Kể từ sau biến cố lịch sử 30-4-1975, một số sử gia, nhà nghiên cứu, nhà văn… đã đưa ra một số nhận định thiển cận về các sự kiện chủ yếu của cuộc chiến tại Việt Nam như sau:
* Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến hoặc một cuộc chiến uỷ nhiệm.
* Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã bại trận và quân đội cộng sản đã thắng trận.
* Cuộc chiến Việt Nam đã vĩnh viễn chấm dứt kể từ ngày 30-4-1975.
Khi đưa ra những nhận định trên đây, người ta đã chỉ nhìn thấy hiện tượng của các sự kiện mà không nhìn thấy bản chất của chúng. Những nhận định hời hợt này đã đưa đến những ngộ nhận tai hại về một giai đoạn quan trọng của lịch sử đất nước.
Trình bày trung thực những sự kiện chủ yếu của một giai đoạn lịch sử là trách nhiệm của các thế hệ đã tham gia vào, đã là chứng nhân trong giai đoạn lịch sử đó và cũng là để trả một món nợ đối với các thế hệ tương lai bởi vì hậu thế có quyền đòi hỏi, có quyền biết những sự thật lịch sử trong quá khứ, những gì mà các thế hệ đi trước đã làm.
Để trả lại sự thật cho lịch sử, phải tìm hiểu chính xác bản chất của các sự kiện nói trên. Đây cũng là công việc chính danh, đặt tên cho đúng.
I - Cuộc Chiến Việt Nam là Một Cuộc Nội Chiến hoặc Một Cuộc Chiến Uỷ Nhiệm
1 - Khi nhận định cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến, người ta đã dẫn chứng rằng những người lính ở hai bên chiến tuyến cùng là người Việt Nam. Đây chỉ là hiện tượng và như vậy không thể vội vã kết luận cuộc chiến này là một cuộc nội chiến. Muốn biết bản chất của cuộc chiến này, hãy tìm hiểu những người lính VNCH và những người lính CSVN đã suy nghĩ những gì trong đầu họ khi cầm súng trực diện đối đầu nhau ngoài mặt trận. Việc này không khó.
Trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hoà kéo dài 20 năm do bọn lính đánh thuê cho hai quan thầy Tàu-Nga là bọn cộng sản miền bắc phát động theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế, mỗi lần cầm súng ra trận, những người lính VNCH đều mang trên vai Danh Dự và Trách Nhiệm đối với Tổ Quốc cùng với niềm tin họ đi chiến đấu để bảo vệ thể chế dân chủ tự do của quê hương Miền Nam, để chống lại quân xâm lược cộng sản miền bắc nhằm thôn tính và áp đặt một chế độ cộng sản độc tài toàn trị lên Miền Nam.
Đây cũng chính là đi chiến đấu để bảo vệ những giá trị truyền thống của lý tưởng Quốc Gia Dân Tộc mà tổ tiên đã dày công xây dựng, vun đắp và bảo vệ trong suốt dòng lịch sử của dân tộc.
Trong suốt những năm dài trong quân ngũ, những người lính cộng sản bắc việt đã phải thường xuyên học tập về chủ nghĩa cộng sản. Họ bị bưng tai, bịt mắt và bị bắt buộc phải trung thành với cái đảng thổ phỉ cộng sản Việt Nam, phải phục vụ và hy sinh cho cái lý tưởng quái thai của chủ nghĩa cộng sản hoang tưởng và biến thái.
Những người lính này, khi cầm súng ra trận, đều có một niềm tin mù quáng rằng họ đi làm nhiệm vụ quốc tế vô sản ngay trên đất nước Việt Nam và toàn cõi Đông Dương để xây dựng một thế giới đại đồng không còn giai cấp bóc lột, không còn tôn giáo, không còn tổ quốc, không còn biên giới quốc gia… theo đúng lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản bệnh hoạn mà tên tay sai bán nước Hồ Chí Minh đã lén lút du nhập vào Việt Nam.
Những phân tích trên đủ để chứng minh cuộc chiến tại Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến vì những nguyên nhân tranh chấp, chia rẽ trong nội bộ quốc gia mà chính danh là Cuộc Chiến Quốc Cộng. Đó là cuộc chiến giữa hai phe mang hai ý hệ Quốc Gia và Cộng Sản chống đối nhau quyết liệt, một mất một còn như bốn câu thơ sau đây được viết trong một trại tù cộng sản tại Hoàng Liên Sơn:
Nó sống thì mình thác
Mình còn nó phải tiêu
Lối đi chỉ một chiều
Chẳng còn đường nào khác.
Cung Trầm Tưởng
Hoàng Liên Sơn, 1977
Trong Cuộc Chiến Quốc Cộng, Việt Cộng luôn luôn đặt một câu hỏi thách thức có tính khẳng định: “Ai thắng ai?” Câu hỏi này đang được lịch sử trả lời.
Đối với bọn cộng phỉ bắc việt, Pháp hay Mỹ… chỉ là những kẻ thù giai đoạn và có thể trở thành bạn đối tác chiến lược như Hoa Kỳ ngày nay. Trái lại, thực tế 80 năm nay đã chứng minh rằng Người Việt Quốc Gia, tức toàn dân Việt Nam, mới là kẻ thù không thể đội trời chung về ý hệ mà bọn cộng phỉ bắc việt phải tiêu diệt trước khi chúng có thể xây dựng được cái-gọi-là “chế độ xã hội chủ nghĩa” quái thai, hoang tưởng tại Việt Nam.
Có người đã so sánh Cuộc Chiến Quốc Cộng tại Việt Nam với Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ - một cuộc chiến có nguyên nhân chia rẽ nội bộ là vấn đề nô lệ - và trách móc bọn cộng phỉ bắc việt đã không đối xử với những chiến binh QLVNCH như phe thắng trận đã đối xử một cách mã thượng đối với phe thua trận trong Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ.
So sánh như vậy là lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, là bao che cho tội làm Việt gian, tay sai cho ngoại bang của Việt Cộng; cũng như trách móc cộng sản đã đối xử tàn ác với những chiến binh QLVNCH bị sa cơ sau ngày 30-4-1975 là không hiểu gì về bản chất đê tiện, hèn hạ của bọn cộng sản bắc việt, một lũ man rợ, vô nhân tính, với chủ trương “đấu tranh tiêu diệt giai cấp”, làm sao chúng có nhân ái và lương tri để cư xử giống như con người được!
2 - Khi nhìn thấy người lính Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu bằng vũ khí do Hoa Kỳ viện trợ và bọn phỉ quân cộng sản bắc việt chiến đấu bằng vũ khí do Liên Xô và Trung Cộng cung cấp, người ta đã vội kết luận đây là cuộc chiến do các thế lực quốc tế uỷ nhiệm.
Nhận định này chỉ đúng một nửa. Vũ khí trong tay người lính chỉ là một phương tiện vô tri không nói lên được ý nghĩa và bản chất của cuộc chiến. Chính mục đích mà hai phe theo đưổi trong cuộc chiến - như đã trình bày ở trên - mới nói lên ý nghĩa và bản chất của cuộc chiến.
Nhìn kỹ lại lịch sử Việt Nam cận đại sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng còn đang tiếp diễn tại Việt Nam ngày hôm nay đã bắt đầu từ cuối năm 1924 khi tên tay sai bán nước Hồ Chí Minh theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế đến hoạt động tại Quảng Châu, Trung Hoa, để đánh phá các đảng phái cách mạng của người quốc gia đang hoạt động tại Hoa Nam.
Tên tay sai ngoại bang Hồ Chí Minh đê tiện và hèn hạ đã bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 100,000$ tiền Đông Dương; đã xâm nhập và chiếm đoạt Tâm Tâm Xã của Phạm Hồng Thái; đã xâm nhập và tiếm danh Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) của Cụ Hồ Học Lãm; đã xâm nhập, phá hoại, lũng đoạn và leo tới chức uỷ viên trung ương của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của Cụ Nguyễn Hải Thần…Tất cả những việc làm trên đây đều được tên Hồ Chí Minh báo cáo từng chi tiết cho Đệ Tam Quốc Tế để lãnh lương và xin phụ cấp.
Tên Hồ Chí Minh quỷ quyệt đã gây ra cuộc chiến tranh với Pháp trong tám năm và lợi dụng thời gian chiến tranh này để tàn sát đẫm máu các thành viên của các đảng phái quốc gia. Sau khi chiếm đuợc chính quyền tại Miền Bắc vào năm 1954, Hồ Chí Minh tiếp tục truy lùng và tiêu diệt hết các đảng phái quốc gia.
Cuộc Chiến Quốc Cộng do Hồ Chí Minh gian manh, quỷ quyệt phát động và kéo dài cho tới ngày nay là cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử và đã cướp đi sinh mạng của ít nhất là năm triệu người Việt. Đây là tội ác lịch sử của tên tay sai do bọn cộng sản ngoại bang cài cắm trên đất Việt Nam là Hồ Chí Minh và cùng bè lũ băng đảng cộng phỉ bắc việt.
Sau khi chiếm được một nửa đất nước vào năm 1954, tên Hồ Chí Minh đã láo xược tuyên bố: “Nhận chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế để giải quyết vấn đề cách mạng (vô sản) tại Việt Nam, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”. Những lời thú nhận trên đủ để chứng minh chính tên Hồ Chí Minh đã phát động Cuộc Chiến Quốc Cộng theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế. Người Việt Quốc Gia, tức Dân Tộc Việt Nam, đã và vẫn còn đang tiếp tục chiến đấu diệt cộng không phải do một thế lực quốc tế nào uỷ nhiệm mà vì trách nhiệm đối với Quê Hương và Dân Tộc.
Người Mỹ chỉ tham gia, viện trợ và cam kết giúp người Việt Quốc Gia trong Cuộc Chiến Quốc Cộng kể từ năm 1954 khi họ nhận thấy hiểm hoạ bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam Á - một vùng có lợi ích kinh tế và chính trị lâu dài của Hoa Kỳ - thông qua bọn tay sai cộng phỉ bắc việt.
Tuy nhiên, sau khi đạt được thoả thuận với Trung Cộng và thấy không còn nguy cơ bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam Á nữa, người Mỹ rút lui và chấm dứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH vào năm 1973.
Đó là tinh thần thực dụng và duy lợi của những người làm chính sách của Hoa Kỳ bất kể đạo đức chính trị và những lời cam kết long trọng của năm vị tổng thống Hoa Kỳ trong quyết tâm giúp VNCH chống lại cuộc xâm lăng của bọn cộng bắc việt. Người Mỹ đã rút khỏi cưộc chiến nhưng người Việt Quốc Gia, tức toàn dân Việt Nam, vẫn tiếp tục Cuộc Chiến Quốc Cộng cho tới khi nào thanh toán xong bè lũ băng đảng việt gian cộng phỉ bắc việt. Đây là nhiệm vụ lịch sử của Dân Tộc Việt Nam.
Cuộc chiến xâm lăng VNCH nằm trong chủ trương bành trướng của Đệ Tam Quốc Tế xuống vùng Đông Nam Á được uỷ nhiệm cho lũ tay sai là bọn đảng CSVN. Năm 1976, trong một cuộc họp nội bộ, chính miệng tên đồ tể khát máu Lê Duẩn, tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam đã tuyên bố: “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và chúng ta đã thành công trong việc cắm lá cờ quốc tế Mác Lê trên toàn cõi Việt Nam”. (Sài Gòn trong tôi/ Đỗ Ngọc Uyển)
Ngoài ra, tờ Sài Gòn Giải Phóng, một tờ báo lá cải rẻ tiền của đảng CSVN, đã tự khai như sau: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi”.
