống pḥng thủ của Bắc Việt.
Ngay từ năm 1965, các sư đoàn pháo binh Trung Quốc cũng có mặt để trấn giữ “hộ” vùng trời Việt Nam. Đáng kể nhất là hai Sư Đoàn Pháo Binh 61 và 63 xuất hiện tại Việt Nam rất sớm. Theo báo cáo chính thức từ quân đội Trung Quốc, có tổng cộng 16 sư đoàn pháo binh Trung Quốc tham chiến tại Việt Nam, trải qua 2.154 trận đánh, bắn hạ 1.707 tàu bay Mỹ các loại.
Điểm c̣n tranh căi duy nhất hiện nay là liệu các sư đoàn này có tham gia bảo vệ đường Hồ Chí Minh vận chuyển vũ khí và quân lực vào miền Nam Việt Nam hay không? Phía t́nh báo Hoa Kỳ ghi nhận là có, trong khi giới quân sự Trung Quốc cho đến giờ vẫn úp mở. Có lẽ v́ Bắc Kinh không muốn bị cáo buộc trực tiếp hỗ trợ hoạt động xâm lược dưới góc độ pháp luật quốc tế.
Không chỉ vậy, chính quyền Bắc Kinh c̣n hỗ trợ thiết bị quân sự, quân nhu và nhu yếu phẩm của phỉ quân cộng sản bắc việt cho hoạt động của họ ở mọi mặt trận, từ Lào, Cambodia đến Miền Nam Việt Nam.
Như việc phỉ quân bắc việt đóng quân tại Lào nhằm bảo vệ tuyến đầu của đường Hồ Chí Minh, người Trung Quốc không dừng lại việc giúp vũ khí, quân trang. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung) Các tiêu chuẩn về dinh dưỡng, vệ sinh, mức sống và giải trí dành cho bọn phỉ quân cộng sản bắc việt ở Lào cũng được bọn quan thầy Bắc Kinh đáp ứng hỗ trợ.
Trong tổng hợp của Li Ke và Hao Shengzhang mà chúng ta nhắc đến ở phần trước, thống kê chính thức ghi nhận Trung Quốc ủng hộ hơn 5.500 bộ quân phục và giày, 550 tấn gạo, 55 tấn thịt heo (lợn), 20 tấn muối, 20 tấn cá, 20 tấn đường trắng, 6,5 tấn nước tương, 8.000 bộ bàn chải đánh răng, 10.000 cục xà pḥng và 74.000 hộp thuốc lá…
Gộp lại tất cả, Trung Quốc cung ứng đến hơn 687 đầu mục sản phẩm cho bọn phỉ quân cộng sản bắc việt chỉ ở Lào, phản ánh tầm quan trọng sống c̣n của các nguồn viện trợ Trung Quốc cho các hoạt động của quân đội Bắc Việt ở mọi mặt trận. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
***
Từ năm 1972, hoạt động viện trợ của Trung Quốc tăng mạnh thêm lần nữa nhằm trang bị tận răng cho bọn đàn em tay sai là lũ phỉ quân bắc việt và bọn bù nh́n Mặt Trận Giải Phóng, từ đó kết thúc chiến tranh Việt Nam. Không lâu sau đó, đầu năm 1973, quân đội Hoa Kỳ rút đợt lính cuối cùng của ḿnh khỏi Việt Nam Cộng Ḥa ở miền Nam và ngừng các khoản viện trợ quân sự.
Trong giai đoạn 1963 đến 1975, cộng sản Trung Quốc trang bị cho bọn lính đành thuê đàn em tay sai là bọn cộng phỉ bắc việt gần 2 triệu khẩu súng, gần 50.000 khẩu pháo các loại và thậm chí là gần 500 xe tăng – thứ vũ khí xa xỉ và đắt đỏ thời chiến. Và đó mới chỉ là đến những loại quân trang thiết yếu cho chiến tranh, chưa tính những khoản viện trợ khác.
Nh́n vào những số liệu trên, rơ ràng là “cuộc chiến tranh của quân và dân ta” hoàn toàn không mang đúng cái nghĩa đen của nó. Và cũng khó mà tưởng tượng chiến tranh Việt Nam sẽ đi về đâu nếu lũ phỉ quân cộng sản bắc việt không nhận được sự hỗ trợ nhiệt thành từ quan thầy phương Bắc cùng với Liên Sô và lũ chư hầu cộng sản Đông Âu.
Thấu hiểu chúng cũng giúp bạn đọc phần nào nắm bắt được xu hướng ngoại giao mà Việt Nam đang lựa chọn ngày nay. (Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Quốc Tấn Trung)
“”” Sách “Building Ho's Army: Chinese Military Assistance to North Vietnam” - Hardcover – 10 Sept. 2019 by Xiaobing Li (Author)
Sách được viết dựa trên những nền tảng vững chắc của các nguồn, hồi kư và phỏng vấn, nghiên cứu này đă làm sáng tỏ những nỗ lực của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam.
Sách cũng có sử dụng các tác phẩm thứ cấp bằng tiếng Trung, tiếng Việt và tiếng phương Tây, và sự quen thuộc của chính tác giả với tư cách là người trong cuộc/ cựu thành viên của quân đội Trung Quốc, cung cấp rất nhiều thông tin về mối quan hệ của Trung Quốc với cộng phỉ bắc việt (NVA) trong những năm 1950 cho đến khi kết thúc chiến tranh Việt Nam năm 1975.
Là một quốc gia cộng sản có chung biên giới với Việt Nam, Trung Quốc đă tích cực tạo rất nhiều điều kiện để quân đội bắc việt chuyển đổi từ một lực lượng du kích nhỏ, tổ chức lỏng lẻo, trang bị kém vào những năm 1940 thành một đội quân chuyên nghiệp.
Ngay cả sau khi kư Hiệp Định Geneva 1954, Trung Quốc vẫn tiếp tục tích cực hỗ trợ cộng phỉ bắc việt về đủ mọi lĩnh vực. Từ năm 1955 đến năm 1963, viện trợ quân sự của Trung Quốc lên tới 106 triệu đô la Mỹ và những đóng góp khổng lồ này đă giúp tên gián điệp ngoại bang Hồ Chí Minh xây dựng một lực lượng quân sự đông đảo để xâm lăng nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam.
Sau năm 1964, Trung Quốc đă tăng viện trợ và cung cấp thêm khoảng 20 tỷ đô la Mỹ viện trợ quân sự và kinh tế cho bọn tay sai đàn em là cộng sản Việt Nam. Các nhà chiến lược và sử gia phương Tây từ lâu đă biết về mức độ tham gia của Trung Quốc vào chiến tranh Việt Nam, nhưng măi đến gần đây, các tài liệu lưu trữ mới tiết lộ mức độ ảnh hưởng thực sự của Trung Quốc - mức độ đào tạo, hỗ trợ quân sự, cố vấn chiến lược, gửi binh lính sang Việt Nam và phương tiện tiền tệ trong chiến tranh.
Tài liệu rơ ràng này là trả lời các câu hỏi về ư định, mục tiêu, chiến lược và hoạt động của Trung Quốc trong sự tham gia của ḿnh vào chiến tranh Việt Nam. (Sài G̣n trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ Hoàng Thái Sơn)