HOME-Au
HOME-Au
24h
24h
USA
USA
GOP
GOP
Phim Bộ
Phim Bộ
Phim-Online
Phim On
Videoauto
VIDEO-Au
Donation
Donation
News Book
News Book
News 50
News 50
worldautoscroll
WORLD-Au
Breaking
Breaking
 

Go Back   VietBF > Breaking News | Tin Nóng > Breaking News | Tin Sốt


Reply
 
Thread Tools
  #1  
Old  vnchcir Ăn Cơm Hải Ngoại nhưng lại Thờ Ma Cộng Sản
Tôi rất ghét những người ăn cơm Mỹ, ở nhà Mỹ, kiếm tiền từ người Mỹ, nhưng luôn chê trách cuộc sống, và đất nước Mỹ. Những người chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, không bao giờ thành công và hài lòng với những gì họ đạt được... Nếu thật sự ở Việt Nam tốt hơn trong mắt họ, thì họ nên về đó mà sống, sang Mỹ làm gì !...

Gần đây tôi có đọc được một vài bài viết, nói về cuộc sống của người Việt trên đất nước Mỹ, khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Ở bất kỳ đất nước nào trên thế giới, con người cũng đều phải đi làm, để lo cho cuộc sống của mình. Những người lười biếng, thì cuộc đời của họ sẽ dậm chân tại chỗ !
Giầu và nghèo, thì không có nước nào mà không có hai tầng lớp này, bởi vì chẳng nơi nào chỉ có toàn người giầu, và chẳng nơi nào chỉ có toàn người nghèo cả.
Tôi đã theo cha mẹ qua Mỹ khi lên 10 tuổi, và bây giờ chỉ còn hai năm nữa, thì tôi được 30. Như vậy có nghĩa là, tôi đã sống ở Mỹ một thời gian khá dài. Phải nói rằng trong lòng tôi luôn cám ơn đất nước Mỹ, đã cho tôi cơ hội đến trường, mà không phải lo sợ không có tiền để đóng cho họ; cám ơn Mỹ, đã cho tôi cơ hội để cầm mảnh bằng kỹ sư trong tay, và cám ơn Mỹ, đã cho tôi cơ hội kiếm được một công việc làm khá tốt
Tất cả những điều có được ngày hôm nay, là do sự cố gắng vươn lên của tôi. Muốn bước tới sự vinh quang, không phải là ngồi một chỗ, than thở hoặc lười biếng, mà có được.



Rất nhiều người Việt vượt biên qua Mỹ trước kia đã thành công, có nhà cửa, và có tương lai sự nghiệp vững chắc. Cha mẹ tôi khi đặt chân qua Mỹ cách đây 18 năm, cũng đã phải làm lại từ đầu. Ông bà không quản ngại làm việc siêng năng, để lo cho anh em tôi học nên người, nhưng không bao giờ than van rằng, đất nước Mỹ bắt họ phải làm việc, đầu tắt mặt tối.
Đất nước Mỹ không hề mang chúng ta sang đây, mà chính chúng ta tự đòi sang, vì thế nếu làm việc cực khổ, thì đừng bao giờ phiền trách họ, vì như thế là mình quá vô lý.
Nhiều người Việt khi mới đặt chân qua Mỹ, sau những ngày vượt biên nguy hiểm đầy gian nan, đã được chính phủ Mỹ nuôi dưỡng trong một chương trình trợ cấp, còn được gọi là welfare, vì có con nhỏ cho tới khi 18 tuổi, ngoại trừ độc thân thì chỉ được 24 tháng. Như vậy, đủ biết xã hội Mỹ đã tốt đến thế nào đối với chúng ta.
Người Việt ở Mỹ cũng có hai tầng lớp: một loại trí thức có văn bằng cầm trong tay, và một loại người không có mảnh bằng nào cả. Người có bằng cấp sẽ kiếm được công ăn việc làm tốt hơn, còn người không có bằng cấp thì phải làm nghề lao động. Dĩ nhiên lương sẽ không được trả cao.



Ở Mỹ, tôi đã nhìn thấy rất nhiều người cùng thế hệ với tôi, trở thành bác sĩ, kỹ sư, giúp ích cho đời sống mọi người. Đa số những người qua Mỹ sau này, muốn làm giầu nhanh, nhưng không chịu học hành.
Cũng có nhiều người Việt ở Mỹ, từng làm giầu bằng nghề Nail. Tôi không quen biết ai trong ngành này, nhưng theo những nhận xét từ người lớn cho biết, họ kiếm tiền rất dễ dàng. Chính họ tự chọn làm nghề chà chân, sơn móng tay để kiếm tiền, chứ chính phủ Mỹ hay người Mỹ, không hề bắt họ làm như vậy. Nghề này ngồi trong bóng mát, và không quá khổ cực như những người phải làm việc ở ngoài đồng nhặt trái cây, giống như người Mễ, hoặc công nhân sửa đường phố, nên xin đừng than thở ! Mỗi lần tôi nghe ai than làm nghề nail thế này thế nọ, thì tôi không thể hiểu họ thực sự muốn gì !
Đôi khi, họ kiếm nhiều tiền hơn cả những người đã phải bỏ công ra ngồi học 4 năm trong đại học. Những người đi làm cho công ty Mỹ, luôn đóng thuế đàng hoàng, nhưng họ lại không.



Tôi rất ghét những người ăn cơm Mỹ, ở nhà Mỹ, kiếm tiền từ người Mỹ, nhưng luôn chê trách cuộc sống, và đất nước Mỹ. Những người chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, không bao giờ thành công và hài lòng với những gì họ đạt được... Nếu thật sự ở Việt Nam tốt hơn trong mắt họ, thì họ nên về đó mà sống, sang Mỹ làm gì !...
Căn cứ theo báo cáo, cũng như từng đọc báo chí, thì tôi thấy cuộc sống ở VN, khó khăn gấp nhiều lần bên Mỹ. Thử hỏi một kỹ sư hóa học ra trường, kiếm được bao nhiêu tiền một tháng? Ngay cả tầng lớp trí thức như giáo sư, người đã cho sinh viên kiến thức, mà còn nghèo khổ đi làm thêm ban đêm, để có đủ tiền nuôi vợ con đó thôi.
Những người giầu bên VN, đa số là cán bộ cao cấp, con ông cháu cha, hoặc là những người buôn bán, ngoài ra số người nghèo, thì vẫn còn rất nhiều...
Chúng ta không thể nào so sánh cuộc sống của người Việt tại Mỹ, với cuộc sống của người Việt tại quê nhà được, vì đây là hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau. Ở Mỹ làm việc cực nhọc, nhưng không cảm thấy bị gò bó, muốn nói gì hay đi đâu cũng được.
Ngoài ra luật phát của Mỹ luôn được tôn trọng, nên ý thức của con người rất cao, còn ở Việt Nam thì luật pháp chẳng bao giờ được người ta thực hành triệt để, vì ý thức của người dân quá thấp kém !

Người Mỹ rất lịch sự, mặc dù có một số người kỳ thị, nhưng khi gặp gỡ mình ngoài đường, họ luôn nói lời chào hỏi, dù không hề quen, điều này khiến cho người Việt ở Mỹ, cũng lịch sự theo.
Người Việt ở Mỹ, rất có lòng tốt đối với thân nhân còn sống ở bên Việt Nam. Dù giầu hay nghèo, họ đều cố gắng gởi tiền về VN, lo cho gia đình. Thử hỏi đa số những người bên VN, có dám cho tiền thân nhân của mình hay không, khi biết họ nghèo khổ...? Giỏi lắm, thì chỉ được vài bữa ăn là cùng. Tranh giành nhau từng thước đất, hoặc gia tài, thì có rất nhiều !
Con cái ở bên Mỹ, không bao giờ chờ đợi được chia gia tài, từ cha mẹ. Họ tự tạo cho mình một cuộc sống vững chắc riêng.
Mỗi người có một cuộc sống, đi kèm theo sự thành công hay thất bại. Mỹ chưa phải là thiên đường, nhưng nó đã giúp cho người Việt ở đây có rất nhiều cơ hội, mà nếu ở VN thì chắc chắn họ sẽ không bao giờ có được, trừ khi họ có thân nhân làm trong guồng máy chính quyền.
Tôi không quên nguồn gốc mình là người Việt Nam, nhưng tôi cũng sẽ không làm kẻ vong ơn, ăn cơm, uống nước của Mỹ, nhưng luôn miệng chê bai Mỹ !
Tôi rất tự hào, khi được sống ở bên Mỹ.
Thuỵ Van Nguyen
VIETBF Diễn Đàn Hay Nhất Của Người Việt Nam

HOT NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOME

Breaking News

VietOversea

World News

Business News

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

History

Thơ Ca

Sport News

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

Canada Tin Hay

USA Tin Hay

10.000 Tin mới nhất

Tin nóng nhất 24h qua

Super News

Tin tức Hoa Kỳ


Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Gibbs's Avatar
Release: 05-22-2025
Reputation: 589866


Profile:
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	VBF494527325_1080597777444579_3123462725224953439_n.jpg
Views:	0
Size:	190.3 KB
ID:	2527861   Click image for larger version

Name:	VBF494526105_1080595767444780_475517179572819289_n.jpg
Views:	0
Size:	210.5 KB
ID:	2527862   Click image for larger version

Name:	VBF494737335_1080595764111447_4414740972211810331_n.jpg
Views:	0
Size:	197.7 KB
ID:	2527863  

Click image for larger version

Name:	VBF494926158_1080598684111155_8380271828839311605_n.jpg
Views:	0
Size:	194.9 KB
ID:	2527864   Click image for larger version

Name:	VBF495138484_1080599227444434_5944823827391785858_n.jpg
Views:	0
Size:	190.4 KB
ID:	2527865  
Gibbs_is_offline
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
The Following 2 Users Say Thank You to Gibbs For This Useful Post:
abcde12345 (05-22-2025), ICEEXPRESS (05-23-2025)
Old 05-22-2025   #2
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Ngành Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) VNCH, sau nhiều lần được cải tổ, đã từ một lực lượng bán quân sự với 30.000 người, trở thành một lực lượng quân sự với một quân số là 130.000 người trong những ngày cuối cùng của thể chế VNCH.

Cho đến ngày nay, có lẽ trên thế giới không hề có một lực lượng Cảnh Sát nào mà người Cảnh Sát vừa là một quân nhân phải trực diện với địch quân trên chiến trường, vừa phải vất vả lo bảo vệ an ninh trật tự và duy trì luật pháp tại hậu phương.

Về mặt Quân Sự, Quân Lực VNCH có các Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt và Trường Sĩ Quan Thủ Đức đã cung cấp cho đất nước nhiều sĩ quan ưu tú thì ngành Cảnh Sát cũng có Học Viện CSQG tại Vũng Tàu và Thủ Đức để huấn luyện các sĩ quan cảnh sát văn võ kiêm toàn. Các khóa sinh không những tối thiểu phải có văn bằng Tú Tài toàn phần mà nhiều khóa sinh còn có cấp bằng Cử Nhân hay Cao Học.

Sau khi bọn cộng phỉ bắc việt xâm lăng và cưỡng chiếm Miền Nam VN ngày 30-4-1975, lực lượng CSQG VNCH cũng đã phải chịu chung số phận nghiệt ngã như các quân binh chủng khác của Quân Lực VNCH; trong đó có thể kể.
- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó Bùi Văn Nhu bị bọn cộng phỉ bắc việt hành hạ ngược đãi đến chết trong lao tù khổ sai.
- Viện Trưởng Học Viện CSQG, Đại Tá Đàm Trung Mộc, cũng bỏ thân trong trại tùlao động khổ sai của bọn cộng phỉ.
- Thời điểm 30/4/1975, nhiều Tướng Tá và Sĩ Quan cao cấp của VNCH đã tự sát. Lực Lượng CSQG cũng đã có Trung Tá Nguyễn Văn Long đã can đảm tự sát trước tượng đài Chiến Sĩ trước tòa nhà Quốc Hội VNCH ở Saigon và một số Sĩ Quan CSQG khác.
- Khi những trại tù khổ sai dã man tàn ác của bọn cộng phỉ bắc việt được dựng lên tại những vùng rừng thiêng nước độc để trả thù, đầy đọa giết dần, giết mòn các Quân Cán Chính của VNCH thì trong danh sách những nạn nhân bỏ mạng oan khiên trong lao tù khổ sai cũng như bị giam cầm lâu nhất và đau đớn nhất cũng có các Chiến Sĩ CSQG.