Những lời tự thú tởm lợm trên của tên Lê Duẩn và của tờ báo lá cải rẻ tiền Sài Gòn Giải Phóng là những bằng chứng hùng hồn, hiển nhiên, không thể chối cãi rằng chính danh của những tên gọi là “bộ đội Cụ Hồ” thực chất chỉ là đám lính đánh thuê, tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế, cho Trung Cộng và Liên Xô.
Với bản chất là lính đánh thuê chuyên nghiệp cho ngoại bang, lũ “bộ đội Cụ Hồ” chưa bao giờ chiến đấu vì tổ quốc Việt Nam. Những tên “bộ đội” này không có chỗ đứng trong dòng lịch sử chính thống của dân tộc; chỗ đứng của bọn chúng là ở trong lịch sử của cái đảng thổ phỉ cộng sản Việt Nam, một chi bộ lính đánh thuê, tay sai của bọn Đệ Tam Quốc Tế.
Những phân tích trên đây đã chứng minh rằng trong Cuộc Chiến Quốc Cộng, người lính VNCH cầm súng đi chiến đấu để bảo vệ quê hương Miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng ngang ngược và thô bạo của Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn lính đánh thuê tay sai là chi bộ cộng sản Việt Nam. Và, đám “bộ đội Cụ Hồ” cầm súng đi đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế dưới chiêu bài đi làm nhiệm vụ quốc tế vô sản để thực hiện lý tưởng đại đồng của chủ nghĩa cộng sản như tên Hồ Chí Minh đã lố bịch “xuất khẩu” mấy câu thơ một cách ngông cuồng, hỗn xược, mất dạy và láo xược khi một lần hắn ta đi ngang qua đền thờ Đức Thánh Trần tại Vạn Kiếp: “…Bác đưa một nước qua nô lệ. Tôi dẫn năm châu tới đại đồng…”
II – Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Đã Bại Trận và Quân Đội Cộng Sản Đã Thắng Trận!
Trong sách Binh Thư Yếu Lược của Đức Thánh Trần có đoạn ghi rõ: “Từ xưa các trường hợp nhờ quân ta rối loạn mà địch được thắng lợi đếm không xuể. Quân ta rối loạn đem lại thắng lợi cho địch có nghĩa là quân ta tự tan vỡ, chớ không phải địch đánh thắng ta. Nếu sĩ tốt tự rối loạn, dẫu là tướng tài cũng phải chịu nguy hại, như thế không còn nghi ngờ gì nữa”.
Nếu theo sát những biến chuyển quân sự trong 50 ngày trước ngày 30-4-1975, người ta rất dễ nhận thấy đã có những cuộc hoảng loạn (panic) được tạo ra bằng nhiều cách để làm tan rã hàng ngũ phòng thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Trong suốt thời gian này, hai đài phát thanh quốc tế BBC và VOA đã liên tiếp hai buổi mỗi ngày, sáng và tối, loan truyền những tin tức thất thiệt gây chấn động kinh hoàng làm hoảng loạn tinh thần quân dân VNCH, góp phần làm tan rã nhanh chóng hàng ngũ QLVNCH để mang lại thắng lợi cho bọn phỉ quân bắc việt.
Sau này, chính Việt Cộng đã thú nhận chúng cũng không tin chúng có thể đoạt được thắng lợi trong ngày 30-4-1975. Chúng đã ước tính ít nhất phải đến năm 1977, chúng mới có thể chiếm được Miền Nam với điều kiện là Hoa Kỳ cắt đứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH và chúng vẫn tiếp tục nhận được đầy đủ tiếp viện và yểm trợ của khối cộng sản.
Về địa hình quân sự, lãnh thổ VNCH hẹp chiều ngang. Do đó, rất dễ lập những tuyến phòng thủ hàng ngang vững chắc, kế tiếp nhau chạy dài từ bắc vào nam để chặn đứng những cuộc tấn công quy ước vào lãnh thổ VNCH từ hướng bắc. Muốn tấn công một tuyến phòng thủ như vậy, địch quân phải có một hoả lực vượt trội và một quân số đông hơn ít nhất gấp ba lần quân phòng thủ.
Điều này được thấy rõ trong trận đánh duy nhất và cuối cùng trong tháng 4-1975 tại Mặt Trận Xuân Lộc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của QLVNCH cùng với những đơn vị tăng phái đã chặn đứng mũi tấn công của quân đoàn 4 phỉ quân bắc việt gồm ba sư đoàn 6, 7, 341 cộng thêm sư đoàn 7 của phỉ quân tại Miền Nam cùng với một số đơn vị pháo binh và thiết giáp tăng phái đang tiến về hướng Sài Gòn.
Trong thời gian 12 ngày đêm, từ ngày 8 đến 20-4-1975, bốn sư đoàn chính quy cộng sản cùng với quân tăng phái đã liên tiếp mở những đợt tấn công biển người ác liệt, đẫm máu với chiến thuật “tiền pháo hậu xung” nhưng chúng không thể chọc thủng được tuyến phòng thủ của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Chúng đã phải thay thế ngay tại mặt trận tên tướng tư lệnh Hoàng Cầm bằng tên tướng Trần Văn Trà.
Cuối cùng, không thắng nổi Sư Đoàn 18 Bộ Binh QL.VNCH, bọn chúng phải đoạn chiến với SĐ 18 BB. Chúng để sư đoàn 7 phỉ quân bắc việt ở lại cầm chân SĐ18 BB và tìm cách đi vòng sang hướng khác để áp sát vào Thủ Đô Sài Gòn. (Vậy nhưng sau 30/04/1975, bọn cộng phỉ bắc việt đã khoác lác “tự sướng cùng Chị Năm” và cũng để “nổ” với các thế hệ trẻ rằng đã chọc thủng phòng tuyến SĐ 18 BB QL.VNCH).
Với Trận Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18 Bộ Binh cùng các đơn vị tăng phái đã chứng minh cho thế giới thấy tướng lãnh, sĩ quan QLVNCH là những cấp chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường và những người lính QLVNCH là những chiến binh có tinh thần chiến đấu cao và rất thiện chiến trong những trận đánh quy ước.
Nếu không có những cuộc hoảng loạn được tạo ra để làm tan rã hàng ngũ QLVNCH, những tuyến phòng thủ vững chắc của QLVNCH kế tiếp nhau suốt theo chiều dài của lãnh thổ từ bắc vào nam đã dễ dàng chặn đứng và đánh bại những cuộc tấn công quy ước của quân xâm lăng cộng sản Miền Bắc trong tháng 4/1975. Và có thể quả quyết Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà không thể bị đánh bại trong 50 ngày.
Tác giả Phillip B. Davidson - trong bài viết có tựa đề “Xuan Loc Battle” - đã đánh giá Trận Xuân Lộc là một trong những trận đánh có tầm vóc hùng sử ca trong hai cuộc chiến Đông Dương. “The Battle for Xuan Loc produced one of the epic battles of any of the Indochinese wars.”
Những sự kiện trên đây đã chứng minh: chính là vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị làm cho tan rã để mang lại thắng lợi cho bọn phỉ quân cộng sản bắc việt chứ không phải bọn phỉ quân cộng sản miền bắc tài giỏi hoặc đủ khả năng để đánh thắng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30-4-1975 nếu không có bọn quan thầy Tàu-Nga và lũ chư hầu cộng phỉ Đông Âu, cùng bọn Bắc Hàn, Cu Ba hỗ trợ tiếp tay.
Ngoài ra, theo binh thư, khi một đoàn quân xâm lược chỉ chiếm được đất, chiếm được thành mà không chiếm được lòng dân, đoàn quân đó không phải là đoàn quân chíến thắng mà chính danh là một đoàn quân cướp của giết người, một đoàn cộng phỉ.
Trong 50 ngày trước ngày 30/4/1975, khi bọn phỉ quân cộng sản bắc việt tiến tới đâu, người dân Miền Nam kinh tởm kéo nhau bỏ chạy tới đó suốt từ bắc vào nam và bị chúng đưổi theo bắn giết rất dã man.
Chỉ riêng trên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku tới Tuy Hoà, trong chín ngày đêm, bọn phỉ quân bắc việt tàn ác đã đuổi theo, pháo kích giết chết hàng ngàn đồng bào gồm người già, đàn bà và trẻ nhỏ. Khi chúng chiếm được cả Miền Nam, người dân không còn đất để chạy nữa, họ kéo nhau lao ra biển bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Các hãng thông tấn quốc tế thời đó đã gọi những cuộc chạy giặc này là những cuộc “bỏ phiếu bằng chân”.
Thực tế đã chứng minh suốt mấy chục năm nay và SẼ KHÔNG BAO GIỜ bọn phỉ quyền Hà Nội có thể chiếm được lòng người dân Miền Nam dù rằng bọn chúng luôn luôn điếm đàng và xảo trá kêu gọi “hoà hợp hoà giải”. Đối với người dân Miền Nam, bọn cộng phỉ bắc việt xâm lược chỉ là một bọn giặc cướp man rợ vào ăn cướp Miền Nam trù phú: “Giặc từ Miền Bắc vô Nam; bàn tay nhuốm máu đồng bào”.
Do đó, xét về bất cứ phương diện nào, phỉ quân cộng sản miền bắc cũng không phải là đoàn quân chiến thắng trong ngày 30-4-1975 như chúng reo hò “tự sướng” và được bọn phản bội và phản chiến phụ hoạ suốt mấy chục năm nay để lừa bịp lịch sử.
Bọn cộng phỉ bắc việt chỉ là một lũ tay sai, bọn lính đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, cho Liên Xô và Trung Cộng, một bọn “giặc cờ đỏ” hạ cấp đi cướp của giết người và là công cụ của một băng đảng chuyên nghề đi cướp chính quyền bằng “bạo lực cách mạng vô sản”, tức bằng khủng bố. Cái mà chúng hô hoán là “Đại Thắng Mùa Xuân” trong ngày 30-4-1975, thực chất, chỉ là chuyện “chó ngáp được ruồi” nhờ sự hỗ trợ tích cực của quan thầy Tàu-Nga.
III - Cuộc Chiến Việt Nam Đã Vĩnh Viễn Chấm Dứt Kể Từ Ngày 30-4-1975
Khi thấy bọn cộng sản miền bắc xâm lược và chiếm được lãnh thổ VNCH nhưng không chiếm được lòng người dân Miền Nam và QLVNCH bị làm cho tan rã, người ta đã vội tin rằng Cuộc Chiến Quốc Cộng đã vĩnh viễn chấm dứt vào ngày 30-4-1975, đã “đi vào tiền kiếp”… Đây là cách nhìn cuộc chiến tại Việt Nam trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu và sau khi người Mỹ đã rút đi và chấm dứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH.
Nhưng nếu nhìn kỹ Cuộc Chiến Quốc Cộng trong bối cảnh vận động của dòng lịch sử chính thống của Việt Nam trong giai đoạn cận đại, người ta sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng tại Việt Nam chưa bao giờ chấm dứt mà vẫn còn đang tiếp diễn dưới nhiều hình thái phù hợp với thế và lực của người Việt quốc gia, tức toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước, trong giai đoạn mới của cuộc chiến.
Lịch sử là một dòng vận động liên tục không đứt đoạn và có tính tiếp nối. Ngày 30-4-1975 chỉ là một dấu mốc của lịch sử. Nó đánh dấu điểm bắt đầu của một giai đoạn mới trong Cuộc Chiến Quốc Cộng.
Cuộc chiến này chỉ thật sự hoàn toàn chấm dứt khi toàn dân Việt Nam thanh toán xong bè lũ băng đảng phỉ quyền cộng sản bắc việt gian xảo, tàn ác và đất nước Việt Nam thật sự có một nền hoà bình công chính trong đó mọi công dân được hưởng đầy đủ những quyền căn bản của con người về dân quyền và nhân quyền trong một chính thể dân chủ tự do như dưới Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà.
