Với mức nợ công khổng lồ, chính phủ Nhật Bản đang đối mặt với nhiều mối lo ngại về vấn đề ngân sách và áp lực lớn từ phía người dân.
Trong nhiều thập kỷ qua, Nhật Bản là h́nh mẫu của một nền kinh tế sử dụng chính sách tài khoá mở rộng dựa trên nợ công để duy tŕ tăng trưởng, ổn định xă hội và ứng phó với các khủng hoảng. Nhưng hiện tại, quốc gia có tỷ lệ nợ công cao nhất trong nhóm các nền kinh tế phát triển này đang tiến gần đến “điểm giới hạn” mà chính phủ và thị trường có thể chấp nhận.
Với khối nợ công khổng lồ gần 9.000 tỷ USD - tương đương hơn 260% GDP, Nhật Bản đă duy tŕ chi tiêu bằng cách tận dụng lợi thế từ chính sách lăi suất âm kéo dài trong nhiều năm.
Từ các chương tŕnh trợ cấp cho nông dân, đầu tư vào hạ tầng nông thôn, đến gói trợ cấp đợt Covid-19 và các khoản chi mới cho quốc pḥng, chính phủ Nhật không ngần ngại tăng chi tiêu để duy tŕ sự ổn định.
Tuy nhiên, sự thay đổi về chính sách của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) khi dần kết thúc thời kỳ lăi suất âm và thu hẹp quy mô chương tŕnh mua trái phiếu đă khiến lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn dài tăng mạnh, phản ánh lo ngại từ giới đầu tư về khả năng chi trả của Tokyo. Phiên đấu giá trái phiếu 40 năm gần đây ghi nhận nhu cầu thấp, cho thấy tâm lư lo ngại của thị trường.
Thủ tướng Shigeru Ishiba đă cảnh báo về “nỗi sợ của lăi suất tăng” và so sánh t́nh trạng ngân sách của Nhật với Hy Lạp - quốc gia từng rơi vào khủng hoảng nợ năm 2009.
Trong bối cảnh Nhật Bản chuẩn bị cho cuộc bầu cử Thượng viện vào tháng 7, chính quyền ông Ishiba đối mặt với áp lực lớn từ cả cử tri và các nhóm lợi ích. Các doanh nghiệp nhỏ bị ảnh hưởng bởi thuế quan của Mỹ đang yêu cầu trợ cấp, trong khi các hộ gia đ́nh chịu sức ép từ lạm phát kêu gọi giảm thuế tiêu dùng - vốn đă tăng từ năm 2019.
Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền, trong suốt 70 năm qua, đă duy tŕ quyền lực một phần nhờ sử dụng chi tiêu công. Hệ thống trợ cấp phân bố đồng đều giữa các vùng, từ xây dựng đường xá, trường học, đến hỗ trợ ngành nông nghiệp địa phương, là một phần trong chiến lược duy tŕ sự đồng thuận của cử tri.
Tuy nhiên, tầng lớp lao động phi chính quy tại khu vực đô thị thể hiện quan điểm không đồng t́nh khi họ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi lạm phát và thuế tiêu dùng. Việc này đă châm ng̣i cho những làn sóng phản đối hiếm gặp ở Nhật Bản. Hàng ngh́n người đă biểu t́nh ở trụ sở Bộ Tài chính Nhật Bản, yêu cầu giới chức xóa bỏ thuế tiêu dùng và giải tán cơ này.
Thủ tướng Ishiba phản đối việc cắt giảm thuế tiêu dùng, cho rằng điều đó sẽ gây áp lực lên chi tiêu tài khoá. Tuy nhiên, ông đang vấp phải thách thức từ phe cánh hữu trong chính đảng của ḿnh. Bà Sanae Takaichi, người từng suưt giành chiến thắng trong cuộc đua lănh đạo đảng năm 2024, đề xuất rằng chính phủ cần chủ động đưa ra chính sách giảm thuế nếu muốn duy tŕ sự ủng hộ của cử tri.
Trong bối cảnh này, lời cảnh báo từ ông Koji Yano, cựu Thứ trưởng Bộ Tài chính, càng làm dấy lên lo ngại. Năm 2021, ông từng gây tranh căi khi ví chính sách chi tiêu của chính phủ là “con tàu lao vào tảng băng.” Giờ đây, ông cảnh báo, nếu Nhật Bản không kiểm soát được nợ công, thị trường sẽ phản ứng tiêu cực, lăi suất sẽ tăng vọt và có thể bị hạ xếp hạng tín nhiệm.
Theo chuyên gia Leif Eskesen từ tập đoàn CLSA, một cuộc khủng hoảng giống như Hy Lạp hiện không có khả năng xảy ra ở Nhật Bản, do phần lớn nợ công được nắm giữ trong nước. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thấp, chi phí lương hưu và y tế tăng nhanh do dân số già hóa, cộng với lăi suất tăng đang khiến chi phí trả nợ ngày càng nặng nề.
Việc tiếp tục tŕ hoăn cắt giảm chi tiêu hoặc cải cách thuế sẽ khiến gánh nặng ngân sách ngày một lớn hơn. Nếu không có thay đổi quyết liệt, Nhật Bản có thể đối mặt với t́nh huống buộc phải cắt giảm phúc lợi hoặc tăng thuế trong tương lai gần - những biện pháp vốn không được ḷng người dân và dễ gây ra bất ổn chính trị.
VietBF@ Sưu tập
|