=====

Như bao nhiêu người thanh niên yêu nước khác, anh Lê Văn Thời bị bọn cộng phỉ lợi dụng, đã tham gia phong trào Việt Minh. Năm 1954, anh được chỉ định ở lại Miền Nam nằm vùng để hoạt động hợp pháp bằng cách núp bóng trong chính quyền VNCH tại quận Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre (sau này đổi là Kiến Tường).

Suốt thời gian hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh, anh đã cảm nhận được sự tàn bạo, dối trá, xảo quyệt và phi nhân của bọn chúng. Anh đau xót khi thấy bọn cộng sản Việt Nam thực chất chỉ là những tên lính đánh thuê, tay sai của bọn quan thầy Tàu-Nga, bọn chúng sẵn sàng vâng lệnh ngoại bang thanh toán tất cả những ai muốn xây dựng, hoặc muốn tranh đấu cho đất nước Việt Nam thật sự tự do, dân chủ, ấm no và hạnh phúc.

Từ nhận thức đó, anh quyết định trở về cộng tác với Chính Quyền Quốc Gia, từ thời Đệ Nhất Cộng Hoà.

Nhiệm vụ đầu tiên cuả anh là làm đầu cầu ngầm yểm trơ, bảo vệ những nhân viên tình báo của ta vào hoạt động trong vùng bọn cộng phỉ kiểm soát. Anh đã lập nhiều chiến công và gâyrất nhiều tổn thất nặng nề cho bọn cộng phỉ.

Được cấp trên đề nghị thay đổi vùng hoạt động để bảo đảm an toàn cho anh, nhưng anh thối thoát, vì anh thông thuộc điạ hình, điạ vật, cũng như quy luật hoạt động cuả chúng ở đây.

Khi tình hình quân sự trở nên ác liệt hơn, khi các cơ sở nằm vùng địa phương của bọn khủng bố cộng phỉ bị Chính Quyền Quốc Gia thanh toán gần như sạch sẽ, gần như tê liệt toàn bộ, anh đã được chấp thuận cho công khai hoạt động, và được gia nhập Cảnh Sát Quốc Gia VNCH.

Sau khi đã được huấn luyện tại trường Tình Báo, từ sơ dến trung cấp, anh được đưa trở lại điạ phương để hoạt động. Cũng trong thời gian này, bọn cộng phỉ địa phương tìm mọi cách để ám sát anh, kể cả treo tiền thưởng cho những ai chỉ điểm để bắt hoặc giết anh. Chúng còn cho một toán ám sát vào nghiên cứu và tìm cách thủ tiêu anh cho kỳ được.

Một hôm, một toán nghiên cứu của bọn khủng bố cộng phỉ hỏi dò la về thông tin của anh với mấy người chăn trâu ngoài đồng. Khi chúng chưa hỏi được hết thông tin thì đã bị anh, và một số nhân viên khác (nguỵ trang làm những người chăn trâu) tóm gọn. Đó là một trong những việc tiêu biểu mà anh đã ứng phó với bọn khủng bố cộng phỉ điạ phương.

Khi đã trở thành một cán bộ Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) VNCH, anh đã tổ chức rất thành công những công tác tình báo trong lòng địch để tìm hiểu hoạt động, cũng như khám phá những cơ sở nằm vùng của bọn khủng bố cộng phỉ.

Đến đây, không thể không nhắc tới thời Phạm Ngọc Thảo lúc còn làm tỉnh trưởng Kiến Hoà, anh đã vào họp với bọn tỉnh ủy cộng phỉ. Cuộc họp này đã được ghi âm và đưa vể Tổng Nha CSQG quyết định lên kế hoạch tiêu diệt bọn chúng.

***

Khi biến cố đau thương tang tóc xảy đến cho Miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, cũng như số phận bao nhiêu Quân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa, anh Thời bị bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc bắt được khi đang ở trong Bộ Chỉ Huy CSQG, và bị bọn chúng đưa về giam tại Khám Lá, cuả tỉnh Bến Tre.

Khi vào nhà tù của bọn giặc cướp cộng phỉ xâm lược, anh thừa biết số phận cuả anh cũng như bao đồng đội khác, như cá nằm trên thớt khi đã sa vào tay bọn giặc cướp. Còn anh, anh biết chắc chắn bọn phỉ quân, vốn dĩ bản chất tiểu nhân đê tiện, ác độc và hèn hạ, sẽ dành cho anh nhiều “ưu tiên” hơn vì những hận thù năm nào.

Vì lẽ đó, anh đã âm thầm tổ chức một cuộc vượt ngục. Toán vượt ngục đã giết được tên trại trưởng, cùng mấy tên cán bộ cộng phỉ ác ôn khác. Sau khi anh cùng một số đồng bạn đã trốn khỏi, bọn cán bộ trại mới truy tìm một cách vô ích.

Suốt cả tháng sau đó, bọn phỉ quân cộng sản cho phục kích tại xã quê cuả anh, nhưng không thấy động tịnh gì. Khi định rút lui thì bọn chúng phát giác vài vết chân mới xuất hiện trong khu vực. Anh bị bắt ngay tại hầm trú ẩn khi nhoi lên khỏi hầm trú ẩn.

Bọn cộng phỉ hèn hạ đã trút hết đòn căm thù lên tấm thân gầy gò vì thiếu ăn, thiếu ngủ cuả anh. Sau đó, bọn chúng đã mang anh về tỉnh, và thông báo cho người dân trong vùng biết việc anh đã bị bắt, cũng như sẽ đem anh ra xét xử sớm nhất.

Sở dĩ bọn chúng làm như vậy vì việc anh trốn trại và giết cán bộ trại đã làm chấn động dư luận đồng bào trong tỉnh lúc bấy giờ, và cũng vì người dân ở Bến Tre đã biết danh tánh, thành tích diệt cộng của anh từ trước 4/ 1975.

Nghe tin anh trốn thoát được, mọi người đều nghe ngóng và thầm cầu mong cho anh được bình yên vàan toàn. Sau đó, họ đã hoàn toàn thất vọng khi biết anh sắp bị bọn cộng phỉ ác ôn đem ra xét xử tại toà án tỉnh, theo lệnh của tên Ba Đào, một tên khủng bố cộng phỉ man rợ và khát máu đã từng may mắn thoát chết khỏi bàn tay anh trong thời chiến tranh trước năm 1975.

Sáng sớm trước khi đưa anh ra toà án, chúng đã nhét trái chanh vào miệng anh để không cho anh chửi bới, hoặc hô “VNCH muôn năm” hoặc đả đảo bọn chúng. Bọn thổ phỉ cộng sản mọi rợ đê tiện và hèn hạ đã quyết định án tử hình mà không cần hỏi ý kiến ai, và xử bắn anh ngay trong buổi sáng hôm đó.

Hèn hạ, ác ôn, man rợ và vô nhân tính hơn, bọn chúng còn cho xe kéo lê xác anh chạy vòng vòng thị xã, để trả thù anh cũng như muốn để dằn mặt những ai còn muốn chống đối lại bọn chúng.

Anh Thời đã hy sinh nhưng cũng để lại trong lòng đồng bào tỉnh Bến Tre sự xót thương vô hạn. Họ thương anh vì lòng tận tụy, nhiệt thành phục vụ Tổ Quốc. Họ xót xa cho số phận không may, nghiệt ngã mà anh phải gánh chiụ dưới bàn tay khát máu, tàn bạo cuả bọn cộng phỉ hèn hạ, tàn ác và vô nhân.

Giờ đây, sự xót thương thuở nào, đã thành sự kính phục dành cho một Chiến Sĩ Quốc Gia đã “tận trung báo đền Tổ Quốc”.
__________________

Last edited by Gibbs; 05-22-2025 at 02:47.
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
ICEEXPRESS (05-23-2025)
Old 05-22-2025   #3
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

... Chúng tôi không hiểu người dân Thủ Đô Sài Gòn quan niệm thế nào về các hoạt động khủng bố giết người của bọn cộng sản bắc việt ? Những vụ giật mìn khủng bố phá hoại, tiếng súng ở đầu xa lộ, phía bót quận Tám, tất cả những điều đó đã cho người dân Thủ Đô Sài Gòn có những ý niệm đủ về chiến tranh hay chưa ?

Hai tiếng nổ làm xập nhà ở đường Nguyễn Cư Trinh, người chết ở Toà Đại Sứ Mỹ cũng chỉ đủ gây một thắc mắc nhỏ: Bọn khủng bố cộng phỉ làm thế nào để đặt được chất nổ ? Tai ương chiến tranh đặt ngang với một phim trinh thám loại OSS.

Người dân ở Sài Gòn có bao giờ biết hoạt động khủng bố phá hoại của lũ cộng phỉ là kết quả của một công trình nội ngoai tiếp tay phối hợp với nhau thật tỉ mỉ và chính xác. Người dân ở thủ đô có bao giờ biết mỗi lần biểu tình và xuống đường là lựu đạn và chất nổ lại được bọn khủng bố cộng phỉ đưa vào thủ đô nhiều hơn,

Bọn khủng bố cộng phỉ xích gần về phía Nhà Bè, xa lộ, phi trường Tân Sơn Nhứt thêm một chút nữa... một vụ tự thiêu, họp báo là bọn khủng bố du kích đặc công có dịp có mặt tại Sài Gòn với chất nổ đã được gắn ngòi để giết hại người dân Miền Nam.

Chung quanh thủ đô có trung đoàn 165A gồm những đơn vị đặc công khủng bố, chuyên cận chiến trong thành phố. Tiểu đoàn 6 của trung đoàn này xuất phát từ mật khu Lý Văn Mạnh hoạt động từ Bà Hom Bà Quẹo (một phần lớn của tiểu đoàn khủng bố này đã bị Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù QLVNCH đánh tan tác đầu năm 1967 tại ấp Vĩnh Hạnh)

Tiểu đoàn này đưa một đại đội vào sát vùng của chúng tôi để điều nghiên, thám sát, phối hợp với 3 trung đội du kích ở các xã Bình Trị Đông, Phú Lâm, Phú Thọ Hoà .

Bọn du kích khủng bố ở đâu ? Chính là những người ở những vùng này đã trốn ra bưng học tập trở về sống như những người thường, lớp du kích khủng bố này cung cấp tin tức và khả năng của các đơn vị giữ cửa thủ đô, dẫn đường cho các lực lượng lớn tấn công vào Sài Gòn, cầm chân cho các đơn vị này rút đi .

Những vụ pháo kích bừa bãi vào phi trường Tân Sơn Nhứt là kết quả phối hợp của du kích và chính quy vùng này. Để đối phó, ta có những đơn vị chủ lực và Địa Phương Quân, những đơn vị tổng trừ bị trấn đóng, lục soát tảo thanh chung quanh ven đô . Nhưng hoạt động chính để bảo vệ thủ đô nằm trên vai của nhữmng người lính không đồng phục, không qui chế, không quân số ...

Những người lính từ lũy tre, sinh và sống trên đồng ruộng, những người lính Nghĩa Quân, kẻ nhận diện được mỗi du kích, biết tên Thảo chỉ huy du kích vùng Vĩnh Lộc con ai ? Lấy ai ? Trốn ở đâu ?

Người đối đầu với lũ khủng bố cộng phỉ chính là những người lính, ngày gối đầu trên đôi dép nhật ngủ dưới hàng cây bên đường làng, đêm họ tập họp lại thành tiểu đội, trung đội nếu cần, và đấy là nông thôn vùng lên, dành giựt lấy quyền sống, làm người tự do không cần tuyên ngôn, không hội thảo, xuống đường ...

Tôi biết anh từ năm 1964, lúc Sài Gòn hỗn loạn hơn bao giờ hết giữa 2 phe tôn giáo. Việt cộng ngưng hẳn hoạt động lớn, dồn lực định đánh về thủ đô, phi trường TSN bị pháo kích thường xuyên . Áp lực địch đè nặng trên vùng này, anh theo chúng tôi để chỉ dẫn từng địa thế, nhận diện những người tình nghi .