Đó là một chế độ nhân bản mà toàn dân Miền Nam đã dày công xây đắp trong suốt 20 năm bất kể sự khủng bố phá hoại triền miên từng giây, từng phút, từng giờ trong chiến tranh du kích phá hoại do tên tay sai ngoại bang Hồ Chí Minh phát động theo lệnh của quan thầy Đệ Tam Quốc Tế để ăn cướp Miền Nam dù phải “đốt cháy dãy Trường Sơn”.
Kể từ ngày 26-10-1955, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Miền Nam Việt Nam, về cơ bản, đã xây dựng được một chính thể dân chủ hiện đại với ba nghành hành pháp, lập pháp và tư pháp độc lập với quyền lực cân bằng và kiểm soát lẫn nhau.
Đây là một sự kiện lịch sử mà 34 năm sau, năm 1989, Tiến Sĩ Francis Fukuyama - trong một bài tiểu luận nổi tiếng có tựa đề “The End of History” được viết sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ và hệ thống cộng sản bắt đầu tan rã - đã nhận định rằng: “Cái mà chúng ta đang chứng kiến có thể không chỉ là sự kết thúc của Cuộc Chiến Tranh Lạnh hay của một giai đoạn đặc biệt của lịch sử hậu chiến, mà là sự cáo chung của lịch sử theo nghĩa: là điểm chấm dứt của sự tiến hoá về ý hệ của nhân loại và sự phổ cập hoá nền dân chủ phóng khoáng Tây Âu như là hình thức chính quyền sau cùng của nhân loại”.
“What we may be witnessing is not just the end of the Cold War or the passing of a particular period of postwar history, but the end of history as such: that is, the end point of mankind’s ideological evolution and the universalization of Western liberal democracy as the final form of human government…” Xét theo nhận định trên đây của Tiến Sĩ Francis Fukuyama, chính thể cộng hoà mà Miền Nam Việt Nam đã lựa chọn cách đây 56 năm chính là cái đích cuối cùng mà nhân loại văn minh ngày nay đang đi tới.
Ngoài ra, cũng trong một tiểu luận nổi tiếng liên quan đến tiến trình dân chủ của nhân loại có tựa đề “Democracy’s Third Wave” viết năm 1991, Tiến Sĩ Samuel P. Huntington đã chia tiến trình dân chủ hoá của nhân loại thành ba làn sóng: Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ thập niên 1820 đến năm 1926, kéo dài gần một thế kỷ; làn sóng thứ hai bắt đầu từ khi chấm dứt Thế Chiến II cho đến đỉnh cao nhất vào năm 1962; làn sóng thứ ba bắt đầu từ giữa thập niên 1970 đến nay và còn đang tiếp diễn. Căn cứ vào sự phân chia này, tiến trình dân chủ hoá của VNCH - bắt đầu từ ngày 26-10-1955 - thuộc làn sóng thứ hai.
Trong khi đó, các quốc gia như Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Nam Dương… chỉ bắt đầu dân chủ hoá kể từ giữa thập niên 1970 trở đi, tức thuộc làn sóng thứ ba. Điều này chứng tỏ rằng, mặc dù đất nước ở trong tình trạng chiến tranh, VNCH đã thiết lập được chính thể dân chủ tự do trước các quốc gia trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á trên, dưới 20 năm.
Trong Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà, tất cả các quyền căn bản về nhân quyền và dân quyền được luật pháp bảo vệ. Người dân có tất cả các quyền tự do về kinh tế, chính trị đối lập, sinh hoạt đảng phái, bầu cử, ứng cử, thông tin, ngôn luận, báo chí, tôn giáo, cư trú, di chuyển… và đặc biệt là quyền tự do tư tưởng. Các trường đại học ở Miền Nam có quyền tự trị đại học như các đại học Âu Mỹ. Các giáo sư đại học được tự do giảng dạy tất cả các học thuyết kể cả học thuyết cộng sản. Đại học ở Miền Nam là một thế giới hàn lâm không ai được quyền can thiệp.
Nền dân chủ non trẻ của Việt Nam Cộng Hoà còn nhiều khiếm khuyết, nhưng cơ bản là một thể chế chính trị đặt trên những nền tảng tiến bộ nhất trong lịch sử văn minh của nhân loại. Băng Đảng Việt Cộng đã phạm tội đối với lịch sử khi chúng tiêu diệt thể chế chính trị dân chủ này sau ngày 30-4-1975.
Ngày hôm nay, chỉ những kẻ đồng loã với tội ác lịch sử của Đảng CSVN mới nguỵ biện rằng vì dân trí người Việt còn thấp nên chưa thể thực thi được dân chủ tại Việt Nam. Theo tổ chức Freedom House, hiện nay đã có 123 trong số 194 quốc gia trên thế giới theo chính thể dân chủ và con số này đang tiếp tục tăng lên cùng với hai nước Tunisie và Ai Cập mới đây…
Cũng theo các tổ chức Nhân Quyền như Freedom House, Human Rights Watch, Amnesty International thì Việt Nam bị xếp vào loại quốc gia độc tài, lạc hậu, người dân không có quyền chính trị và không có dân quyền. Băng Đảng phỉ quyền Hà Nội bất tài và ngu dốt đã và đang kéo dân tộc lùi lại cả thế kỷ. Chính bọn chúng cũng phải thú nhận: “đất nước còn đang tụt hậu”. Đây là một tội đại hình đối với lịch sử. Tội này không thể tha được.
Không một chính thể cộng hoà nào khi mới thành lập mà được hoàn chỉnh ngay. Sau Cuộc Cách Mạng 1779, Cộng Hoà Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được thành lập với Bản Hiến Pháp năm 1787. Để hoàn chỉnh thể chế chính trị dân chủ này, Quốc Hội Hoa Kỳ đã liên tiếp thông qua 27 bản tu chính hiến pháp.
Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà chỉ mới xây dựng và phát huy những giá trị của Dân Chủ và Tự Do được 20 năm và còn đang trên tiến trình hoàn chỉnh. Tuy nhiên, nhà văn Dương Thu Hương, sau ngày 30-4-1975, khi đó còn là một đảng viên cộng sản, đã được chứng kiến tận mắt những sinh hoạt dân chủ tự do và nền kinh tế phồn thịnh của VNCH, đặc biệt là tại Thủ Đô Sài Gòn, đã phải ngồi xuống vỉa hè giữa thành phố, ôm mặt khóc “như cha chết” mà than:
“Bọn man rợ đã thắng người văn minh.”
Trong lịch sử nhân loại, những bọn man rợ đã nhiều lần thắng người văn minh nhưng cuối cùng, người văn minh đã thắng lại như trường hợp của Hy Lạp mà thi hào Horace đã viết:
“La Grèce vaincue vainquit son farouche vainqueur.” (Hy Lạp thua trận đã chiến thắng quân thắng trận hung rợ.)
Cứ nhìn kỹ những gì đã và đang diễn tiến tại Việt Nam sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng vẫn còn đang tiếp diễn chứ chưa bao giờ thực sự chấm dứt như bọn cộng phỉ bắc việt ngáo đá ảo tưởng.
* Bất chấp bị cấm đoán, đàn áp, bắt bớ và tù đày, công nhân các xí nghiệp trong khắp nước
thường xuyên biểu tình hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn người kiên trì đòi tăng lương, đòi cải tiến điều kiện làm việc và thành lập các nghiệp đoàn tự do để bảo vệ quyền lợi của công nhân.
* Bất chấp bị đàn áp và khủng bố dã man, những đoàn nông dân hàng nhiều trăm người trong khắp nước thường xuyên đi biểu tình kiên trì trong nhiều năm nay để tố cáo tham nhũng, đòi đất nông nghiệp và thổ cư đã bị bọn phỉ quyền cướp đoạt đem bán.
* Tại rất nhiều địa phương từ nam ra bắc, đã có những cuộc nổi dậy của hàng ngàn thậm chí hàng chục ngàn nông dân như cuộc nổi dậy của nông dân trong toàn tỉnh Thái Bình đã dài kéo dài trong ba tháng, từ tháng 4 đến tháng 7-1997. Cuộc nổi dậy này đã bị bọn phỉ quyền Hà Nội đàn áp dã man và bưng bít rất kỹ, không một tin tức nào lọt được ra ngoài.
Sau này, người ta đã điều tra và được biết cuộc nổi dậy này đã được tổ chức rất quy mô và đã bị đàn áp đẫm máu như một tiểu Thiên An Môn. Đây là những cuộc nổi dậy chống thuế, chống cường quyền, chống cướp đất… Trong những cuộc nổi dậy này, nông dân đã bao vây, chiếm giữ các trụ sở của nguỵ quyền, bắt giam các tên quan chức tham nhũng thối nát, ác ôn côn đồ để hỏi tội và đòi hỏi công lý.
* Bất kể bị đàn áp điên cuồng và khủng bố dã man, các tôn giáo - Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo - trong khắp nước đã và đang đồng loạt đứng lên đòi hỏi tự do tôn giáo, tự do hành đạo và kiên trì đòi trả lại các bất động sản đã bị chiếm đoạt, ăn cướp.
* Bất chấp bị đàn áp dã man, thanh niên, sinh viên, học sinh đã tổ chức những cuộc biểu tình chống bọn phỉ quyền cộng sản Hà Nội đã dâng đất, biển và đảo cho bọn Trung Cộng.
* Các nhà hoạt động dân chủ, những nhà trí thức, các giáo sư, các luật gia, các nhà văn, những người cộng sản ly khai, những người cộng sản đã tỉnh ngộ và các bloggers… đã đồng loạt lên tiếng công khai đòi hỏi những điều cấm kỵ nhất đối với phỉ quyền như tổ chức bầu cử tự do; tự do ngôn luận; tự do lập hội, lập đảng; xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản; xoá bỏ hiến pháp; xoá bỏ chế độ độc tài toàn trị và thay thế bằng một thể chế dân chủ tự do, đa nguyên, đa đảng…
* Hàng triệu người lên mạng Internet hàng ngày để theo dõi, phát biểu, đòi hỏi, tranh đấu… cho Dân Chủ, Tự Do và Nhân Quyền cho Việt Nam.
* Hiệu ứng của các Cuộc Cách Mạng Hoa Lài tại Tunisia và Ai Cập đã lan tới Việt Nam. Nhiều tổ chức đã chính thức và công khai đưa ra lời kêu gọi toàn dân xuống đường biểu tình để lật đổ chế độ cộng sản. Qua mạng Internet, thanh niên, sinh viên học sinh trong toàn quốc đã kêu gọi đồng bào rất nhiều lần xuống đường biểu tình đồng loạt trong cùng một thời điểm tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Thanh Hoá, Hà Nội, Hải Phòng … để lật đổ bọn phỉ quyền Hà Nội.
Trên đây là những đám lửa đã và vẫn đang âm ỉ cháy trên khắp nước báo hiệu một trận bão lửa sẽ nổ ra khi người dân bị dồn đến bước đường cùng. Với lợi thế về chính trị và ngoại giao trên chính trường quốc tế, ba triệu người Việt tại hải ngoại đã và đang tiếp tay tích cực yểm trợ về tinh thần và vật chất cho cuộc chiến đấu vì Dân Chủ và Tự Do của đồng bào trong nước.
Đứng trước Cuộc Chiến Quốc Cộng trong giai đoạn một mất một còn hiện nay, Băng Đảng Việt Cộng đang tung ra những đòn khủng bố khốc liệt đối với những nhà hoạt động dân chủ trong nước bằng cách theo dõi, thẩm vấn, bao vây, truy bức, bắt giam, bỏ tù, tạo ra những tai nạn giết người…
Nhưng thực tế cho thấy chúng càng điên cuồng khủng bố dã man bao nhiêu, phong trào tranh đấu cho dân chủ, tự do trong nước càng phát triển vững mạnh bấy nhiêu theo đúng quy luật: “ở đâu có đàn áp, ở đó có đấu tranh”. (Sài Gòn trong tôi/ Đỗ Ngọc Uyển)
Ngày 30-4-1975 là ngày mà bè lũ đảng cộng sản Việt Nam may mắn ăn cướp được Miền Nam Việt Nam nhờ có quan thầy Tàu-Nga viện trợ tối đa súng đạn, quân trang, quân dụng và lương khô.