- Đằng sau cái nhà vuông có con đường, tụi nó hay gài mìn, thiếu uý coi chừng !
- Trong bản đồ tôi không thấy gì cả ?
- Đường xe bò đi, bản đồ đâu có ghi! Nhà bà già sát bên quán nước trong ấp Vĩnh Hạnh có đứa con thoát ly !
- Nó đi lâu chưa ?
- Đâu khoảng tháng tư năm ngoái, nó tên Long, có con chị thoát ly về rồi, về hôm tháng sáu .

Đại khái như thế anh cho tôi biết từng chi tiết quí giá mà không một cơ quan tình báo nào có thể cung cấp. Năm 64, 65, 66... đơn vị tôi thay đổi từng vùng chiến thuật, bị thương, bị chết, mất tích .Những người lính dưới quyền tôi thay đổi hết, nhiều lính mới về, những khuôn mặt quá trẻ so với vẻ già nua và tàn ác của chiến tranh.

Đơn vị tôi gặp đại nạn, dưỡng thương, làm việc nhẹ, nay tiếp tục đo chân trên chiều dài quê hương. Bây giờ tôi ở đơn vị mới trở lại vùng này gặp lại anh Ba, anh nhận ra tôi trước .

- Thiếu uý ...A ! Trung uý có nhớ tôi không ? Tôi tưởng trung uý chết ở trận Đồng Xoài rồi chứ ?
- Không chết, chỉ bị thương thôi
- Mấy người lúc trước đi theo trung úy đâu ? Cái anh Tây lai người nho nhỏ ấy ?

"Anh Tây lai nhỏ" - Tôi kêu một tiếng trong lòng, Thái, thằng nhỏ theo tôi trong suốt thời gian dài, ích kỷ, nông nối và trẻ con, thằng bé thường thủ thỉ với tôi những câu chuyện vu vơ sau những tối đã đóng quân xong ...Bỏ quê hương miền Bắc vào Nam đi lính, thích đội nón đỏ mặc đồ saut, khi chết xác không được xác định .

- Mấy người theo tôi chết hết cả rồi, bây giờ tôi đang ở tiếu đòan mới. Còn anh bây giờ có gì khác không ?
- Cám ơn trung úy, bây giờ tôi được lên trung đội trưởng .

Anh Ba bao giờ cũng vậy, sự cực khổ đến một lúc nào đấy không thể ảnh hưởng thêm được trên con người anh, mặt anh kjhông thể đen hơn, người không thể gầy hơn.
- Anh Heo bây giờ như thế nào? (Heo là người Nghĩa Quân từng hạ hàng chục tên khủng bố Việt cộng bằng súng cá nhân, gã lì lợm có thể uống đến một xị đế)
- Heo nó bị thương một lần, trung uý không biết đâu, khoảng tháng 8 năm ngoái, cũng chiều chiều như thế này, tụi thằng Heo vừa đến ấp Vĩnh Tín thì bị đụng . Ông quận đem quân lên thì bị đánh dội ra ...Tụi thằng Heo có bảy thằng chết ba, bốn thằng bị thương cầm cự cho đến 4 giờ sáng !
- Anh có bị lần nào như thế không ?
- Có lai rai một lần ở Vĩnh Phước ...Anh bình thản nhắc lại đoạn thời gian và trận đánh.

Vẫn là muôn ngàn trận đánh điển hình giữa nông dân và du kích, giữ từng tấc đất, từng bờ ruộng, không phi pháo yểm trợ ...Chỉ có lòng yêu thôn xóm, một ý thức về bổn phận kèm thêm can đảm của con người .

Đã bao lâu nay, bọn cộng sản bắc việt gian manh quỷ quyệt đã tối tăm hoá, hèn hạ hoá, ngu ngốc khêu gợi những bản năng căm thù, mặc cảm giai cấp và giòng giống để kéo dài chiến tranh khủng bố giết hại người dân Miền Nam Việt Nam ...

Nhưng người Việt Nam ở Miền Nam vẫn không bị nung đỏ bởi hận thù, họ vẫn tiếp tục chiến đấu để làm sáng mắt bọn giặc cướp cộng sản bắc việt mù tối, gian manh, và tàn ác. Tôi chưa thấy trong lời nói của anh có dấu vết thù hận ... chỉ có kiên nhẫn và chịu đựng !

Tôi bắt tay anh hẹn ngày mai gặp lại, anh ngồi lại vệ đường nhìn ra vùng ruộng . Có mơ ước gì không ? Người trung đội trưởng Nghĩa Quân, một tháng một ngàn bốn trăm đồng bạc, một bao gạo hai thùng dầu ăn ... Anh có cái gì để đãi ngộ xứng đáng? Trên đầu chiếc phản lực bay vút đi như cánh chim, anh có so sánh và tị hiềm, nào không?

Tôi chắc anh không biết thế nào là chủ nghĩa cộng sản, nhưng anh biết chắc được một điều, ngày nào vẫn còn bọn khủng bố việt cộng dã man tàn ác về ấp ăn cướp, thu thuế, hãm hiếp, giết người, phát loa tuyên truyền dối trá, nhảm nhí, lố bịch: "đồng chí chủ tịch Mao Trạch Đông, đồng chí chủ tịch Hồ Chí Minh ...đã nói : chúng ta phải quét Mỹ xâm lược ra khỏi thôn ấp ..." ... thì anh vẫn còn phải chiến đấu vì anh biết thằng Thảo, tên đội trưởng du kích khủng bố đang ở vùng Xuân Thới Thượng đã cắt cổ 3 ông trưởng ấp một cách dã man - Anh chiến đấu vì điều này làm anh phẫn nộ !

Thủ đô nhảy múa, hò hét, chuyến động ồn ào sau lưng anh, họ nhân danh người lính, họ nhân danh tổ quốc. Mặc kệ ! Anh sống xây lưng về nó - Sài Gòn, thủ đô bạo động và - Thành phố đè lên vai anh. (Phan Nhật Nam/ tháng 4, 1966/ Bà Điểm)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
ICEEXPRESS (05-23-2025)
Old 05-22-2025   #4
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Lần đầu tiên ra nhận đơn vị, đứng trước hàng quân, tôi hơi ngỡ ngàng. Trước mặt tôi là Trung Đội 1, Đại Đội 1, Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, chủ lực Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Kiến Hòa, tập hợp ở một góc sân cờ ở trại gia binh, hậu cứ Tiểu Đoàn. Trừ những người nghỉ bệnh, bị thương, đi phép, trễ phép, nằm quân lao, còn lại tất cả 16 người lính tuổi từ mười tám tới ngoài năm mươi và hai Hạ Sĩ Quan. Ai nấy mắt hơi lạc thần vì mệt mỏi, thân thể hầu hết gầy gò, quần áo rách rưới, tóc tai bờm xờm, có người râu dài lưa thưa, có người mặt mày dớn dác như sợ hãi, có người lầm lì dữ tợn.

Tôi đứng trước họ, có cảm tưởng đứng trước những "anh hùng" Lương Sơn Bạc, vừa hơi e dè, vừa hơi ngại ngùng và vừa hơi thất vọng. Họ cũng hơi thất vọng và phân vân. Sự phân vân trước một cấp chỉ huy trực tiếp mới ra trường, không một chút kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy và tác chiến. May mà năm đó tôi đã 22 tuổi tây, "già" hơn vài tuổi so với phần lớn các chuẩn úy mới ra trường. Trừ đầu tóc hớt ngắn và bộ quân phục còn khá mới với dấu alpha ở bâu và dấu hiệu "Cư An Tư Nguy" của Trường Bộ Binh Thủ Đức bên vaị. Mặt mày tôi cũng có vẻ phong sương chút chút nhờ nắng gió quân trường.

Một cách vắn tắt, tôi giới thiệu vài điều về tôi: gốc thầy giáo, tình nguyện nhập ngũ, tuổi tác, vợ con. Tôi yêu cầu họ lần lượt xưng tên, và tôi bắt tay từng ngườị. Tay họ phần lớn chai sạn và khô như củị. Có người nắm chặt tay tôi như sắp sửa đấu vật, có người đưa tay cho tôi nắm. Mắt họ nhìn vào khoảng không hay nhìn xuống đất. Có người cười cười, nụ cười lợt lạt, có người mím chặt môi như bị tra tấn.

Tôi nói với họ vài điều sơ sài về tình hình đất nước, Hiệp Định Đình Chiến Paris đã ký, về ngưng bắn tại chỗ, ngưng bắn da beo, về việc bọn cộng sản Bắc Việt (CSBV) và lũ tay sai bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) vi phạm lệnh ngưng bắn hàng ngày, luôn luôn giành dân lấn đất để mong chiếm ưu thế nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị...

Gió chiều hiu hắt thổi, tôi thấy những chiến hữu của tôi lim dim chống lại cơn buồn ngủ. Tôi biết họ không quan tâm những điều tôi nóị. Là quân nhân, họ chờ lệnh, tuân lệnh và thi hành lệnh. Đối tượng của họ là bọn cộng phỉ. Đời họ là sự tiếp nối của những cuộc hành quân càn quét, truy kích, đột kích, giải vây, tiếp tế đồn bót, giữ cầu, giữ đường. Họ không cần biết những chuyện cao xa hơn lệnh lạc trực tiếp: tập hợp, tan hàng, cấm trại hay xả trại, nếu xả trại thì được đi bao lâu, một ngày hai ngày, nếu cấm trại thì có thể chui rào trốn ra trong mấy giờ?

Tôi không phải là sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị, tôi là sĩ quan tác chiến, tôi không nên bắt họ nghe chuyện chính trị, mà nên cho họ tan hàng, nghỉ ngơi hay vui chơi trong khi chờ lệnh hành quân. Tôi hiểụ Tôi vắn tắt hơn, yêu cầu họ thực lòng hợp tác với tôi trong những ngày sắp tới, hãy coi tôi như anh em, giúp đỡ lẫn nhaụ.

Tôi nhắc họ giữ đúng quân kỷ, thi hành lệnh một cách đầy đủ và nghiêm chỉnh. Tôi tiết lộ cho họ biết tôi từng là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Kỷ Luật Đại Đội ở quân trường, tôi từng... hét ra lửa và họ có thể kiểm chứng điều này với mấy ông chuẩn úy học cùng đại đội với tôi ở quân trường và nay cùng về đơn vị với tôị. Vài phút sau khi tan hàng, một ông lính tới bá vai tôi, cười cười:

Tôi thấy ông hiền quá, đúng là thầy giáo, chắc ông không chỉ huy được đâu!

Đó là những giây phút đầu của tôi ở một đơn vị Địa Phương Quân.

Sự thất vọng của tôi qua mau khi tôi sống với họ qua một vài ngày ngoài chiến trường. Sự già dặn của họ về kinh nghiệm chiến đấu, sự gan dạ của họ khi đối diện với địch quân và nhất là sự chịu đựng của họ trước nghịch cảnh khiến tôi cảm thấy nhỏ bé và non dại trước họ hơn bao giờ hết. Mặc cảm này cũng phôi pha nhanh trong tôi, một phần nhờ sự độ lượng và tinh thần đồng đội của họ.

Họ sung sướng chỉ cho tôi cách chạy qua một cái cầu khỉ cong queo, không tay vịn, gập ghềnh có khi dài mười mấy thước và ghê gớm hơn hết là nhớp nháp bùn sình, trơn như thoa mỡ. Họ nhắc cho tôi khi nào phải bắt đầu nấu nước sôi ngâm bọc gạo sấy để nó kịp nở trước khi ăn.

Thấy tôi lóng cóng nhóm lửa theo kiểu hướng đạo sinh, họ mỉm cười sẻ cho tôi một ít nước sôị Thấy tôi ăn cơm với muối vừng, họ mời tôi những thức tươi nóng mà họ tìm được đâu đó trong lúc di chuyển. Họ chỉ cho tôi những dấu vết tình nghi của mìn bẫy, trái nổ Việt Cộng (VC) cài khắp nơi trong vườn tược, chỗ lên mương xuống mương, bếp núc, cầu đường. Tôi đã học kỹ điều này trong quân trường, nhưng thực tế ngoài chiến trường còn phong phú và phức tạp gấp trăm lần.

Họ bày cho tôi cách căng võng sao cho khỏi sương mưa, tránh bớt đường đạn bắn sẻ, tránh tầm lựu đạn. Họ dạy cho tôi khi ngủ súng ống, dây mang đạn để đâu; khi ngủ lúc nào thì phải bỏ võng nhảy xuống hố cá nhân sũng nước, khi nào thì cứ tỉnh bơ dù nghe tiếng "đề pa" của súng cối việt cộng. Họ bày cho tôi cách giữ súng cho khỏi hóc, khỏi ướt khi qua sông, qua suốị. Họ truyền kinh nghiệm tháo súng chùi súng cấp thời ngoài chiến trường, để khi cần, có thể ráp lại được trong vòng 15 giây.

Họ hướng dẫn cho tôi cả cách... đi đại tiện sao cho an toàn, tránh gây hôi thối chỗ đóng quân mà không phải đi xa ra ngoài vọng gác, vừa nguy hiểm vừa làm lộ vị trí đóng quân. Họ biết đủ thứ, hơn tôi đủ thứ và sung sướng dạy bảo tôi về mọi thứ! Tôi chỉ hơn họ có mỗi cái bằng trung đội trưởng, cái bản đồ kèm phóng đồ hành quân và cái máy truyền tin để nhận lệnh từ thượng cấp.

Họ thường ngập ngừng hỏi tôi với sự nể nang:
- Còn bao xa nữa Chuẩn Úy?
- Liệu tối nay mình ngủ đâu Chuẩn Úy?
- Chừng bao lâu thì mình bắt tay được cánh quân bạn?
- Liệu đụng lớn không?

Tất nhiên đó là những câu hỏi thuộc bí mật quân sự, tôi chỉ có thể trả lời lơ mơ rằng: "gần tới rồi," "còn xa," "chưa biết," "có thể lắm!" v.v. Các chiến hữu của tôi chỉ chấp nhận tôi hoàn toàn sau hai tháng hành quân, khi thấy tôi định điểm đứng chính xác, điều chỉnh tác xạ cho pháo binh một cách hữu hiệu, không sợ sệt khi nghe việt cộng hô xung phong cả ba mặt, và còn cười đùa được khi dàn hàng ngang trên tuyến xung phong. Họ chấp nhận vị trí đóng quân do tôi định, đào hầm hố đúng chỗ tôi bảo và khi trung đội đi tiền đồn, cách xa đơn vị lớn có khi hàng cây số, họ tỏ ra yên tâm.

Tôi đã thực sự vào đời lính, hãnh diện trở thành một Địa Phương Quân khi các chiến hữu của tôi không còn gọi tôi là "Chim Uyên" (ngụy thoại của Chuẩn Úy), mà đổi thành "thẩm quyền", một danh từ riêng có tính cách nể nang hơn...

Địa Phương Quân, Lực Lượng Chủ Lực Tỉnh

Tôi không ở một đơn vị tham mưu nên không biết gì về cách tổ chức Địa Phương Quân trên toàn quốc. Theo cách sắp xếp Tiểu Khu Kiến Hòa, nơi tôi phục vụ, mà suy đoán, thì mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn Địa Phương Quân (một số lưu động, một số đóng đồn). Ngoài ra có một Đại Đội Trinh Sát, tất cả do Phòng 3 (Hành Quân) của Tiểu Khu điều động. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, lực lượng chủ lực trong số 11 tiểu đoàn Địa Phương Quân thuộc tỉnh Kiến hòa, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Kim, Tiểu Khu Trưởng, gốc Sư Đoàn 7 Bộ Binh.

Tất cả những gì tôi viết trong bài này, căn cứ vào cơ cấu tổ chức của đơn vị nơi tùng sự từ ngày ra trường đến ngày Dương Văn Minh ra lệnh buông súng. Vì Địa Phương Quân trực thuộc các tiểu khu (tỉnh), nên tùy tình hình, phương tiện và nhân sự địa phương, cách tổ chức có thể được các tiểu khu linh động thay đổi nên khác nhau ít nhiềụ.

Tiểu đoàn trưởng đầu tiên tôi làm việc với là Trung Tá Sáng (sau khi tôi về đơn vị được vài tuần thì ông tử trận, được vinh thăng đại tá). Các tiểu đoàn trưởng kế tiếp cao nhất ở cấp thiếu tá, còn là đại úỵ. Chỉ trong tám tháng, đơn vị tôi thay tiểu đoàn trưởng tới bốn lần, một chết, một bị thương.

Mỗi tiểu đoàn có năm đại đội gồm bốn đại đội tác chiến và một đại đội chỉ huỵ. Mỗi đại đội có bốn trung đội, gồm một trung đội đại liên và ba trung đội vũ khí nhẹ. Quân số mỗi đại đội, trên cấp số là 108 người, nhưng trên thực tế có mặt ngoài chiến trường chỉ vào khoảng 50 ngườị. Số còn lại lớp nghỉ bệnh, lớp đi phép, lớp bị thương, lớp tử trận chưa kịp bổ sung (tôi không thấy có dấu hiệu lính ma, lính kiểng ở đơn vị tôi). Quân số hành quân của tiểu đoàn tôi trung bình khoảng 300, lúc thấp nhất dưới 200; nhưng so với một tiểu đoàn việt cộng thì đông gấp đôi.

Tôi không biết các tiểu đoàn việt cộng ở Vùng I, Vùng II đông cỡ nào, khi bọn chúng tới Vĩnh Bình, Kiến Hòa, thực lực của bọn chúng chỉ còn bấy nhiêu, vì rất khó bổ sung quân số hao hụt. Cho nên khi muốn bao vây tấn công tiểu đoàn tôi, như trận phục kích xe ở Trúc Giang, Trung Tá Sáng tử trận, bọn cộng phỉ phải tập trung ít nhất hai trung đoàn.

Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ngoài tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó còn có các sĩ quan Ban 1 (Quân Số), Ban 2 (An Ninh), Ban 3 (Hành Quân), Ban 4 (Tiếp Liệu), Ban 5 (Chiến Tranh Chính Trị), Pháo Binh và Quân Ỵ. Trừ Ban 1, Ban 4 và Ban 5, các Ban khác đều đi theo đơn vị khi hành quân. Đó là cách tổ chức của đơn vị tôi, các tiểu đoàn khác có thể không được hùng hậu như vậy.

Tôi không thấy đơn vị tôi có ban Truyền Tin riêng, nhưng máy PRC-25 được trang bị đầy đủ, do chính các binh sĩ trong tiểu đoàn đảm trách. Tiểu đoàn trưởng có hai hiệu thính viên đi theo, một máy liên lạc với Tiểu Khu, Chi Khu và đơn vị bạn. Một máy liên lạc 5 đại đội và tiểu đoàn phó (đi theo đại đội trực nhật).

Mỗi đại đội trưởng cũng có hai hiệu thính viên, một liên lạc với tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó cùng các đại đội bạn, và một liên lạc với các trung độị. Mỗi trung đội trưởng chỉ có một hiệu thính viên để liên lạc với đại độị. Đại đội phó không có máy riêng, mà dùng máy của trung đội trực nhật.

Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có sĩ quan Trợ Y, thuộc cấp số đơn vị, có đơn vị gia cư trong hậu cứ. Mỗi đại đội có một hạ sĩ quan làm y tá đại đội. Sĩ quan Pháo Binh không thuộc cấp số đơn vị, chỉ khi nào tiểu đoàn đi hành quân, sĩ quan Pháo Binh mới có mặt. Hành quân xong, ông ta trở về căn cứ Pháo Binh. Sĩ quan Pháo Binh có hiệu thính viên riêng để liên lạc trực tiếp với Pháo Binh yểm trợ. Trong trường hợp cần Không yểm, tiểu đoàn phải liên lạc qua tiểu khu, và tiểu khu liên lạc với căn cứ Không Quân Cần Thơ.

Mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn lưu động, một số có hậu cứ, số còn lại sau những ngày hành quân, kéo ra đóng dài theo các trục lộ, vừa dưỡng quân vừa giữ an ninh khu vực. Các tiểu đoàn cố định khác chịu trách nhiệm hẳn một vùng, coi đồn, giữ cầu đường hay đóng chốt trên các trục chuyển quân của bọn cộng phỉ. Tôi sẽ đề cập nhiệm vụ đóng chốt ở phần sau, phần này trình bày về các đơn vị lưu động.

Gọi là "lưu động" vì các tiểu đoàn này không chịu trách nhiệm một quận hạt nào, mà cần đâu đánh đó, bao tất cả các quận trong tỉnh, kể cả Trúc Giang, Bình Đại, Ba Tri, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Hàm Long, Thạnh Phú, Hương Mỹ... Mỗi cuộc hành quân của đơn vị ngắn là ba ngày, lâu nhất có khi hàng sáu tuần. Giữa hai cuộc hành quân, đơn vị được về hậu cứ nghỉ ngơi vài ngàỵ. Ở hậu cứ có trại gia binh, quân nhân có vợ con mỗi người được một đơn vị gia cư tường gạch, nền đất, lợp tôn. Quân nhân độc thân sống chung với nhau trong một khu. Trong hậu cứ có quán bi da, quán nhậu, tiệm tạp hóa.

Đơn vị nào có trại gia binh, binh lính được dưỡng quân ở hậu cứ, "vù" về thăm nhà nửa buổi, một ngày; hay chơi với vợ con trong trại, tụ họp nhậu nhẹt, tán dóc, chơi bi da giải trí, tu bổ, sửa chữa vũ khí trong khi chờ lệnh hành quân. Thương cho những tiểu đoàn lưu động không hậu cứ. Sau mỗi cuộc hành quân, họ đóng vất vưởng dọc theo các trục lộ giao thông, vừa dưỡng quân vừa giữ đường sá.

Mỗi lần lính kéo ra là một đạo binh thân nhân từ đâu phục sẵn, kéo tới đông nghịt, phần lớn là các bà vợ trẻ đèo theo con mọn. Họ đi bằng xe đò, xe lam, xe lôi và nhất là xe "ôm". Họ mang theo gạo sấy, cá khô và muối ớt, muối sả cho chồng. Đôi khi họ nhận lại và mang về một ít gạo trắng, thuốc men và cả thức ăn tươi, nếu đơn vị của chồng họ vừa hành quân qua vùng hậu cần của Việt Cộng.

Vào những ngày đầu tháng, đạo binh vợ lính càng xuất hiện đông đảo cùng lúc với xe tiếp tế và phát lương. Không biết các bà nhận "tin tình báo" từ đâu mà nhiều khi tiểu đoàn vừa kéo ra đường, đã thấy các bà chực sẵn hàng nửa ngày! Các bà phải tới để bảo vệ đồng lương lính còm cõi, mang về nuôi con. Nếu không, chỉ trong vài buổi, các ông có thể nướng sạch. Chỉ cần với một bộ bài cũ rách sờn nát, họp sòng vội vã và lén lút ở một góc sân kín đáo nào đó, tránh sự giám thị của sĩ quan, thế là tiêu tán hết.

Dù bám sát như vậy, không một buổi phát lương nào vắng nước mắt của các bà. Hoặc họ tới trễ một chút, hết sạch. Hoặc họ đến sớm, đến trước cả xe phát lương, kết quả vẫn không có gì, khi các anh chồng mặt nghệt ra, gãi đầu gãi tai phân bua: phải trả những đầu nợ ấp lẫm do tiền rượu, nợ cờ bạc...

Thăm nuôi chồng tại các vị trí đóng quân cũng là cách bảo vệ mái ấm gia đình. Nhiều ông lính rất tài về chuyện kiếm bồ lẻ. Đóng yên chỗ chừng nửa ngày là họ đã bắt bồ xong. Và sau vài ba ngày nhổ trại lên đường, đã có người giọt vắn giọt dài quyến luyến tiễn đưạ. Các bà vợ trẻ vì thế càng phải tới chỗ dừng quân để vừa giữ chồng, vừa nhóm chút hương lửa trong đời sống vợ chồng.

Cấp chỉ huy bao giờ cũng để cho các ông lính có vợ con tới thăm sự thoải mái tối đa: một góc nhà, góc vườn kín đáo; được gác đầu hay gác cuối, có khi miễn gác; không bị rầy rà khi phạm những lỗi nhỏ, v.v. Nhìn các cậu có vợ tới thăm nuôi trông rất buồn cườị. Mặt họ ửng đỏ, miệng cười chúm chím, đi đứng ăn nói lóng cóng như chú rể mớị. Cấp chỉ huy mỗi khi chạm mặt họ, mỉm cười chia sẻ những nụ cười hiếm hoi trong đời lính và họ rất sung sướng.