Nhưng cũng kể từ ngày này, uy tín của bọn chúng đã tuột dốc một cách thê thảm, không còn cách gì có thể gượng lại được nữa bởi vì cái mặt nạ bẩn thỉu che đậy cái bản chất Việt gian bán nước của chúng đã rớt xuống. Đảng cộng sản Việt Nam ngày hôm nay chỉ còn là cái xác không hồn, đã mất hết niềm tin của toàn dân Việt Nam kể cả đa số đảng viên cộng sản như chính bọn chúng đã thú nhận.
Ngày hôm nay, băng đảng cộng phỉ bắc việt bất tài, ngu dốt, không còn khả năng cai trị đất nước bằng luật pháp mà chúng chỉ khủng bố người dân bằng công an và nhà tù. Đây là kiểu thống trị của quân độc tài man rợ. Chúng đã phải thú nhận rằng hàng ngũ của chúng từ bên trên và từ bên trong đang tự diễn biến, tự chuyển hoá để tự huỷ diệt.
Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố không thể thay đổi được, chúng sẽ còn tiếp tục to mồm hô to khẩu hiệu lố bịch: “Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm” cho tới 15 phút cuối cùng trước khi bị toàn dân Việt Nam mang ra xử tội như người dân Romania đã xử tử vợ chồng Nicolea Ceausescu, chủ tịch đảng cộng phỉ Romania, đã bị bắt lại sau khi tìm cách chạy chốn bằng trực thăng.
Đây là số phận tương lai dành những tên đầu sỏ phỉ quyền cộng sản Hà Nội thất học, bất tài, ngu dốt, vẫn còn tiếp tục ngoan cố làm tay sai bán nước cho ngoại bang Tàu-Nga chống lại Tổ Quốc và Nhân Dân.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có quyền tin tưởng một cách logic rằng Cuộc Chiến Quốc Cộng đang đi vào giai đoạn kết thúc. Số phận của bè lũ đảng cộng sản Việt Nam và chế độ độc tài đã được quyết định, vấn đề còn lại chỉ là khi nào.
Cuộc chiến đấu này vẫn còn đang tiếp diễn chứ chưa bao giờ thực sự chấm dứt. CHƯA BAO GIỜ ! Toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước sẽ thắng trận quyết định cuối cùng. Dân Tộc Việt Nam sẽ được hưởng một nền hoà bình công chính với đầy đủ Nhân Quyền và Dân Quyền.
Và để tiếp nối tính liên tục không gián đoạn của dòng lịch sử chính thống của dân tộc, nền Đệ Tam Việt Nam Cộng Hoà sẽ được toàn dân Việt Nam lựa chọn phù hợp với chiều hướng vận động của dòng lịch sử của dân tộc và với xu thế Dân Chủ Tự Do của nhân loại văn minh.
Tôi lúc nào cũng nghĩ rằng Chúa Nhật không phải là ngày tốt để đi hành quân; đặc biệt trong Hành Quân Prairie Fire trên đất Lào, vì khu vực hành quân xâm nhập rất nguy hiểm.
Tuy nhiên, những hôm trước ngày 6 tháng Mười năm 1968, thời tiết xấu, trời nhiều mây, thay đổi bất thường nên các chuyến xâm nhập, phát xuất từ Căn Cứ Hành Quân Tiền Phương 1 (FOB-1), Phú Bài phải đình hoãn lại.
Căn Cứ Hành Quân Tiền Phương 1 (FOB-1) của đơn vị SOG nằm nơi hướng bắc phi trường Phú Bài, trên quốc lộ 1, cách thành phố Huế khoảng mười dặm về hướng nam. Khi không có toán biệt kích xâm nhập, các sĩ quan cao cấp trong Saigon lo lắng (áp lực từ trên xuống).
Do đó, mỗi buổi sáng, việc đầu tiên người trưởng toán biệt kích thường làm là để ý thời tiết, nhìn về rặng núi (Trường Sơn) nơi hướng tây Phú Bài. Nếu trời quang đãng không có mây, cấp chỉ huy đơn vị SOG trên căn cứ hành quân tiền phương sẽ tìm cách đưa một toán biệt kích hay một đơn vị xung kích Hatchet Force vào khu vực hành quân Prairie Fire.
Ngày hôm qua, thứ Bẩy, bầu trời có lúc quang đãng, đủ thời gian cho trưởng toán (1-0) biệt kích Idaho, Trung Sĩ Donald W. “Don” Wolken bay thám sát khu vực hành quân, tìm bãi đáp xâm nhập. Trong khi đó, “ở nhà”, tôi cùng người lính LLĐB/ VN Sáu thanh tra vũ khí, đạn dược, “đồ nghề” đem theo hành quân của các toán viên.
Sáng Chúa Nhật, bầu trời trong sáng như thủy tinh. Trưởng toán Wolken cùng với Sáu thanh tra toán viên thêm một lần nữa. Mỗi biệt kích Hoa Kỳ phải đem theo 25 băng đạn súng CAR-15, người Việt Nam (đa số biệt kích trong toán “Mỹ” là người Thượng, hoặc Nùng) 20 băng đạn.
Cả Wolken và tôi đều gắn thêm khẩu súng phóng lựu đạn M-79 đã cưa ngắn nòng súng, 21 viên đạn và một viên đạn khói cay. Wolken còn đeo thêm khẩu súng lục gắn đầu hãm thanh. Tôi mang máy truyền tin và một lô lựu đạn. Robinson cùng với biệt kích Việt Nam mang theo mấy qủa mìn Claymore và một cục pin phòng hờ cho máy truyền tin PRC-25. Sáu và tất cả biệt kích Hoa Kỳ được mang theo máy báo tín hiệu “cấp cứu” URC-10.
Trước khi lên đường, cả toán biệt kích Idaho chụp tấm hình kỷ niệm, mặc dầu Sáu và người thông ngôn Hiệp, sợ chuyện xui xẻo đến với toán biệt kích.
Vài phút sau, chúng tôi lên trực thăng H-34 do phi hành đoàn Việt Nam trong Phi Đoàn 219 “King Bee” huyền thoại (rất nổi tiếng trong đơn vị SOG) đưa đi xâm nhập. Từ trên cao nhìn xuống một mầu xanh của núi rừng, tôi nhớ đến nông trại của ông tôi ở Belle Mead, tiểu bang New Jersey. Khi trực thăng bay qua biên giới, người xạ thủ khẩu đại liên 30 thử khẩu súng bằng cách bắn một tràng đạn xuống cánh rừng ở dưới.
Mấy tay phi công của Phi Đoàn 219 “King Bee” huyền thoại có lối đáp trực thăng rất độc đáo, thả rơi từ trên cao khi gần tới mặt đất mới nổ máy từ từ đáp xuống, làm cho toán biệt kích ngồi bên trong không ít lần phải “lên ruột”.
Bãi đáp là một hố bom, khi bánh chiếc trực thăng chạm đất, trưởng toán Wolken ngồi ngay cửa đảo mắt xung quanh bãi đáp thật nhanh, xem có dấu hiệu của địch, rồi toán biệt kích nhẩy ra và nhanh chóng biến mất vào đám cỏ tranh cao hơn đầu người.
Tôi liên lạc với chiếc Covey bao vùng do Trung Sĩ Nhất Robert “Spider” Parks (cựu trưởng toán biệt kích SOG) lái, cho anh ta biết toán biệt kích “OK”. “Spider” bay bao vùng thêm mười phút rồi lặng lẽ quay trở về Căn Cứ Hành Quân Tiền Phương Phú Bài.
Toán biệt kích Idaho bắt đầu di chuyển, Phước là người dẫn đường, đi đầu, Sáu theo sau, rồi đến Wolken. Đến một chỗ an toàn, toán biệt kích dừng lại nghỉ mệt, Phước, Sáu và Wolken lấy bùn thoa lên chỗ bị ong chích.
Tiếp tục di chuyển khoảng nửa tiếng đồng hồ, Phước ra dấu hiệu, có nhiều tiếng động ở phiá trước. Vài giây sau, tất cả mọi người đều nghe tiếng động, cả toán biệt kích vội tìm chỗ nấp sau những thân cây.
Tôi nghĩ bọn cộng phỉ bắc việt đang ở quanh đó, nên rút chốt qủa lựu đạn M-26 sẵn sang; nhưng không phải địch quân mà là một đàn khỉ đang đùa giỡn, la hét, trên những cành cây.
Sau khi “tái mặt” vì đàn khỉ, chúng tôi áp dụng kỹ thuật di chuyển căn bản, đi mười phút, đứng lại nghe ngóng mười phút. Trong rừng, bạn có thể đoán biết chuyện đang xẩy ra xung quanh bằng cách nghe ngóng cũng như nhìn thấy. Đến giữa trưa, chúng tôi nghe được một phát súng “báo hiệu” có lẽ của toán đi tìm dấu vết toán biệt kích.
Toán biệt kích Idaho lặng lẽ di chuyển, đến khoảng 2:00 giờ chiều, có thêm tiếng súng báo hiệu, làm như chúng đã tìm ra lộ trình của toán biệt kích. Đến xế chiều, toán tìm dấu vết của địch đã tiến đến gần toán biệt kích, nhanh hơn chúng tôi nghĩ.
Nhận ra điều đó, toán Idaho tiếp tục di chuyển cho đến khi trời tối, không còn chút nắng, mới tìm chỗ đóng quân đêm. Khi đặt mìn Claymore phòng thủ, địch quân bắn thêm một phát súng cuối cùng làm cả toán biệt kích giật mình, có cảm tưởng như địch quân chỉ còn cách mười thước.
Vì khoảng cách với toán tìm dấu vết của địch quá gần, chúng tôi đợi đến nửa đêm mới lôi đồ ăn ra, ăn vội vàng. Chúng tôi báo cáo lên phi cơ tiếp vận, bay bao vùng 24/24, cho tất cả các đơn vị Bộ Binh trong Quân Lực Hoa Kỳ liên lạc, rằng toán biệt kích Idaho “OK”, rồi đi ngủ.
Khi ánh sáng bình minh hôm sau vừa ló dạng, toán biệt kích di chuyển ngay tức khắc. Chiếc FAC Covey cũng đã lên vùng, tôi báo cáo tình hình để FAC chuyển tiếp về Căn Cứ Hành Quân Tiền Phương Phú Bài. Tôi để ý cặp mắt của Sáu càng lúc càng to ra, anh ta đã làm trưởng toán biệt kích SOG được 5 năm, đầy kinh nghiệm, có thể “đánh hơi” địch quân.
Đến một chỗ an toàn, dừng chân, Sáu cho biết linh cảm địch quân rất đông. Tôi chưa tin, vẫn chưa thấy dấu hiệu gì của quân đội Bắc Việt, nhưng hơi lo.
Đến trưa, tôi báo cáo cho Covey, mọi chuyện êm xuôi và những linh cảm của Sáu. Covey trả lời, nên tin những lời Sáu nói (“Spider” đã từng làm trưởng toán biệt kích SOG, biết Sáu), rồi hẹn sẽ quay lại lúc 4:00 giờ chiều.
Sau đó, Sáu và Hiệp đổi vị trí trong toán, Sáu sẽ đi cản hậu, tôi đi ở vị trí thứ năm, trước anh ta. Khoảng 1:00 giờ chiều, chợt Sáu ra dấu hiệu tiếng “phì phì” như rắn hổ mang. Trên ngọn đồi (phiá bên kia) toán biệt kích vừa đi xuống, xuất hiện hai tên cộng phỉ bắc việt võ trang AK-47, đang nhìn toán biệt kích di chuyển mỉm cười.
Chúng “mỉm cười” thay vì đưa súng lên bắn chúng tôi. Hai tên lính bắc việt chỉ cách khoảng 45 thước, tôi đưa khẩu súng lên định bắn ra một quả M-79, nhưng Sáu ngăn lại, nói “Đi nhanh lên, tụi nó đông lắm!”.
Tôi báo cáo cho Wolken, anh ta ra lệnh cho toán biệt kích di chuyển nhanh lên núi. Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi lên đến một mỏm núi, đủ rộng cho cả toán biệt kích. Wolken ra lệnh cho tôi gọi chiếc FAC quay trở lại càng sớm càng tốt.
Lúc đó, cặp mắt của Sáu mở to như hai cái điã. Tôi dựng cần antena gọi cho FAC nhưng không nghe trả lời, hai ba lần vẫn không được. Tôi bấm máy máy “cấp cứu” URC-10, tín hiệu khẩn phát đi từ máy này, tất cả các loai phi cơ đang trong vùng hành quân Prairie Fire đều có thể nhận được, nhưng cũng không ai trả lời.
Tôi mở hộp Apricot ngồi ăn, chưa hết thì tiếng súng tiểu liên AK-47 nổ vang dội. Sáu, Phước, Hiệp và Wolken phản ứng rất nhanh chóng, bắn trả lại dữ dội. Tôi chưa từng nghe tiếng súng AK-47 nổ lớn và thật gần như lần này.
Tiếng súng nổ chát chúa, cùng với khói thuốc súng bay mùi khét trong không khí. Cuộc chạm súng diễn ra hết sức ác liệt, đủ các loại đạn bắn như mưa, khói lửa mịt mù, những quả lựu đạn được đôi bên tung ra liên tục, những thân xác địch quân ngã xuống trong tiếng thét đau đớn thảm thiết trước khi tắt lịm.
Rồi tiếng súng tạm ngưng (hình như để ráp băng đạn khác) rồi lại tiếp tục nổ đều đặn và dữ dội. Cuộc chạm sung dữ dội kéo dài đến cả tiếng đồng hồ.
Mỏm núi nhỏ đã cứu toán biệt kích Idaho, bọn cộng phỉ bắc việt không thể tràn lên với quân số đông đảo cùng một lúc. Tôi bấm máy URC-10 liên tục, gào lên trên máy truyền tin PRC-25. Cả tiếng đồng hồ vẫn chưa liên lạc được với ai để cầu cứu, chúng tôi phải tiết kiệm đạn.
Trong khi đó, bọn cộng phỉ bắc việt lôi những xác chết đồng bọn của chúng và những tên bị thương ra nơi khác, chúng lại tiếp tục bò lên tấn công.
Cuối cùng, “Spider” trên chiếc FAC lên bao vùng, anh ta cho biết hai chiếc phản lực Phantom F4, trên đường về sau một phi vụ oanh kích trên đất Lào, bắt được tín hiệu khẩn của toán biệt kích Idaho và báo cho anh ta biết.
Tôi báo cho “Spider” biết chúng tôi báo động ở mức độ “Prairie Fire”, tất cả các phi cơ, kể cả mấy chiếc F4 đang trên đường lên hướng bắc nước Lào cũng phải quay trở lại để lo cứu toán biệt kích. “Spider” trấn an, cho biết đã có hai trực thăng võ trang biệt phái cho đơn vị SOG đang trên đường tới.
“Spider” nói cho một qủa khói mầu để đánh dấu vị trí toán biệt kích. Trên máy bay quan sát, “Spider” nhìn thấy vị trí toán biệt kích, anh ta điều động hai chiếc khu trục A-1 (đã đến trước) bắt đầu đánh bom trên sườn núi, làm bọn cộng phỉ bắc việt kinh hoàng khiếp đảm phải bỏ chạy xuống chân núi tránh bom.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ trước khi trời tối, “Spider” cho biết, trực thăng đang tới.
Hai chiếc trực thăng võ trang bay vào trước, rồi Đại Úy Thịnh (Phi Đoàn 219 “King Bee”) đáp xuống cách chúng tôi chừng mười thước. Chúng tôi chạy trên đám cỏ tranh ra chiếc trực thăng H-34. Wolken cùng tôi “túm” mấy ông biệt kích nhỏ con Việt Nam ném vào trong lòng chiếc trực thăng, rồi nhẩy lên sau.
Đại Úy Thịnh vẫn tỉnh bơ đợi chúng tôi lên hết rồi mới cho trực thăng cất cánh bay về Phú Bài. Hôm sau chúng tôi mới được biết chiếc trực thăng H-34 gia nua đã trúng 48 viên đạn nhưng vẫn bay về bình an do tài nghệ của những phi công huyền thoại người Việt của Phi Đoàn 219 King Bee.
Về đến Phú Bài trời đã tối, tôi vào nhà ăn lấy đồ ăn tối cho Sáu, Hiệp, Phước, rồi ngồi ăn với họ.
Lần sau, nếu gặp lại Đại Úy Thịnh, nhất định tôi phải mời ông ta vào câu lạc bộ đãi một chầu bia.
Vũ Đình Hiếu
__________________
The Following 3 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Năm xưa vào thời Tam Quốc, lúc nhà Hán lụn bại, khi đàm luận về thời thế với Tào Tháo, Lưu Bị từng nói rằng: “Gốc rễ của đại loạn trong thiên hạ, đầu tiên là do lòng người đại loạn”. Lịch sử nhân loại mấy ngàn năm qua cũng đã nhiều lần chứng tỏ lòng người là cội nguồn cho sự hưng suy của một nền văn minh.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự suy vong và sụp đổ của các nền văn minh nhân loại đều bắt nguồn từ sự trượt dốc và suy đồi về văn hoá và các chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Khi con người ở các tầng lớp trong xã hội, từ người làm quan cho đến dân thường không còn bị ước thúc bởi các giá trị đạo đức, thì tất yếu sẽ dẫn đến sự sa đoạ của các thành phần trong xã hội, các loại tệ nạn và các loại tội phạm sẽ xuất hiện ngày càng nhiều.
Con người dù ở trong xã hội nào, khi họ bị xa rời các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức thì họ sẽ không phân biệt được tốt xấu, đúng sai, hay thiện ác… Do vậy họ có thể tự cho phép mình hành động theo bản năng và dục vọng cá nhân mà không cần suy xét ảnh hưởng tới các thành viên khác hay tới toàn xã hội.
Luật pháp sẽ không thể nào giải quyết tận gốc cho một xã hội đang trượt dốc về văn hóa và đạo đức. Điều mà pháp luật trừng phạt là hành vi phạm tội của con người chứ không phải là tư tưởng. Nếu chính quyền của một nước tiếp tục bổ sung thêm các đạo luật mới để giải quyết ở phần ngọn của vấn đề, thì những loại tội phạm mới hơn, tinh vi hơn rồi sẽ lại xuất hiện. Người dân lúc đó sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều vấn đề hơn…
Ngày nay, người ta đánh giá sự thành đạt của một cá nhân chủ yếu nhìn vào vị trí công việc, mức thu nhập hay số tài sản mà người đó đang có hơn là tính cách, lối sống và đạo đức của họ.
Một xã hội quá đề cao sự thành công về mặt vật chất sẽ làm tăng thêm tính vị kỷ và lòng tham của con người. Có những người sẽ chỉ vì một chút lợi ích mà không việc xấu nào không dám làm.
Năm xưa vào thời Tam Quốc, lúc nhà Hán lụn bại, khi đàm luận về thời thế với Tào Tháo, Lưu Bị từng nói rằng: “Gốc rễ của đại loạn trong thiên hạ, đầu tiên là do lòng người đại loạn. Vì vậy, muốn yên được thiên hạ thì phải có được lòng người. Mà gốc rễ của lòng người chính là ở nơi đạo trời ban nhân nghĩa giữ trung hiếu.”
Nếu gốc rễ của vấn đề là “lòng người”, thì hơn bao giờ hết tất cả các thành viên trong xã hội từ quan đến dân đều cần phải quay lại đề cao và tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống và các chuẩn mực đạo đức.
Điều này cũng không nằm ngoài triết lý “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Mỗi người dù họ là ai, thuộc tầng lớp nào trong xã hội, là quan chức hay dân thường, đều cần bắt đầu từ việc tu dưỡng đạo đức, hoàn thiện bản thân, làm tốt vai trò trong gia đình, rồi mới đến xã hội.
“Tu thân” ấy là gốc rễ – Ta là gốc rễ của mọi điều ta làm, mọi sự ta có. Triết lý ấy không hề lỗi thời mà thực sự bao hàm tính nhân văn rất cao, không chỉ là từ việc nhỏ đến việc lớn, mà còn từ gốc rễ đến ngọn cành.
Một cá nhân biết “tu thân” tốt thì khi lập gia đình người đó sẽ trở thành một người chồng tốt hay một người vợ tốt, và sẽ là tấm gương tốt về văn hoá và đạo đức cho chính con cháu của họ.
Chúng ta vẫn thường nói “gia đình là nền tảng của xã hội”. Vậy càng có nhiều gia đình được xây dựng trên nền tảng đạo đức và văn hoá tốt, chẳng phải sẽ càng góp phần tạo nên sự bình ổn, vững mạnh và hạnh phúc trong xã hội sao?
Một cá nhân biết “tu thân” tốt thì khi bước ra ngoài xã hội, họ sẽ không làm việc xấu, và ở trong cương vị công tác nào họ đều biết coi trọng và trau dồi đạo đức nghề nghiệp của mình.
Từ đó xã hội sẽ có nhiều hơn những nhà giáo có nhân văn, yêu nghề và yêu trò; có nhiều hơn những thầy thuốc có lương tâm, hết lòng vì bệnh nhân; có nhiều hơn những người cầm quyền không độc tài, gian xảo, tham nhũng, mua quan bán chức; những công chức và cán bộ có nhân tâm, nhân tính, nhân bản, làm việc công tâm và tận tuỵ vì nước, vì dân; có nhiều hơn những doanh nhân coi trọng chữ tín, không sản xuất hàng giả, hàng nhái và tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt phục vụ xã hội…
Khi các thành viên trong xã hội biết coi trọng các giá trị văn hoá và đạo đức thì nhà cầm quyền đâu cần phải đề ra hàng ngàn luật lệ vô lý chồng chéo lên nhau;đâu cần lúc nào cũng phải khản cổ to miệng hô hào, căng đầy những biểu ngữ sáo rỗng, tối nghĩa, đầy lỗi chinh tả; đâu cần phải có nhiều cảnh sát, an ninh mà xã hội vẫn thái bình và quốc gia vẫn phát triển.
“Tu thân” chính là gốc rễ để giải quyết mọi vấn nạn. Nó là yếu tố quan trọng nhất quyết định tương lai và hạnh phúc của một cá nhân, một gia đình, một tổ chức hay một xã hội. Luôn luôn là như vậy!
*** Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ
修身, 齐家, 治国, 平天下 Xiūshēn, qí jiā, zhìguó, píng tiānxià
Hẳn là nhiều người trong chúng ta đã từng nghe qua câu nói “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (修身, 齐家, 治国, 平天下 Xiūshēn, qí jiā, zhìguó, píng tiānxià). Đây là một câu nói của Khổng Tử trong sách Đại Học (một trong bốn cuốn Tứ Thư ở Trung Quốc).