Trong đạo binh vợ lính ở đơn vị tôi, có hai bà rất lạ kỳ. Một bà còn trẻ, hễ chui vào mùng với chồng chừng vài phút là rú lên cười ngằn ngặt không nín nổị. Trong không khí thanh vắng ở đồng quê, tiếng cười của bà ta vọng đi rất xa, khiến cả đại đội phải khúc khích cười theo không tài nào nhịn được.

Khi bà vợ trẻ biểu diễn tiếng cười lần thứ hai lúc nửa đêm, người lính gác phải lên tiếng tằng hắng nhiều lần, anh chồng mới thò tay bịt miệng vợ, tiếng cười trở thành tiếng âm ư, bứt rứt. Gần sáng, lại nghe cười! Sáng hôm sau anh chồng thế nào cũng bị trêu chọc cho tới khi anh ta đổ cộc mới thôi, và bà vợ mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng, ngồi chết một góc sân không dám nhìn aị. May mà cả đơn vị chỉ có một bà như vậy và cũng không hại gì, chỉ lưu lại kỷ niệm vui vui mỗi khi nhớ tới.

Một bà vợ lính khác lớn tuổi hơn, khi ngủ say thì ngáy khủng khiếp. Tiếng ngáy của bà vừa to, vừa dài hơi, vừa giống hệt như tiếng chó tru. Ở vùng đóng quân, tiếng ngáy của bà khiến chó trong xóm sợ hãi tru theo và dân làng một phen bở víạ. Ở trại gia binh, tiếng bà ngáy vọng ra xa hàng chục dãy nhà và hàng xóm phải lâu lắm mới làm quen nổi và chịu đựng.

Đêm đầu tiên ngủ trong trại gia binh, nghe bà ta ngáy, tôi tưởng là tiếng chó dại tru, suốt đêm trằn trọc không cách nào ngủ được, khó chịu quá phải bò dậy xách súng đi lùng. Một người lính tuần phòng nội doanh trông thấy dáng điệu của tôi, anh ta hiểu ngay, gọi tôi lại chỉ trỏ giải thích. Tôi ôm súng trở lại chỗ ngủ, và lạ lùng thay, vài phút sau tôi đã ngủ ngon lành! Cho tới bây giờ, chúng tôi, những người từng sống trong hậu cứ Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, kể cả Nguyên Hương, chưa ai quên tiếng ngáy độc nhất vô nhị của người đàn bà đó.

Dưỡng quân ở hậu cứ bao giờ cũng yên ổn hơn, dù doanh trại lúc nào cũng ồn ào như họp chợ từ khi đơn vị hành quân về tới cho đến khi chiếc quân xa cuối cùng rời trại, mang họ vào một chuyến đi khác. Sống trong trại chỉ khổ nhất khi đơn vị có người chết trận, và thân nhân người chết sống trong trạị. May mà những tiếng than khóc, vật vả ấy không kéo dài lâụ. Thân nhân người quá cố được xe đón ra Chung sự vụ ở tiểu khu, nơi quàn xác và hoàn tất việc chôn cất các chiến sĩ trận vong.

Tuy nhiên, những phút giây ngắn ngủi ấy đã để lại trong tôi những cảm xúc khó quên, như cái chết của anh Lâm, Trung Sĩ Ị

Lâm gốc Biệt Kích Thám Báo, sau về Tổng Tham Mưu, cuối cùng không hiểu sao lại về Địa Phương Quân, làm trung đội phó cho tôị. Anh Lâm nhỏ người, nhỏ tiếng, ít cười, lúc nào cũng buồn buồn. Lâm có vợ, vợ chồng anh có một con nhỏ và đang chờ đứa thứ hai, đang bầu bảy tám tháng gì đó. Anh đánh giặc rất giỏi, nhiều kinh nghiệm hành quân và bố trí phòng thủ.

Mỗi chiều dừng quân, tôi bàn bạc với anh về cách sắp xếp hầm hố nếu ý anh khác tôi, anh giải thích cặn kẽ, thấy hợp lý, bao giờ tôi cũng nghe anh. Hố của anh bao giờ cũng ở vào chỗ nguy hiểm nhất và gần một vọng gác. Ban đêm anh tự đảm nhiệm phần đốc canh, bảo vì mắc tật khó ngủ. Lâm chỉ lay tôi dậy khi cảm thấy có chuyện gì bất tường, còn thì cứ để tôi ngủ thẳng giấc, anh làm việc với các tiểu đội trưởng, thay phiên nhau kiểm soát lính gác.

Khi trung đội tới phiên trực, dẫn đầu một cánh quân tiến về phía địch, anh Lâm bao giờ cũng đi trước. Anh dẫn lính đi rất đúng hướng và nhanh vừa phải, phía sau không bị đứt quãng hay dồn ứ lại.

Mỗi khi chạm địch, tôi vừa lên tới nơi, anh đã bố trí xong đội hình tác chiến. Anh Lâm dũng cảm nhất ở những trận chống đột kích ban đêm. Cách bố trí của Lâm và lệnh "hầm chắc hố sâu" của tôi khiến trung đội đủ sức chịu đựng những cuộc quần thảo với Việt Cộng hầu như suốt đêm. Lâm giữ chặt liên lạc với các hố.

Giữa hai đợt xung phong của địch, anh bò nhanh một vòng để kiểm soát tình hình, san sẻ đạn dược và ủy lạo thương binh trong khi tôi bận báo cáo lên thượng cấp và trực tiếp liên lạc với sĩ quan pháo binh qua máy truyền tin. Anh Lâm là một chiến sĩ xuất sắc. Nếu được thưởng huy chương, tôi sẽ rất sung sướng đề cử anh thay đơn vị mà nhận...

Một lần, trước khi đơn vị hành quân, Lâm nói cho tôi biết là anh bị ho ra máu và muốn ở lại để vào Quân Y viện khám bệnh. Theo nội lệ của đơn vị, phép tắc do đại đội trưởng quyết định, tôi không dám tự chuyên. Cấp trên của tôi lúc đó là một ông trung úy rất thô lỗ và không thân với tôị. Lâm cho biết đã hỏi ông ta nhưng không được, anh quyết định trốn lại trại nhưng phải báo cho tôi biết để lo liệu cho anh em.

Tôi tin là anh đang đau ốm, và tôi cũng có thể khỏa lấp, che chở cho anh để đại đội trưởng không biết anh ở lại trạị. Nhưng nhìn vào phóng đồ hành quân, biết đơn vị sẽ đi vào một vùng đất cực kỳ nguy hiểm, tôi phân vân ra mặt, do dự không biết xử trí ra saọ. Anh Lâm kiên nhẫn chờ đợi, cuối cùng tôi cho anh biết tình hình, khuyên anh "cố gắng" và hứa sẽ cho anh theo xe tiếp tế để trở lại trại sau khi đơn vị hoàn thành công tác và kéo ra tới đường cái.

Anh Lâm chào tay, quay lưng đi và vài phút sau khi ra tới địa điểm tập hợp, tôi đã thấy anh đang có mặt với đầy đủ trang bị và đang kiểm soát đạn dược của từng binh sĩ. Chuyến hành quân đó, tôi đi cùng chiếc GMC cuối cùng.

Trông coi cho binh sĩ lên xe đầy đủ, tôi bấm Lâm:
- Anh về nghỉ đi, chờ xe tiếp tế rồi theo vô, mọi chuyện để tôi lo!
Lâm cười nhanh:
- Chuẩn úy đừng lo, tôi thấy đỡ rồị. Tôi sẽ theo xe tiếp tế mà về!

Hai ngày sau Lâm tử trận. Giữa cuộc hành quân, lúc đơn vị dừng quân ngồi nghỉ, anh trúng một tràng đạn bắn sẻ, hai viên chui vào cổ và buồng phổị. Lâm nằm ngửa, mắt mở hé chỉ thấy lòng trắng, miệng ngáp từng chập như cá lóc bị đập đầụ. Tôi thương cảm vuốt mắt anh, mắt tôi ráo hoảnh nhưng lòng như ứa máụ. Nửa phút sau, anh qua đờị. Hai người lính khiêng xác Lâm, bảo nhau chưa có xác nào nhẹ đến thế! Hôm sau, anh đã "theo xe tiếp tế mà về," đúng như lời đã bảo.

Đợt hành quân đó không thành công, địch kịp thời chuyển quân sang vùng khác, tiểu đoàn được lệnh về trại để bổ sung khí giới rồi lên đường hành quân ở một hướng khác. Xác anh Lâm về chung sự vụ và chúng tôi về hậu cứ. Tôi bắt gặp chị Lâm bụng cao vượt mặt, tay cầm nắm rau thơm, cười hớn hở:
- Em mới xin được nắm rau tần dày lá! Canh chua mà thiếu rau tần, anh Lâm không thích!

Lòng tôi thắt lại, chết điếng. Ông thượng sĩ thường vụ đại đội chưa kịp báo tin cho chị. Trông thấy vẻ mặt bất thường của tôi, chị Lâm tái mặt, lấp bấp:
- Anh Lâm... bị thương?
Tôi nhẹ giọng:
- Anh Lâm chết rồi! Chị dắt cháu lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Tôi lo xe cho chị ra chung sự vụ.

Chị Lâm ngồi phệt xuống đất, không khóc, không nấc được tiếng nàọ. Tôi không nhìn thấy chị nữa. Trời đất như phủ một màn sương. Một người vợ lính nào đó nâng chị dậy, dìu đị. Tôi lững thững vào nhà, nhìn Nguyên Hương chua xót. Một ngày nào đó, biết đâu ông Thượng Sĩ Thường Vụ lại chẳng phải nói với Hương một câu tương tự: "Anh Nghĩa..."
(Sài Gòn trong tôi/ Nguyễn Hữu Nghĩa)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
ICEEXPRESS (05-23-2025)
Old 05-22-2025   #5
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Nhớ anh linh Anh Hùng Nguyễn Ngọc Trụ, Cựu Cán Bộ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt

“Con ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là một thảm cỏ xanh mịn như nhung, nó không biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và con ngựa đã lao đầu xuống vực sâu vì mắt đã bị bịt. Người dân Xã Hội Chủ Nghĩa chính là những con ngựa đó.”

Anh Hùng Nguyễn Ngọc Trụ

Tôi trình diện tập trung tại trường Lê Quang Định chiều 26-06-1975, hạn chót dành cho cấp Thiếu Úy và Tr. Úy. Tối khuya ngày 28, tất cả được dồn lên xe. Không biết đi đâu. Bọn cộng phỉ đưa chúng tôi đi quanh đi quẩn, đi lung tung, đi lắt đi léo, lúc ngừng lúc chạy để làm lạc hướng chúng tôi.

Cuối cùng, sau hơn chục giờ lươn lẹo, chúng tôi được “đổ quân” gần chân núi Bà Đen, vùng Trảng Lớn Tây Ninh, nơi có Bộ Tư Lệnh Tiền Phương cua Sư Đoàn 25 BB cũ, cách nơi xuất phát không đầy 2 giờ lái xe.

Như vậy, bài học đầu tiên mà bọn cộng phỉ đã dạy cho chúng tôi là: Luôn Lắt Léo Lươn Lẹo. Sau đó chúng tôi được tổ chức thành tổ, khối, trại. Tôi ở trại L4T1 gồm có 14 Khối, mỗi khối là một nhà 120 người, và cứ 10 người là 1 tổ, khoảng hơn tháng sau được “biên chế” lại chỉ còn 5,6 khối cho 1 Trại.

Tôi ở khối 13, khối 14 là Nữ. Khối 13 và 14 cộng lại cũng chưa đủ 120, nên tạm thời sinh hoạt chung. Ngày kế tiếp, các cô được phân công tháo gỡ đinh từ những thùng đạn pháo binh, còn tù nam thì rào kẽm gai quanh trại.