“Đại Học” (大学) nguyên là một chương trong Lễ Ký, được thành sách ước trong khoảng thời gian từ thời Chiến Quốc đến thời Tần Hán, được xem là một trong những kinh sách chủ yếu của Nho Gia. Còn tác giả là ai, từ trước đến nay vẫn chưa xác định rõ tuy nhiên nhiều người tin rằng cuốn sách là do Tăng Tử (học trò của Khổng Tử) ghi chép lại các lời dạy của Khổng Tử
Xuất phát của “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” là 4 bước trong 8 bước (bát mục) để thực hiện ba cương lĩnh của Nho Giáo. Tám bước đó là:
- Cách vật: luôn tiếp xúc, nghiên cứu kỹ sự vật, sự việc để nhận rõ thực chất, phải trái.
- Trí tri: luôn ngẫm nghĩ để thấu hiểu điều mình đã nhận thức được.
- Thành ý: luôn chân thật, không dối người và không dối mình.
- Chính tâm: luôn suy nghĩ , hành động ngay thẳng, chính trực và làm chủ bản thân mình.
- Tu thân: luôn nghiêm khắc với bản thân mình, sửa chữa những thiếu sót, không bảo thủ để nhận rõ sai sót nhằm hoàn thiện bản thân.
- Tề gia: làm cho gia đình mình tốt đẹp, tề chỉnh, có nề nếp, gia phong.
- Trị quốc: lo toan việc nước, cai trị đất nước cho có kỷ cương, phép nước.
- Bình thiên hạ: khiến cho thiên hạ thái bình, lòng người quy thuận.
Trong lịch sử đã có nhiều tấm gương về trị quốc: Vua Nghêu, Vua Thuấn dùng nhân ái để cai trị thiên hạ, nhân dân theo đó mà thực hiện nhân ái;
Vua Kiệt, Vua Trụ ác ôn, độc tài, gian xảo, dùng bạo lực, tù ngục để đàn áp, bịt miệng dân, cai trị thiên hạ, dân chúng cũng vì bị áp bức bất công mà nổi dậy làm loạn.
Cho nên người quân tử, trước nên yêu cầu mình có điều thiện, sau đó mới yêu cầu người khác; yêu cầu mình đừng làm điều ác, rồi sau đó mới cấm chỉ người khác. Nếu bản thân mình che giấu những hành vi không phù hợp với đạo trung thứ, mà lại lên mặt lớn tiếng đạo đức giả giáo dục được người làm theo đạo trung thức, từ trước đến nay chưa có ai làm được.
“Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đều rất có tính logic. “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đều phải dựa vào “tu thân”. Có “tu thân” tự cá nhân mình sống tốt, trung thực và đúng đạo làm người, thì mới làm gương được cho gia đình, dạy bảo người trong nhà mới nghe theo, tức là “tề gia”.
Gia đình là đơn vị nhỏ mà “tề” được thì mới mong trị được nước, trị được nước với những chính sách đạo đức nhân nghĩa thì mới làm cho dân chúng được sống ấm no, hạnh phúc và thái bình.
Cho nên có thể nói, cá nhân tu thân, có liên quan tới một gia đình, có liên quan tới một quốc gia, có liên quan tới nền hòa bình thế giới.
Hoàng Minh
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Nguyễn Hữu Kính (1650 – 1700) – xưa nay họ tên ông vẫn lưu truyền phổ biến là Nguyễn Hữu Cảnh – là một tướng giỏi đời Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725), là con thứ của danh tướng Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật.
Thời niên thiếu, Ông đã theo cha phục vụ trong quân ngũ đến bậc Cai Cơ. Ông đã lập công trạng lớn đầu tiên khi chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm 1692 phái ông làm Thống Binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân đánh vua Chiêm là Kế Bà Tranh, bình định biên cương. Sau đó Ông được Chúa Nguyễn thăng chức Chưởng Cơ và cho làm Trấn Thủ dinh Bình Khương. Ông chính là người có công kinh lược sứ Đồng Nai – Gia Định vào năm 1689.
Mùa thu năm Kỷ Mão (1699) vua nước Chân Lạp là Nặc Thu làm phản, Chúa Nguyễn hạ lệnh cử Trấn Thủ Bình Khương Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm chức Thống binh cùng phó tướng Phạm Cẩm Long, Tham tướng Nguyễn Hữu Khánh đem quân sĩ từ Dinh Bình Khương, cho đóng 7 thuyền chiến thuộc binh của Quảng Nam vào Trấn Biên, hợp cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc trấn vệ biên cương.
Mùa xuân năm Canh Thìn (1700) đánh bức luỹ Nam Vang và Bích Đôi. Nặc Yêm, Nặc Thu phải xin hàng. Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về cù lao Cây Sao. Sau đó Ông bị đánh lén dẫn đến trọng thương, về tới Rạch Gầm thì mất, năm ấy 51 tuổi. Chúa Nguyễn phong tặng là Hiệp Tán Công Thần Đặc Tiến Chưởng Dinh, thuỵ là Trung Cần, ban cho vàng lụa để hậu táng.
Năm Gia Long thứ 4 (1805) tặng là Tuyển Lực Công Thần Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Cẩm y vệ Đô Chỉ Huy Sứ Ty Đô Chỉ Huy Sứ, Đô Đốc Phủ Chưởng Phủ Sư Phó Tướng Chưởng Cơ, liệt vào hàng Thượng Đẳng Thần, Minh Mạng thứ 12 (1831) tặng Thần Cơ Dinh Đô Thống Chế, Vĩnh An Hầu. Các Triều đại đều có Sắc phong Thượng Đẳng Thần: Gia Long thứ 4 (1805), Minh Mạng thứ 3 (1822), Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), Tự Đức năm thứ 5 (1852).
1. Đất Đồng Nai trước khi lưu dân Việt vào khai phá
Đồng Nai là một tỉnh miền Đông Nam Phần, có lịch sử lâu đời. Trong lòng đất Đồng Nai bảo tồn nhiều dấu vết của cuộc sống con người nguyên thuỷ. Nhờ vào những phát hiện khảo cổ học từ trước đến nay của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đồng Nai nói riêng, lưu vực sông Đồng Nai nói chung được biết đến với tư cách một vùng đất từng chứng kiến sự hình thành, phát triển của những cộng đồng người cổ.
Qua hàng loạt các địa điểm trên vùng đất Đồng Nai như : Dầu Giây, An Lộc, Hàng Gòn, Cam Tiêm, Bình Lộc, Núi Đất, Phú Quý… đã phát hiện những công cụ lao động của người cổ. Đó là những hiện vật thời đồ đá cũ, thời đại lịch sử đầu tiên và chiếm khoảng thời gian dài nhất trong xã hội loài người.
Khoảng cách đây 2500 năm, cư dân Đồng Nai đã bắt đầu bước vào thời đại kim khí. Nền văn hoá thời đồ sắt ở Đồng Nai kết gắn hai giai đoạn phát triển đồng – thau và sắt sớm. Từ trong văn hoá đồng đã manh nha văn hoá sắt sớm với hàng loạt di chỉ tiêu biểu được phát hiện: Dốc Chùa, Bình Đa, Cái Vạn, Suối Chồn, Hàng Gòn, Long Giao…
Cư dân cổ Đồng Nai phát triển cao về chất lượng, số lượng, xã hội được đẩy lên ở những bước cao, đầy đủ những yếu tố chuyển tiếp cho giai đoạn phát triển mới. Hình thành các tộc người, cơ sở cho việc phát triển các quốc gia sơ khai trên vùng đất Đồng Nai đầu công nguyên. Đó chính là vương quốc Phù Nam ra đời vào khoảng thế kỷ II trước công nguyên.
Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Sử Ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía tây nam Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam4. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh. Vùng đất Nam Phần nói riêng và Đồng Nai nói chung chuyển sang sự quản lý của chính quyền Chân Lạp.
Theo sử cũ còn để lại, trên vùng đất rộng lớn, mênh mông này, khi Chân Lạp quản lý ở đây thì có các dân tộc Stiêng, Mạ, Kơ ho, M’nông, Chơro sinh sống. Trong đó, đông nhất là người Stiêng và người Mạ, đã sinh sống trên địa bàn này từ rất lâu đời. Dân số ít, sống thưa thớt, kỹ thuật sản xuất thô sơ và trình độ xã hội còn thấp.
Ngoài các tộc người trên, còn có một vài sóc người Khơ me nằm trên mấy giồng đất cao. Đây là dân nhập cư từ Lục Chân Lạp sang vì lý do chính trị (tránh loạn) hơn là vì lý do kinh tế. Sau khi Chân Lạp chiếm được Phù Nam, vùng đất Nam Phần ngày nay được gọi là Thuỷ Chân Lạp.
Việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực.
Vào nửa sau thế kỷ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến đầu thế kỷ IX mới kết thúc.
Sau đó người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya.
Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Trong khi đó qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hoá Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai – Gia Định hết sức mờ nhạt3.
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo như Chu Đạt Quan viết lại: “vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những bụi rậm của khu rừng thấp… tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm…”4.
Trên vùng đất Đồng Nai vào cuối thế kỷ XVI, về cơ bản, vẫn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá. Theo Lê Quý Đôn “Ở phủ Gia Định , đất Đồng Nai, từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm”5.
Như vậy đến trước năm 1698, vùng đất miền Đông Nam Phần trong đó có Đồng Nai, trên danh nghĩa, thuộc Chân Lạp, nhưng “thuộc” một cách lỏng lẻo, là vùng “trái độn” giữa Chân Lạp và Đàng Trong. Các dân tộc vẫn sống tự trị và một số sóc Khơ me lẻ tẻ chưa hợp thành đơn vị hành chính thuộc triều đình La Bích (Chân Lạp).
Dân Khmer tập trung khai thác các vùng đất màu mỡ quanh Biển Hồ, chưa có nhu cầu và nhân lực để khai hoang vùng trũng thấp Thủy Chân Lạp. Vùng đất này cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII là vùng đất hoang vu, đất tự do của các dân tộc, là đất hoang cả về kinh tế lẫn chủ quyền.
2. Tình hình đất Đồng Nai trước khi chúa Nguyễn kinh dinh
Vùng đất Đồng Nai hầu như hoang vắng vào cuối thế kỷ XVI thì vào đầu thế kỷ XVII trở nên sôi động với sự xuất hiện của lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt từ vùng Thuận Quảng di cư vào.
Những lưu dân Việt thuộc lớp tiên phong đi vào vùng đất mới Đồng Nai – Gia Định lập nghiệp làm thành nhiều đợt trước cả thời Trịnh – Nguyễn phân tranh nhưng dâng lên thành làn sóng mạnh mẽ hơn là vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Phần đông họ chọn phương thức tự động, đi lẻ tẻ, hoặc cả gia đình, hoặc những người khỏe mạnh đi trước tạo dựng cơ nghiệp rồi đón cả gia đình đến sau, hoặc một vài gia đình cùng cả xóm kết nhóm với nhau cùng đi.
Phần lớn họ chọn thuyền buồm hay ghe bầu làm phương tiện di chuyển chính, bởi lúc bấy giờ di chuyển giữa các phủ miền Trung với Đồng Nai – Gia Định chủ yếu là đường biển, một số người phải trèo đèo lội suối đi đường bộ, đi dần từng chặng một, đến một địa phưong ở lại một thời gian, thấy bám trụ được thì ở lại lập nghiệp, bằng không đi tiếp và lần hồi cũng tới vùng đất mới Đồng Nai.
Tiến trình nhập cư của lưu dân Việt vào vùng Đồng Nai – Gia Định từ lẻ tẻ rời rạc, dần dần có quy mô lớn hơn. Những lưu dân Việt từ việc lập những làng xóm nhỏ trên vùng đất Đồng Nai đã thôi thúc các chúa Nguyễn đặt những bước tiến lớn hơn trên vùng đất này.
Thành quả của việc khai hoang và sản xuất của lưu dân người Việt cùng với các dân tộc bản địa trong thế kỷ XVII đã làm biến đổi bước đầu bộ mặt kinh tế Đồng Nai. Nơi đây từng là rừng núi hoang vu nay đã trở thành những cánh đồng lúa, vườn cây tươi tốt. Xóm làng hình thành ven sông là một đặc điểm nổi bật của cư dân Đồng Nai.