Tôi vừa làm rào tự nhốt mình vừa nhìn quanh quẩn.Thấy ngọn “cờ đỏ sao vàng” bẩn thỉu tởm lợm đang tự mãn ưỡn ẹo theo gió phía sân trại bộ đội, tôi đâm thù cái “cờ vàng sao đỏ” của Ô. Thiệu, cái cờ mà trước đó mấy năm tôi cho là tiếng cú kêu báo trước một chuyện chẳng lành, 2 lá cờ trông y hệt nhau tuy 2 màu cờ có đối nghịch nhau về màu sắc. Một chút hoang tưởng, tôi húyt gió bài “Cờ bay, cờ bay…”.

Ngay khi ấy, có tiếng nói ngay sát sau lưng tôi “Hay lắm, nào, chúng ta cùng hát!”, và người đó hát vài câu trong bài hát tôi đang húyt gió, trong đó có câu anh sửa lại “…Sài Gòn ơi, chờ quê hương giải phóng…”. Người đó chính là Nguyễn Ngọc Trụ, người mà sau đó không lâu đã đi vào huyền sử lan truyền khắp các trại tù vùng Trảng Lớn, Tây Ninh. Anh Trụ trông khoảng 30, người tầm thước, da trắng trẻo, đeo cặp kính dầy cộm, phong cách điềm đạm và trí thức, ăn nói nhẹ nhàng, nhưng từng lời dứt khoát.

Sau này tôi được nghe biết thêm anh có vợ 2 con, Trung Úy, có bằng Cao Học Luật/ Công Pháp Quốc Tế với Luận Án Tiến Sĩ sắp hoàn thành, và là Giảng Viên dậy tại Trường Võ Bị Đà Lạt môn thuộc về Luật và Chính Trị.

Đó, lúc đầu tôi chỉ biết về anh có bấy nhiêu vì anh và tôi không ở chung một nhà, thậm chí cũng không còn cùng trại vì hơn tháng sau đó có đợt “biên chế”. Biên-chế có nghĩa là chuỷên trại hoặc sắp xếp lại nhân sự… Trước hết, Tù Nữ/K.14 được đem đi khỏi Trảng Lớn Tây Ninh. Anh Trụ vẫn ở lại T1, còn tôi thì chuyển qua T3 cách T1 khoảng 1km.

Qua trại mới, những người tù bắt đầu bị khủng bố nhiều tuần bằng một đợt thẩm vấn chính thức đầu tiên. Buổi sáng hôm ấy, mọi người được lệnh nghỉ “lao động” ở nhà viết tờ tự khai; tới buổi chiều và dưới sự giám sát của Quản Giáo, từng người đọc bản tự khai, những người khác phê bình thảo luận để đánh giá sự thành khẩn của bản tự khai đó và có ghi vào biên bản để nộp cho Quản Giáo.

Ngày kê tiếp, trong lúc tiếp tục mổ xẻ những bản tự khai, thì có 2 vệ binh, mặt đằng đằng sát khí, tới kêu tên từng người một dong đi với 2 khẩu AK luôn luôn thúc đằng sau. Phòng thẩm vấn là những lều tranh kín tường, trên một khu đất lớn hơn một Sân Vận Động và xa khỏi trại, trước mỗi cửa lều có một vệ binh tay cầm súng đứng gác.

Vừa bước vào trong lều, người bị thẩm vấn đã bị kinh hoàng bởi 2 khuôn mặt rất đanh ác đang ngồi chờ sẵn, 1 tên vặn vẹo hỏi còn tên kia quan sát. Cứ như vậy trong nhiều tuần lễ, người đã và sắp bị thẩm vấn đều hoang mang lo sợ, ai cũng có thể nghĩ mình sắp bị bắn tới nơi, vì hầu như ai cũng bị buộc vào tội chết.

Sau đợt vừa thẩm vấn vừa khủng bố, Cách Mạng chính thức cho Tù hưởng sự “vinh quang” lao động của đời tù khổ sai như bất tận; gọi là “chính thức” vì trước đó cũng đã phải lao đông cực khổ nhưng không “quy hoạch” bằng, thế mà chỉ sau vài tháng “không chính thức” nhiều người chỉ còn da bọc xương.

Tuy thế, trên đường đến lao trường, chúng tôi lại có dịp được gặp những người khác trại và được nghe nhiều tin tức về Nguyễn Ngọc Trụ. Càng ngày càng có nhiều chuyện kể về sự anh hùng bất khuất của anh, nhất là sau mỗi đợt Học Tập Chính Trị, mà lúc đó tôi cho là được thêu dệt nhiều hơn là sự thật.

Một hôm nghe tin Quang và Vũ ở T1 trốn trại và bị bắt lại, cả 2 hoặc 1 trong 2 người là học trò của Trụ, khóa cuối cùng trường Võ Bị Đà-Lạt. Trước khi trốn, 2 người nhờ anh giữ một lá thơ đế chuyển cho gia đình họ khi có điều kiện, và anh Trụ đã tiêu hủy lá thơ ngay sau khi được tin họ bị bắt lại.

Sau tin 2 người trốn bị bắt lại, là tin anh Trụ bị bắt biệt giam, lý‎ do là 2 người kia bị ép cung, khai là đã trốn trại theo lệnh của Thầy Trụ rồi sẽ dẫn đường đem “tàn quân quay lại tấn công giải thoát trại giam”. (Sài Gòn trong tôi/ Tù Cựu XM520/ Posted by Hoàng Thái Sơn)

Khi nghe tin anh Trụ bị biệt giam, tôi xét lại về y nghĩ mà tôi đã cho là có nhiều phần thêu dệt trong những chuyện rất anh hùng về anh. Sau này, khi chuyển qua nhiều trại khác và được nghe kể về anh Trụ từ chinh những người đã từng ở chung với anh, thì tôi thấy sự thực về anh Trụ còn “ghê gớm” hơn những cái mà tôi cho là “có phần thêu dệt”.

-Không nhận tội “tay sai đế quốc, bán nước, có nợ máu với nhân dân”:

Chỉ trong vòng vài tháng đầu tiên, mỗi người tù phải viết và đọc nhiều chục bài viết (dưới hình thức bản‎ lý lịch, tự khai, thâu hoạch…) xác nhận mình là kẻ có tội như đã nêu trên. Lúc ấy, dù chỉ tự kể tội một cách “chung chung”, tôi cũng cảm thấy thật xấu hổ. Tôi phải nói ra điều này, để từ cái hèn mọn của riêng mình mới thấy được sự vĩ đại của Người Anh Hùng.

Trong tất cả những bài viết như vậy, anh Trụ chỉ ghi tên, chức vụ, và hoàn toàn để trống “phần nhận tội”. Anh khẳng định công việc anh đã làm là phục vụ cho một tương lai Việt Nam độc lập, dân chủ, nhân bản. Thực hiện một lí tưởng như vậy sao gọi là có tội.

- Cộng Sản và Mỹ đều là hiểm họa của dân tộc Việt Nam:

Trong những giờ gọi là “Thảo Luận” tại Khối, có Quản Giáo “chủ trì”, hay những ngày lên lớp” tại Hội Trường đông hàng ngàn người mà Giảng Viên là những Cán Bộ Chính Trị từ cấp cao ở xa tới, Nguyên Ngọc Trụ đã dõng dạc lên án cả Mỹ lẫn Cộng Sản: Mỹ lợi dụng xương máu Việt Nam và của cả nhân dân Mỹ để phục vụ quyền lợi phe nhóm.

Còn chủ Thuyết Cộng Sản chỉ là hoang tưởng, đã lỗi thời không thuyết phục được người văn minh. Giữa 2 cái họa, không thể đương đầu cùng một lúc, anh đành tạm chọn cái họa nhẹ là Mỹ để đương đầu với cái họa lớn là Cộng Sản, mặc dầu anh phản dối sự hiện diện của Quân Đội Mỹ tại Việt Nam. Súng Mỹ, súng Nga, hay súng Tầu đều là kẻ thù của dân tộc Việt Nam.

- Người dân trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa giống con ngựa bị bịt mắt:

Trước hàng ngàn người trong hội trường T1, dĩ nhiên trước mặt cả bầy Cán Bộ các cấp, anh Trụ kể dụ ngôn về một con ngựa. …Con ngựa phóng trên đồng cỏ, dưới chân nó là một thảm cỏ xanh mịn như nhung, nó không biết phía trước là một vực thẳm đang chờ sẵn, và con ngựa đã lao đầu xuống vực sâu vì mắt đã bị bịt. Người dân Xã Hội Chủ Nghĩa chính là những con ngựa đó.

-Chuyện mới nhất kể về ngày đầu biệt giam:

Cuối tháng 3/2008, tôi may mắn tìm liên lạc được với 1 người ở chung một khối và thân với anh Trụ, tên là T.T.T. hiện ở Mỹ. Anh xác nhận những gì tôi nghe được về anh Trụ đều đúng, nhưng vẫn còn ít so với sự thực về anh Trụ. Theo anh T.T.T. kể lại, không lâu sau khi 2 người trốn trại bị bắt, thì có một buổi tập trung toàn trại T1 tại Hội Trường, anh TTT. ngồi bên cạnh anh Trụ, chủ tọa buổi nói chuyện là một “đoàn cán bộ cấp cao” cầm đầu bởi một tên trung tá cộng phỉ.

Khi tên trung tá cộng phỉ nói là có một người cầm đầu tổ chức phản động…, thì anh Trụ đã đứng lên nói với tên Tr. Tá: “Tôi biết người mà ông định nói là ai, là tôi chứ gì? Tôi không cầm đầu ai cả, tôi chỉ bày tỏ chính kiến, tôi không thích chế độ cộng sản, ông có muốn nói chuyện với tôi về tý thuyết cộng sản không?”.

Cả hội trường 1000 người im phăng phắc. Cả đám “lý thuyết gia” cộng phỉ vô văn hóa khựng lại trước sự quyết liệt kiên cường của một Kẻ Sĩ Anh Hùng. Sau một thoáng lúng túng, tên trung tá cộng phỉ nói sẽ nói chuyện với anh sau rồi bảo anh ngồi xuống. Anh TTT. cũng nói thêm là trước hôm có buổi tập trung tại hội trường, anh Trụ đã nhờ anh chuyển lời trối trăn đến gia đình nếu có thể.

Ngoài những điều nghe về anh Trụ mà tôi đã phối kiểm, tôi cũng đã chứng kiến 5 tháng cuối đời của anh, tận mắt tôi đã chứng kiến bọn dã thú giết người hèn hạ đã trơ trẽn dựng lên một trò hề thật lố bịch gọi là Tòa Án để sát hại anh, và chính anh T.T.T. là 1 trong những người đã chôn anh Trụ tại khu An Dưỡng Biên Hòa cũ (không phải tại Trảng Lớn Tây Ninh như có người đã viết mà tôi không nhớ là ai).

Vào một buổi tối giữa tháng 5/1976,một số tù Trảng Lớn bị chuyển đi xa đợt đầu tiên,và tôi có tên trong danh sách này. Khoảng 4 giờ chiều thì có một đoàn xe tới đậu giữa sân trại tôi là T3.Từng đoàn tù từ những trại lân cận bị dẫn đến và tống lên xe, sau đó mới đến tù T3, mỗi xe 40 người.Tôi đếm được tất cả 25 chiếc xe, và tôi được lệnh lên chiếc xe cuối cùng.

Trong xe, không kể 2 thằng vệ binh ngồi 2 bên ở cuối xe, tôi đếm kể cả tôi là 24 người, Non và Tỷ bị trói ngồi bên trong (bị tố cáo là 2 tên C.I.A hạng bét, biệt giam trước đó 1 tháng). Trời sắp tối thì có một chiếc xe hơi chạy tới đậu sát bên xe tôi, một người tay bị trói quặt đằng sau được lôi ra và tống lên xe tôi: Nguyễn Ngọc Trụ. Anh Trụ bị tống vào trong, cùng với Non và Tỷ. (Sài Gòn trong tôi/ Tù Cựu XM520/ Posted by Hoàng Thái Sơn)

Lúc đi ngang chỗ tôi, lợi dụng bước chân anh chao đảo vì tay bị trói, tôi đứng lên vờ như đỡ cho anh khỏi bị ngã và nắm cánh tay anh bóp bóp, anh mỉm cười nhìn tôi rồi gật đầu chào mọi người. Một người nào đó nói vừa đủ nghe với anh Trụ “Xin anh đừng chết!”. Như vậy đoàn xe có 25 chiếc, chúng tôi ở xe thứ 25, và trong xe thêm anh Trụ nữa là 25 người. Xe bắt đầu chạy khi trời tối hẳn.

Lại một lần nữa bọn cộng phỉ cho ôn lại bài “Lắt Léo Lươn Lẹo”, xe lúc ngừng lúc chạy, mãi khoảng 2 giờ đêm thì chúng tôi được đổ xuống khu Trung Tâm An Dưỡng, Biên Hòa. Anh Trụ bị tống thẳng vào thùng sắt Connex ngay cổng trại. Non,Tỷ được cởi trói và đứng xếp hàng chung với mọi người. Chúng tôi 24 người cùng 40 người nữa bị chia ra và sáp nhập chung với anh em Cảnh Sát, đã ở đây từ trước, vào 3 đội Mộc, Rèn, Chăn Nuôi; tôi vào đội Mộc có cả nhà văn Nguyễn Hữu Nhật tức thi sĩ Động Đình Hồ.

Khu An Dưỡng gồm nhiều trại, mỗi trại khoảng 1000 người và được gọi là T1, T2, T3,…Tôi không nhớ trại tôi ở là T mấy, nhưng chắc chắn một điều là chiếc connex đựng anh Trụ nằm ngay sát cổng trại tôi ở, nơi lúc nào cũng có vệ binh đứng gác. Ngay từ cổng là một con đường khá lớn sát hàng rào bên trái, kéo dài thẳng tắp suốt bề ngang trại. Từ cổng theo con đường này đi vào, đầu tiên sẽ thấy bên phải là 2 dẫy nhà nằm song song nối tiếp nhau dọc theo hàng rào chiều dọc của trại, Quang và Vũ ở nhà đầu.

Qua khỏi 2 dãy nhà là sân trại, cuối sân là 1 cái hội trường thật lớn bằng tôn (nghe nói là nhà ướp và mổ xác của Mỹ để lại), nơi sẽ là tòa án xử anh Trụ 5 tháng sau. Cứ tiếp tục theo con đường ngang, qua khỏi sân trại tới cuối hàng rào là dãy 4 căn nằm song song nhau, tôi ở nhà đầu tiên sát con đường, và bên kia con đường đối diện với nhà tôi ở là một dãy hơn chục cái cầu tiêu nổi dành cho cả trại.

Mỗi ngày cỡ 8 giờ sáng thì anh Trụ có khoảng 15-20 phút đi cầu tiêu. Trên đường đến khu cầu tiêu, anh phải đi ngang nhà có Quang và Vũ, băng qua chiều ngang sân trại tới nhà tôi ở thì quẹo vào khu cầu tiêu, trên tay cầm lon “gô” nước để làm vệ sinh, thường có 1 tên vệ binh cầm súng đi theo. Dáng anh đi trông thất thểu, nhưng nét mặt rất an nhiên, và đặc biệt miệng lúc nào cũng mỉm cười.

Vào những ngày không lao động, anh em thường đứng dọc theo hiên nhà dõi nhìn theo anh. Có lần anh hướng về phía Quang và Vũ đang đứng trong đám anh em, nói “Thầy không hề buồn giận em, thầy biết bằng mọi cách họ sẽ giết thầy.” Anh em vẫn thường xuyên tiếp tế cho anh bằng cách lén buộc sẵn một gói nhỏ đồ ăn vào cái cầu tiêu trong cùng, nơi được chỉ đinh dành riêng cho anh, mặc dầu trong khu cầu tiêu lúc ấy đã được bảo đảm hoàn toàn không có ai, dĩ nhiên anh phải ăn tại chỗ, chung quanh đầy cứt đái.

Đợt thăm nuôi đầu tiên trong đời tù bắt đầu gần những ngày cuối tháng 10/1976. Đội Mộc có 5 người, trong đó anh Nguyễn Hữu Nhật và tôi, được thăm vào ngày 29/11/1976 cũng là ngày cuối cùng của đợt thăm nuôi. Buổi tối ngày Thứ Bẫy cuối cùng của tháng 10/76, tôi cùng mấy người nữa được chỉ định đi theo 2 tên vệ binh đẩy nước ra Khu Thăm Nuôi, để đổ nước vào những cái lu đặt trong những lều thăm, cách trại khoảng 2km.

Trên đường quay lại trại, có 4 tên bộ đội đứng chờ. Chúng tôi được lệnh lôi từ trong một bụi rậm ra một chiếc quan tài bằng gỗ mộc, khiêng lên chiếc xe và đẩy tiếp. Đến gần trại thì bọn chúng kêu chúng tôi ngừng lại, chúng bắt chúng tôi dấu chiếc quan tài vào một bụi cỏ cao gần đó, và chúng cấm không được nói cho ai biết. Chúng tôi thật hoang mang, và không biết chính chiếc quan tài đó sẽ dành cho anh Trụ ngày hôm sau.

Sáng hôm sau, tôi nhớ chắc chắn là ngày Chúa Nhật cuối cùng của tháng 10/1976, không thấy anh Trụ ra khu cầu tiêu như thường lệ, có lẽ họ cho anh đi cầu sớm hơn. Khoảng 7 giờ sáng thì các Nhà Trưởng được lệnh đi “giao ban”. (Sài Gòn trong tôi/ Tù Cựu XM520/ Posted by Hoàng Thái Sơn)

Cỡ gần tiếng sau thì anh Nhà Trưởng quay về tập họp cả nhà lại, thông báo về phiên tòa xử Nguyễn Ngọc Trụ, đọc tên những người được tham dự phiên tòa gồm Nhà Trưởng và các Tổ Trưởng Tổ Phó, lệnh trên cấm không được bàn tán, nhưng làm sao cấm được, và người ta đoán non đoán già về số phận người anh hung. Người thì bảo chỉ cảnh cáo, kẻ thì đoán mấy năm, cũng có người bảo phải vài chục năm… Tôi nghĩ tới chiếc quan tài dấu trong bụi rậm, và nói khẽ với một người bạn: Tử Hình.

Tự nhiên ruột gan tôi như có ai đang bóp nhào nháo cả lên. Trong một lúc, tôi thấy người và cảnh chung quanh như đang thấy một đoạn phim mà không có tôi trong đó. Tôi không có tên trong danh sách đi dự phiên tòa, nhưng tôi xin và được chấp thuận cho đi thay một người bị “Tào Tháo đuổi” (hình như là “Hùng Mặt Mâm”, không thuộc đoàn tù từ Trảng Lớn). Những bạn tù từ những trại quanh vùng cũng bị điệu đến, chật kín cả hội trường.

CÔNG LÝ LÀ CÔNG LÝ, CÔNG LÝ LUÔN LUÔN THẮNG

Bên ngoài, chung quanh hội trường, là một hàng rào bộ đội súng cầm tay. Bên trong, mấy chục cái ghế nhỏ được xếp thành 2 hàng ở trên cùng, dành cho các lãnh đạo và cán bộ các trại. (Sài Gòn trong tôi/ Tù Cựu XM520/ Posted by Hoàng Thái Sơn)

Trên sân khấu có vài cái bàn dài kê liền nhau trải vải bên trên, sau bàn phía trên cao là hình tên ngoại lai tay sai bán nước Hồ Chí Minh gian xảo với cái lá cờ đỏ sao vàng trông thật bẩn thỉu, hôi tanh, tởm lợm và lạnh lùng chết chóc. Mặt tiền sân khấu,ở trên cao là mấy hàng chữ đỏ nền vàng mà nổi bật nhất là mấy chữ “Tòa Án Quân Sự Khu 7”, trên và dưới sân khấu cả 2 bên là những tên bộ đội võ trang mặt mày hung ác đê tiện.

Vành móng ngựa là 1 tấm “cover”, đó là nửa cái ống cống bằng sắt, có khía, hình bán nguyệt, đường kính khoảng trên 1m50, của Mỹ để lại. Khi mọi người, mọi việc đã được ổn định đâu vào đấy, tất cả được lệnh đứng lên. Một tiếng hô nghiêm thật to, tên thượng úy Mão - chính trị viên tiểu đoàn cùng tên đại úy tiểu đoàn trưởng ra tận cửa đứng nghiêm chào đoàn xử án và mời lên sân khấu.

Trên sân khấu, ngồi chính giữa bàn là 2 tên lớn nhất đều mang quân hàm trung tá, phái đoàn khá đông, cả chục tên, có đứa ngồi hàng ghế dưới sân khấu. Sau đó, anh Nguyễn Ngọc Trụ được dẫn ra, cởi trói, bị đứng vào trong tấm sắt tròn gọi là vành móng ngựa. Một cây đèn dầu được thắp lên, kèm theo một lời thuyết minh rất dõng dạc:

Cây đèn này là tượng trưng cho ánh sáng công lý. Một tấm sắt và một cây đèn tù mù để tượng trưng cho ánh sáng công lý cách mạng!!! Khắp cả Thế Giới, có sân khấu hề nào hí lộng hơn, lố bịch hơn, ngu xuẩn hơn, khôi hài hơn cái sân khấu được tạo ra bởi loài mọi rợ rừng rú từ bắc việt tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ loài người” như thế này?

Bản ly lịch đọc trước tòa, tôi chỉ còn nhớ một phần: Nguyễn Ngọc Trụ,Trung Úy, Cao Học Luật, Giáo Sư Chính Trị Trường Võ Bị Đà Lạt; tên cha là Nguyễn văn Thắng, Trung Tá Cảnh Sát, đang tù lao động khổ sai ngoài Bắc; (mẹ và vợ: không nhớ); có vợ và 2 con. Sau vài thủ tục lấy lệ, tòa hỏi: Sau khi nghe giới thiệu thành phần xử án, tội phạm N.N.Trụ có cần thay đổi ai không?

– Thưa quí tòa, tôi nghĩ không cần thiết. Tòa hỏi tiếp, “N.N.Trụ, anh có phải là nhà trí thức không?”. Anh Trụ ngắn gọn: Thưa quí tòa, đúng. Tiếp theo là những câu hỏi để gài tội, một cách vu vơ rất khờ khạo. Tên trung tá đóng vai hề “Công Tố” lôi cả ông bà cha mẹ ra để buộc tội “bị cáo”. Những lời buộc tội, được đọc từ một tờ giấy viết sẵn mà cứ vấp váp vì đọc không thông, tới bây giờ vẫn còn tìm được trên những tờ báo trong nước như: tay sai đế quốc, phản động, nợ máu… Chủ yếu tên hề “Công Tố” tập trung vào tội: “đã cử người trốn trại để đưa tàn quân quay lại giải thoát đồng bọn, đã xúi dục những “cải tạo viên” chống lại đường lối chính sách khoan hồng...” Phiên tòa không có luật sư biện hộ, nhưng anh Trụ được phép phát biểu sau phần buộc tội.

Anh phủ nhận tất cả mọi lời cáo buộc, và dẫn giải rằng những người đang kết tội anh mới chính là kẻ có tội. Anh nói rất ngắn gọn, nhưng thật sắc bén. Một lần nữa, tại tòa, anh xác nhận anh chỉ muốn giảng giải thuyết Cộng Sản cho chính những tên mọi rợ gọi là Cộng Sản mà không hề biết một chút gì về cái-gọi-là lý thuyết cộng sản quái thai hoang tưởng.

Đáp lại lời cáo buộc “không chịu cải tạo”, anh nói: “Tôi rất muốn được “cải tạo”, nên mới bày tỏ hết tư tưởng ra để cho cách mạng thấy mà cải tạo, đấy là tôi đã đáp ứng đúng yêu cầu “thành khẩn khai báo” của Cách Mạng, và tôi đã thành khẩn khai báo tư tưởng bằng chính những lời phát biểu thật thà của tôi. Thưa quí tòa, Công Lý là Công Lý, Công Lý luôn luôn thắng. Tôi tin vào Công Lý và chấp nhận mọi số phận cho niềm tin đó.”