Về sau khi giao thông phát triển thuận lợi thì xóm làng mới phát triển theo chiều ngang, chính vì vậy, việc vận chuyển buôn bán ra các phủ ở xứ Đàng Trong là điều tất yếu.
Công việc khẩn hoang đã làm thay đổi bộ mặt xã hội. Sự phân chia giai cấp ngày một diễn ra sâu rộng, tầng lớp địa chủ chiếm hữu ruộng đất dần dần được hình thành và số nông dân nghèo phải làm thuê, cuốc mướn hay làm tá điền ngày càng đông. Sự phân hoá xã hội ngày càng tăng, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ ngày một sâu sắc hơn.
Nhưng dẫu sao, những thành tựu đã đạt được về mặt khẩn hoang và khai thác nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong giai đoạn đầu đã đặt nền móng vững chắc cho công cuộc khẩn hoang và phát triển kinh tế vùng đất Đồng Nai – Gia Định trong các thời kỳ tiếp sau.
3. Chúa Nguyễn Thiết lập bộ máy chính quyền ở Đồng Nai
Trên cơ sở của một lực lượng di dân, khai khẩn vùng đất phương Nam từ trước nên chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử Nguyễn Hữu Cảnh – một tướng tài giỏi kinh lược phía Nam vào mùa xuân năm Mậu Dần (1698).
Chuyến kinh lược này, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thực thi một việc vô cùng quan trọng; đó là thiết lập một hệ thống tổ chức bộ máy hành chính ở vùng đất mới. Cụ thể là : Ông “lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên , lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai ty xá – lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền, thuỷ bộ binh và thuộc binh để hộ vệ”6.
Đất đai lúc Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược (kể toàn phủ Gia Định) mở rộng 1000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ, trung bình một hộ 5 người thì ở toàn phủ Gia Định lúc này có đến 200.000 người. Ông chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh (Quảng Bình) đưa vào Nam cho ở đông đúc, thành lập xã, thôn, phường, ấp, chia đặt địa giới, khai khẩn ruộng đất, định lệ thuế, tô và dung, đồng thời lập sổ đinh, sổ điền.
Với việc xác lập chủ quyền bằng cách thiết trí hệ thống hành chính các cấp (phủ, huyện, phường, xã, thôn, ấp), lưu dân người Việt từ chỗ là kiều dân đã cùng với các tộc người khác trở thành thần dân của chúa Nguyễn.
Ở Đồng Nai (tức huyện Phước Long), đơn vị hành chính cơ sở là xã, phường, thôn, ấp, tượng. Vào thế kỷ XVIII, làng xã Đồng Nai vẫn được đặt dưới quyền quản lý của viên Xã trưởng. Xã trưởng được gọi bằng danh từ chính thức là Tướng Thần Xã Trưởng, trong khi bình dân gọi là Cai Xã từng được Thích Đại Sán nhắc đến trong Hải Ngoại Ký Sự của ông.
Xã trưởng cùng với các kỳ mục, tức hương chức hay viên chức làng, họp thành Hội Đồng làng xã, hay Hội Đồng Kỳ Mục. Chức vụ Xã Trưởng thường được xếp tòng cửu phẩm. Các Xã Trưởng có các phận sự: – Duy trì an ninh trong làng xã; Quản trị tài sản làng xã; Bảo lưu và thiết lập sổ địa bạ và sổ đinh; Phụ tá các quan trên trong các công vụ….
Trong Hội Đồng Kỳ Mục Đồng Nai, người ta thấy có những thành phần như sau: chức sắc gồm những người có chức quan, đương quan cũng như cựu quan cư ngụ trong làng; chưa có mấy người có khoa mục, lão nhiêu, kỳ mục, đa số là những người có tiền của đóng góp trong công việc xây dựng làng xã.
Trong sử liệu hành chánh ở cấp làng xã, Lê Quý Đôn cho chúng ta nhiều chi tiết về các chức vụ đã có ở Thuận Quảng ít ra trong thế kỷ XVIII: Cai thuộc và Ký thuộc trông coi các thuộc; Cai Xã, Tướng Thần, Xã Trưởng trông coi các xã. Những chi tiết về bổng lộc cho các chức vụ này cho thấy hầu như không có những sự phân biệt về quyền hạn khác nhau của mỗi chức vụ trên.
Những loại đơn vị ở phủ Gia Định, Đồng Nai như thuộc, trại, bãi, nguồn, cửa, nậu,… không giống như những đơn vị có tổ chức tương đối hoàn chỉnh và ổn định ở Thuận Quảng. Sự kiện này cho thấy cơ cấu tổ chức làng xã trong thế kỷ XVIII ở phủ Gia Định chưa đi vào nề nếp; nếu chưa có những đơn vị hành chính cơ sở được định danh chắc chắn, thì cũng chưa thể có một cơ cấu quyền binh với các chức vụ có trách nhiệm và quyền hạn rõ rệt cho từng đơn vị tạm thời này.
Tuy tạm thời cũng đã có một cơ chế quyền lực cơ sở vận hành ở các vùng định cư thuộc Đồng Nai. Với những tư liệu hạn chế ta cũng có thể hình dung guồng máy quyền lực nông thôn ở Đồng Nai có một số đặc điểm.
Tư liệu của Lê Quý Đôn cho chúng ta biết nhiều đến các chi tiết thuế má, quân sự ở đất Đồng Nai – Gia Định hơn là về làng xã, dân đinh: đấy là những chỉ dẫn khá chắc chắn cho thấy Đồng Nai ở thế kỷ XVIII chủ yếu vẫn là một phần đất nặng về khai thác tài nguyên trước mắt mà chưa có tổ chức quản lý làng xã vững vàng.
Sự hình thành cơ cấu xã hội nông thôn ở Đồng Nai đã diễn ra theo một quá trình thật phức tạp. Từ trước thế kỷ XVII và sau đó, xã hội nông thôn Đồng Nai đã có và còn có những thành phần dân cư bản địa, tuy ít ỏi và phân tán. Những nhóm dân tộc ít người mà gọi là Đê man có mặt đó đây ở miền Đông, sinh sống khá tập trung ở vùng bậc thềm cuối cùng của vùng Cao Nguyên Nam Trung Phần, tức khu vực Di Linh – Lâm Đồng.
Xã hội nông thôn Đồng Nai còn có nhóm lưu dân người Hoa là một bộ phận di dân khá quan trọng sau người Việt. Họ sinh tụ trước hết trong các khu định cư ở vùng Bến Gỗ, Cù Lao Phố. Họ có cả một cơ cấu xã hội riêng biệt trong các làng xã của họ bắt nguồn từ truyền thống cộng đồng dân tộc người Trung Hoa ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Ở thời kỳ thành lập, cơ cấu xã hội được kiến tạo một cách tự phát do nhiều thành phần đến từ phía Bắc, cụ thể là ở Thuận Quảng, Phú Yên,… nói sự hình thành có tính cách ngẫu nhiên, vì các lưu dân đã chuyển cư vào Đồng Nai do sự thúc bách của nhiều động lực khác nhau, nhưng khi đến đất mới Đồng Nai, họ trở thành những cộng đồng làng xã mới. Cấu trúc xã hội khởi đầu này lại còn được quy định do từng phương thức lập làng của từng cộng đồng lưu dân, đặt ra các tiêu chuẩn để tuyển mộ từng thành phần xã hội khác nhau.
Khi Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược đất Đồng Nai ngoài việc thiết lập hệ thống quản lý hành chánh đặt ra phường ấp xã thôn chia cắt địa phận, “lập bộ đinh bộ điền”, ông còn cho “chiêu mộ những người dân có vật lực từ các xứ Quảng Nam, phủ Điện Bàn, Phủ Quảng Nghĩa và phủ Quy Nhơn thiên cư vào đất Đồng Nai thuộc phủ Gia Định”7.
Chính những người dân có vật lực này, tức là những người giàu có, đã mang đến một sinh khí mới cho công cuộc khai khẩn đất đai ở đây, vì chỉ có họ mới có điều kiện tài chính để thuê mướn người làm (điền nô) tổ chức việc khai hoang với quy mô lớn. Những người di cư mới ra sức chặt phá cây cối, cắt cỏ rậm và mở mang đất đai thành những vùng đất bằng phẳng, thổ địa phù nhiêu.
III. Đánh giá, nhận xét về công lao của Nguyễn Hữu Cảnh
Chuyến kinh lược này, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thực thi một việc vô cùng quan trọng: Đó là thiết lập một hệ thống tổ chức bộ máy hành chính ở vùng đất mới. Ông lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai ty xá – lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền, thuỷ bộ binh và thuộc binh để hộ vệ.
Việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh có tác động lớn đến vùng đất mới. Vùng đất rộng, người thưa, dân cư gồm những người tha phương cầu thực đã chung sống trở thành cộng đồng. Về mặt pháp lý, với bộ máy hành chính cụ thể, người dân chịu sự cai quản của nhà nước, sống theo trật tự xã hội và có điều kiện phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Cảnh thực thi chính sách dân tộc độc đáo khai thác tiềm năng của cộng đồng người Hoa và ổn định về xã hội cho họ yên tâm cùng với lưu dân Việt phát triển vùng đất Đồng Nai bằng cách lập đơn vị hành chánh riêng. Cụ thể là lập xã Thanh Hà ở Trấn Biên (Biên Hoà), Minh Hương (Sài Gòn) ở Phiên Trấn.
Trên cơ sở khẳng định vùng lãnh thổ, chúa Nguyễn bắt đầu thực hiện những chính sách khẩn hoang và phát triển kinh tế trên đất Nam Bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng. Qua cuộc kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 đã biến vùng đất Đồng Nai – Gia Định thực sự thuộc chủ quyền và đặt dưới sự quản lý của chúa Nguyễn. Nó đẩy nhanh quá trình khai khẩn đất hoang và phát triển kinh tế ở vùng đất này. Những việc làm này đã đặt nền tảng xã hội cơ bản. Từ đây Đồng Nai – Gia Định trở thành lãnh thổ chính thức của nước Việt Nam. (Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh s/t)
Chú thích:
1. Về tên gọi của Kính hay Cảnh, tham khảo bài viết Góp phần tìm hiểu về Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Kính (Cảnh), đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số 1, 2014 của tác giả Đinh Văn Tuấn.
2. Về cái chết của Nguyễn Hữu Cảnh do mất vì bạo bệnh hay tử trận, tham khảo bài viết Góp phần tìm hiểu về Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Kính (Cảnh), đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số 1, 2014 của tác giả Đinh Văn Tuấn.
3. Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, quyển 2A, Sơn Xuyên Chí, trang 6.
4. Chu Đạt Quan, Chân Lạp Phong Thổ Ký, bản dịch, trang 80.
5. Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, tập 1, trang 345.
6. Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, phần 3, Cương Vực Chí, trang 4.
7. Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, phần 3, Cương Vực Chí, trang 17.
__________________
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Thằng bạn ở nước ngoài về chơi Việt Nam, trên đường tới Hội An, ghé quán cà phê ven đường, “Cho ly cà phê đá Sài Gòn đi bà chủ”. Cà phê mang ra, chưa nếm, y đã lắc đầu, “Không phải. Cà phê là cà phê kiểu Sài Gòn, có biết không?”. “Dạ, dạ… biết”. Dân miền Trung nhẫn nại. Cái gì cũng biết, trừ những cái không biết. Ly cà phê khác mang ra. Cũng không phải!
Tôi sống ở cái đất Sài Gòn này gần mãn kiếp, mấy tiếng cà phê Sài Gòn đã nhạt nhòa từ thuở tám hoánh nào rồi. Nay, nghe một khứa Tây da vàng, biệt xứ 40 năm (xẹt đi xẹt lại Việt Nam giỏi lắm là vài ba lần) dõng dạc: “Cà phê kiểu Sài Gòn”. Thấy sốc!
Tôi không nhớ mình đã uống cà phê từ lúc nào. Chắc từ thuở biết bưng bê, uống vụng cà phê của các bậc bề trên hơi nhiều. Nhưng chỉ thèm cà phê khi thấy mấy ông khách ở quán cà phê các chú (Tàu) đổ cà phê sữa vào đĩa, chấm bánh tiêu. Thèm cà phê hay bánh tiêu? Tôi không biết, có thể cả hai.
Nhưng vị đắng cà phê biết nếm từ lúc nào thì tôi biết chắc. Đó là những tháng ngày của năm 1972, khi bè bạn bỗng chốc xếp bút nghiên ra đi. Thằng về, thằng đi… luôn. Đóng đô ở quán cà phê nhiều hơn lớp học.
Cà phê có đường hay không đường đều đắng như nhau. Vị đắng quá dư để nhận lời ủy thác, mày đưa thư này cho em… dùm tao, mà đợi tao đi rồi hãy đưa. Chết thiệt tới nơi rồi, không ngán, mà lại chết… nhát vì mấy sợi tóc dài. Thua xa bọn trẻ @ thời nay.
Cà phê ngon nhất Sài Gòn, theo cái lưỡi của tôi, ở góc đường số 4 Duy Tân. Chỉ là quán vỉa hè, không bảng hiệu, tụi tôi gọi là cà phê lá me, mà hình như ở đó chẳng có cây me nào thì phải.
Hồi đó tôi học ở Đại Học Khoa Học, mà mấy bà bên khoa học, nói phải tội, khô khan và nặng vía. Tôi phải vượt qua cà phê Năm Dưỡng gần trường, đến ngồi đồng ở cà phê lá me, chiều chiều ngắm mấy cô sinh viên Luật Khoa, Văn Khoa tha thướt. Trời ơi, nắng Sài Gòn mát rượi chứ không phải “chợt mát” như thi sĩ Nguyên Sa vã mồ hôi làm bài thơ Áo Lụa đâu.
Quẹo trái chừng vài trăm mét là đường Cường Để, con đường đẹp nhất Sài Gòn. Hai bên đường là những biệt thự lâu đời, chủng viện, tu viện cổ kính với hàng cây cổ thụ cả trăm tuổi… Lá đổ muôn chiều là con đường này, chẳng cần đợi tới mùa thu.
Bây giờ nơi đây là nhà cao tầng, khu thương mại, ồn ào náo nhiệt, đi quờ quạng kẹt xe. Cả trăm cây cổ thụ bị đốn trên con đường vài trăm mét thì chẳng còn gì để nói thêm nữa. Mất hết…
Cảnh đẹp, người đẹp, cà phê không ngon sao được. Mà cà phê lá me ngon thiệt, chứ không phải tôi mù quáng cái đẹp nói bừa. Cô chủ quán không biết pha kiểu gì, pha vớ, chứ không phải pha phin, mà ly cà phê sữa đá 80 đồng ngon không thể tả. Sau này nếm thử Starbucks, Green Mountain,… cũng không thể bằng. Sức mạnh của dĩ vãng nặng oằn vai.
Luận về cà phê ngon dở hơi bị khó, mỗi người mỗi goût, chân lý đa dạng. Nhưng cà phê Sài Gòn chắc là luận được. Từ luận được cho đến luận hết nổi. Người ta cứ đồn cà phê Sài Gòn độn bắp, độn cau, rượu đế, mắm muối,… toàn là mấy thứ dân dã. Có lửa, có khói.
Lời đồn này đúng. Cà phê Tây cũng đâu phải nguyên chất, cũng pha thứ này, trộn thứ nọ chút chút. Thích nghi văn hóa mà! Cà phê Sài Gòn không độn bắp rang làm sao có độ sánh.
Xứ nóng, uống cà phê đá mà lỏng le coi sao được. Cà phê không thêm cau rang làm sao đủ đắng mà ngẫm chuyện đời. Cà phê đá làm gì có chuyện hương thơm thoang thoảng nếu không tẩm chút rượu. Rồi cũng phải mắm muối chút đỉnh cho đậm đà… Những thứ lằng nhằng này coi như là… phụ gia, chứ “chính gia” vẫn phải là cà phê rang sao cho tới tới… Bí quyết ngon dở là ở chỗ đó.
Rồi theo thời thế, mọi thứ đổi đời. Phụ gia trở thành chính gia, chính gia thành phụ gia. Đổi đời thêm cú nữa, cà phê biến luôn, chỉ còn đậu nành và hóa chất. Muốn đắng có ký ninh, hạt mắt rồng, dexamethasone. Muốn sánh có a dao gelatin. Muốn đen có nước màu caramel.
Hương cà phê thì vô vàn nhớ không hết. Muốn bọt? Đã có lauryl sulfate (tạo bọt xà phòng). Làm gì còn “cà phê kiểu Sài Gòn” hở thằng bạn Tây da vàng kia, thèm lauryl hay sao mà ngồi đó làu bàu.
Thiệt ra, cà phê Sài Gòn vẫn còn, vẫn có vẻ đẹp của riêng nó – Vẻ đẹp của ký ức.
Cà phê lề đường làm gì có âm nhạc, chỉ có âm thanh đường phố, tiếng rao hàng, tiếng còi xe, và cái “mát rượi” riêng tư. Cà phê nghe nhạc phải vào quán đèn mờ, máy Akai băng cối, những bản tình ca diễm lệ, tiếng hát Lệ Thu, Khánh Ly,… Bảnh hơn thì nhạc Tây, Il est mort le soleil, Oh Mon amour,… Thời cuộc thì ca khúc da vàng, đại bác ru đêm, người chết hai lần…
Bè bạn về phép (có khi chúng liều mạng “nhảy dù” cũng không chừng) lại kéo nhau ra quán nhậu. Nhậu đã rồi tới quán cà phê Chiêu đường Cao Thắng. Ở quán nhậu thì tranh nhau nói, tới quán cà phê, chẳng thằng nào buồn nói. Cà phê và khói thuốc. Cà phê nhỏ giọt. Giọt có buồn không? Mờ quá không thấy giọt, nhưng nỗi buồn thì thấy.
Dạo sau này tôi đổ đốn khoái nhạc sến, từ khoái tới mê chỉ là gang tấc. Giác ngộ tiệm tiến qua nhiều ngõ khác nhau. Một trong những ngõ đó là nhạc kẹo kéo. Xe kẹo kéo chiều chiều đẩy ngang nhà, mở to những bản nhạc sến một thời.
Chưa hát nhạc sến bao giờ, mà sao trong đầu lại hát theo. Thời gian chưa đủ nghe hết bản nhạc thì tiếng hát đã xa dần, và cái đầu lại lẩm bẩm hát tiếp, thuộc lời nhạc sến từ thuở nào chẳng hay. Cù cưa với ký ức kiểu này thì con đường tới bến giác mê cũng chẳng bao xa.
Một ngõ giác ngộ khác, khi tiếng lòng lời ca bỗng nhiên gặp nhau. Cách nay 7-8 năm gì đó, tôi ra Hà Nội có chuyện, nhân tiện ghé quê ngoại. Mẹ tôi bệnh nằm một chỗ, hớn hở dặn dò, con về phải ghé người này trước, thăm người nọ sau, nói mẹ biếu người này cái này, người kia cái kia,…
Quê mẹ tôi ở làng Chử Xá, mảnh đất của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Nửa tiên nửa tục, nên có máu lãng tử, nhảy cóc qua đời mẹ tôi, tới tôi thành gen trội. Trước hôm đi, bè bạn kéo nhau ra Hóc Môn nhậu gà hấp hèm.
Đất ven đô hồi đó còn hơi vắng, nhưng cũng đã lên vàng, chẳng vàng 4 số 9, thì cũng 9 số 4, hơi hớm văn minh đô thị đã len tới. Dàn nhạc lưu động, cũng bass treble ra trò, đến trước quán vừa bán kẹo, vừa mượn nhạc đệm karaoke chơi nhạc sống. …Một mai con về quê ngoại xưa, để mẹ nhắn lời thăm… Càng nghe càng thấm.
Đất Sài Gòn tìm đâu ra cà phê nhạc sến. Dù cà phê ở những quán deluxe không quá tệ như cà phê đậu nành, nhưng chắc chắn không phải là “cà phê Sài Gòn”. Cà phê gì mà đen thui đặc sệt, chỉ là một thứ cà phê bá đạo có bản quyền. Nhạc thì ầm ầm DJ uốn éo, khổ cho cái đầu già cổ lỗ sĩ.
Cũng có quán chơi nhạc trữ tình, nhạc của một thời, nhưng nhìn cách bài trí của quán, tôi đã cảm thấy kiểu “một thời” đó là cái mà mình muốn quên. Như lúc này, tôi không còn muốn nghe ca khúc da vàng nữa. Nghe mà ngượng, thì nghe làm gì? Trên đời đâu có gì hoàn hảo, chỉ có thể chọn giữa cái xấu hoặc cái ít xấu hơn. Không chọn lựa chẳng khác nào gián tiếp chọn cái xấu hơn.
Vài năm trở lại đây, mỗi lần từ Đà Lạt về Sài Gòn, tôi vẫn hay ghé xe cà phê đường Nguyễn Minh Chiếu, chỉ là cà phê vỉa hè trong hẻm. Ly cà phê đá 6.000 đồng, mấy năm rồi giá không đổi. Giá đậu nành chưa lên thì cà phê đâu cần lên giá. Đằng nào cũng chẳng tìm đâu ra hương vị cà phê Sài Gòn xưa, thì cà phê ở đâu cũng thế thôi.
Tôi vào quán cà phê vỉa hè đó chỉ để nghe nhạc sến, chẳng phải đến từ dàn Onkyo loa Bose, mà từ cái máy cassette nhỏ xíu rù rì trong hẻm. Ngồi cả giờ đồng hồ, đến khi rời quán mà ly cà phê vẫn còn quá nửa, đá tan loãng hết rồi.
Dĩ vãng vay mượn cà phê, để cái vẻ bụi bặm của quán, và nhạc sến đưa tôi về ký ức. Tiếng đại bác không còn ru đêm nữa, nó dội ngược vào lòng. Nhiều bản nhạc từ hồi xửa hồi xưa, giờ nghe lại, rồi lẩm nhẩm hát theo mà chạnh lòng,
Tiếng còi đêm lướt mau,
Đoàn tàu đi về mãi, mà bạn thân tôi nơi đâu…
Thấy tiếc và nhớ. Nhớ ngẩn người!
Vũ Thế Thành
__________________
The Following 4 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
Bạn GIBBS, thành thật cám ơn bạn với những bài nói về quân nhân trong quân lực VNCH. Cũng là 1 cựu quân nhân trong quân lực VNCH tôi có thễ hãnh diện đứng dưới trời mưa mà tuyên bố rằng tôi đã anh dũng chiến đấu và 1 lòng vì tổ quốc VN, nhưng thời thế và vị trí của VN lúc đó không cho phép chúng tôi thể hiện hết tâm huyết của chúng tôi. Nhìn cảnh các anh chị em trong 1 đồng phục áo dài đen và trắng tôi cảm thấy rất vui. Vui vì họ cho nước Mỹ biết rằng chúng tôi không đội trời chung với với lũ súc vật Cộng Sản cầm đầu bởi thằng chó đẻ Hồ Chí Minh. Vui vì họ đang châm lửa cho thế hệ sau, cùng đứng lên để chống đối bọn Cộng Sản vô thần.
Một lần nữa cám ơn bạn đã post những bài viết rất hữu ích.
The Following User Says Thank You to ngoclan2435 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.