Sau mươi phút gọi là nghị án, chắc các tên gọi là“quan tòa” vào bên trong làm điếu thuốc lào hay nhấm nháp cái gì đó, vì với thời gian mươi phút làm sao vừa “nghị” vừa đánh máy xong bản án dài mấy trang, ông tòa trung tá cầm mấy tờ giấy đánh máy sẵn, đọc liền tù tì hàng trăm chữ “Chiếu” với “Xét Vì” rồi mới tới chữ “… Quyết Định: “Tử Hình Tội Phạm Nguyễn Ngọc Trụ”. Bản án phải được thi hành ngay sau khi phiên tòa bế mạc”. Tới đây thì “ánh sáng công lý cách mạng” từ tù mù đã trở thành tối thui, vì chiếc đèn dầu đặt trên bàn đang bập bùng với cái bóng đèn đã bị muội khói ám đen nghịt. (Sài Gòn trong tôi/ Tù Cựu XM520/ Posted by Hoàng Thái Sơn)

Ngay khi 2 chữ “tử hình” vừa phán xong, một người trong đoàn xử án thổi tắt phụp “ngọn đèn công lý” đã bị ám khói đen thui, vừa lúc có 2 thằng vệ binh ác ôn phóng tới anh Trụ, mỗi đứa một bên, chộp 2 cánh tay anh kéo giựt về sau và trói, tên thứ 3 tiến lên tay cầm một cái giẻ. Anh Trụ nói lớn “Xin đừng bịt mắt tôi!”. Anh không vùng vẫy chống cự, nhưng anh cố ưỡn thẳng người lên, hướng về phía anh em và kịp nói to “Chào các anh em ở lại tôi đi!” trước khi bị bọn man rợ nhét giẻ vào mồm và bịt mắt dẫn đi.

Không kể những thủ tục rườm rà, phiên tòa chỉ diễn ra không đầy 1 giờ. Mọi người giải tán, cả ngàn người không một tiếng nói, chờ nhau ra khỏi hội trường. Đoàn tù im lặng cúi đầu lầm lũi bước,chỉ nghe tiếng những bước chân mộng du trên sỏi đỏ,và xen lẫn thỉnh thoảng có tiếng “chó cắn ma” tru lên lạc lõng “khẩn trương lên”. Cả ngày hôm ấy không ai thiết ăn, dù có đồ ăn thăm nuôi chia sẻ với nhau. Thấm thía hơn bao giờ câu “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.

Dù đã bị cũng như chứng kiến biết bao nhiêu thương đau mà “đảng và Cách Mạng” đã gieo rắc, đôi khi tôi vẫn nghi ngờ tấm lòng…khát máu của loài ma cà-rồng. Suốt hơn 30 năm sau phiên tòa ấy, đôi khi tôi vẫn thầm mơ ngủ “Hay là bản án tử hình ấy chỉ làm giả để răn đe số đông, còn anh Trụ thì được đem đi giam nơi khác?”, vì chính chúng tự biết anh Trụ không làm gì hết mà chỉ có “tội” nói thật lòng.

Mãi cho tới khi tìm được anh T.T.T. vào cuối tháng 3/2008 (ở khác nhà nhưng cùng một trại với tôi trong Khu An Dưỡng Biên Hòa), tôi mới hoàn toàn hết nghi ngờ lòng dạ của cái đảng cướp của giết người kia, vì chính anh T.T.T. là người đào lỗ và chôn cái xác chi chít những lỗ đạn của anh Trụ. Xin đọc môt đoạn trong thơ của T.T.T. viết ngày 25-03-2008:

“Sáng sớm khoảng 3 giờ sáng, tổ của tôi, gồm toàn là cuộc trưởng cảnh sát lớn tuổi và chỉ có tôi là người trẻ của quân đội, bị kêu đi công tác khẩn; khi ra đến cổng trại thì có một toán bộ đội khoảng mười người đón nhận chúng tôi. Mươì người tù mà đến mười bộ đội đi kèm, chúng tôi linh cảm có điều gì ghê gớm sắp xảy ra. Đi khoảng 200 thước thì có tiếng lên đạn, tiếp theo là tiếng hô đứng lại, tình hình rất là căng thẳng; một người bộ đội đi vào lề đường và kêu chúng tôi vào lôi chiếc xe bốn bánh loại dùng để kéo (rờ-mọt), ở trên xe có cái hòm gỗ.

Đi khoảng 500 thước thì dừng một lần, và chúng tôi cũng không định hướng được là đi đâu. Đến khoảng 5 giờ sáng thì nằm nghỉ ở ngoài một ụ đất cao quá đầu người. Đến sáng thì chúng tôi nhận ra được là đang nằm ở khu chống pháo kích của thiết giáp VNCH, gồm nhiều ô vuông với vách đất có chỗ cho thiết giáp ra vào.

Đến gần trưa thì có một đoàn xe jeep băng qua trảng trống đi thẳng đến chỗ chúng tôi. Đám bộ đội đi với chúng tôi lại lên đạn và nói là ngồi yên không được nhúc nhích. Tôi nhìn thấy một người cao lớn hơn những người khác bị trói và xô đẩy đi vào trong ô vuông phía sau vách đất. (Sài Gòn trong tôi/ Tù Cựu XM520/ Posted by Hoàng Thái Sơn)

Khoảng 10 phút sau thì chúng tôi nghe nhiều tràng AK và 2 tiếng súng ngắn một phút sau đó. Sau hai tiếng súng ngắn, chúng tôi được hộ tống vào trong ụ đất, và thấy cuốc xẻng đã có sẳn tại chỗ, anh Trụ nằm dưới chân cột chân bị trói và mắt bị bịt.

Một tên trung tá cộng phỉ vô giáo dục hỏi chúng tôi có ai là học trò anh Trụ không và nói “tên này ngoan cố đến cùng”, chúng tôi lắc đầu không nói gì cả. Một tên trung tá khác nói với chúng tôi “Các anh làm thủ tục của các anh đi”, khi thấy chúng tôi không hiểu, hắn ta nói tiếp “Quỳ lạy và cầu nguyện đi!”.

Chúng tôi không ai nhúc nhích. Tên cộng phỉ bắc việt vô giáo dục này bèn nói tiếp “Chôn nó đi !”. Tôi cởi trói và tháo băng bịt mắt cho anh Trụ, trên người anh lỗ chỗ toàn vết đạn và máu ra không nhiều, da anh trắng bệt, gương mặt bình thản không có vẻ đau đớn gì nhiều.

Chúng tôi chôn anh xong về láng mới nghe kể chuyện xảy ra tại toà. …Đó là những gì tôi có thể tường thuật cho anh được, còn về tâm sự thì không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, tôi mong gặp gia đình anh Trụ để có thể nói ra những gì anh Trụ đã nói với tôi trước khi bị nhốt connex…..”. (những “ô vuông với vách đất” trong thư của T. có lẽ là những “ụ thiết giáp”).

Có nhiều người coi “Hồn Thiêng Sông Núi” như là một vị thần đầy phép tắc để khấn vái. Một cách giản dị, tôi chỉ hiểu Hồn Thiêng Sông Núi chính là Di Sản Văn Hóa, là Lịch Sử Dựng Nước và Giữ Nước bằng xương máu của Cha Ông mà bổn phận thế hệ đang thừa hưởng phải giữ gìn và phát triển, để bảo hộ cho những thế hệ tương lai tiếp nối.

Trong y nghĩa đó, Tâm và Huyết của anh Trụ đã làm lên Hồn Thiêng Sông Núi, mà nhà ái quốc Phan Bội Châu gọi là “hồn thành thánh” và “phách hóa thần”.

Nguyễn Ngọc Trụ, một Kẻ Sĩ Anh Hùng, chính là Hồn Thiêng Sông Núi.
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
ICEEXPRESS (05-23-2025)
Old 05-22-2025   #6
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Những tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ có dịp nhắc lại chuyện xưa nữa, mấy mươi năm trôi qua kể từ ngày bỏ nước ra đi, xa rời cố hương yêu dấu, lìa bỏ cha mẹ anh chị em, lìa bỏ vợ con bạn bè và cả những khung trời thân yêu xưa cũ…

Đó là là cả một nỗi niềm chua xót ray rứt vô vàn, tôi đã cố nhiều lần không nghĩ đến, cố không dám moi trong ký ức những kỷ niệm thân yêu ngày xưa, mà để hình dung, mà để tưởng tượng, để mà sống triền miên trong niềm hạnh phúc hư vô của môt thời quá khứ son trẻ.

Cũng chỉ vì mỗi khi nghĩ đến ngay tự trong tôi, trong tâm khảm của chính mình luôn hằn lên nỗi đau nhức nhối, để luôn cảnh tỉnh cho tôi biết rằng cái thời điểm diễm phúc tuyệt vời của ngày xa xưa ấy giờ đã qua rồi, và qua đi từ lâu và hơn thế nữa đất nước giờ đây đã ngập chìm trong màu máu tanh tưởi. Quê hương thần tiên của tôi giờ đã nằm trong tay bọn vô thần, bọn tôn vinh một thứ chủ nghĩa ý thức hệ quái đản.

Đau đớn đã quá nhiều rồi, và thêm vào đó có cần phải nhắc lại không? Gợi ra làm gì những chua xót của chuyến vượt biên đầy gian nan, đầy sóng gió trên biển cả mênh mông, vật vã với thiên nhiên để cốt tìm một chân trời nào đó, nơi có tình người, có lẽ sống, một nơi mà con người có đủ thứ tự do căn bản định hướng cho cuộc đời, một nơi có đời sống văn minh nhân bản đúng nghĩa của nó.

Và để có được những điều ấy mà hơn hai triệu người Việt Nam nói chung và bản thân tôi nói riêng, đã phải đem sinh mạng của chính mình ra đánh đổi như một canh bạc, được thì có tất cả, nhược bằng không thì cũng đành phó mặc cho số phận vậy.

Riêng bản thân tôi may mắn nhờ ơn trên phù hộ đã đến được bến bờ bình an, dù cho cuộc hành trình này chúng tôi đã trải qua ít nhiều chua xót và đầy xúc động, tàu chúng tôi tuy không gặp những điểu nguy hiểm kinh khủng nhưng những con tầu khốn khổ khác nhưng ít nhiều biến chuyển định mệnh trong chuyến đi cũng đã làm cho tôi ray rứt xót xa một thời gian dài.

Bao nhiêu năm dài đã trôi qua rồi. Thật sự thời gian đó không đủ để cho tôi xóa đi những hồi ức cũ và có thể trong tương lai vĩnh viễn một kiếp đời tôi sẽ không thể nào quên những cảm giác bàng hoàng thảng thốt của tôi khi ấy.

Câu chuyện dưới trăng trên biển cả mênh mông đêm ấy đối với tôi không có giá trị như một kỷ niệm đẹp đầy lãng mạn trữ tình, mà thay vào đó là một lời nguyền đáng sợ báo trước một cái chết đầy tức tưởi, đau thương của một cô gái…

Bao năm tháng đã trôi qua rồi, biết bao vật đổi sao dời, dòng đời cứ thản nhiên trôi nhưng lòng tôi cứ mãi quặn thắt, nỗi ray rứt luôn gặm nhấm tâm khảm không bao giờ nguôi ngoai, mỗi lần nghĩ lại, nhớ lại buổi nói chuyện đêm ấy dưới trăng vằng vặc và tôi không bao giờ ngờ rằng chính tôi là người được chọn để báo trước cho một định mệnh đầy đau thương tức tưởi…

Mãi dến hôm nay dù đã quá xa, quá lâu đi rồi, cái kỷ niệm buồn xa xưa đó tôi đã luôn dằn nó trong ký ức của mình, và mãi mãi vẫn còn trong tiềm thức và luôn hiện hữu trong cuộc đời tôi không bao giờ quên nổi.

Tình cờ lại có chương trình kể chuyện biển đông, hiểu được ý nguyện của những người tổ chức, thật sự trong tôi những cảm giác rùng mình xa xưa trở về thôi thúc mãnh liệt. Cái ý tưởng của ban tổ chức thật là hay, chỉ nghĩ đến thôi là tôi đã thấy tâm tư tôi nhẹ hẳn đi. phải kể ra thôi.

Tuy rằng với bạn đọc thì đây chỉ là một chuyện nhỏ thương tâm so với những hãi hùng của bao chuyến tàu bạc mệnh khác, nhưng đối với tôi là người trong cuộc được nói ra, được chia sẻ về những ẩn ức về tâm lý có lẽ rồi tôi sẽ được nhẹ nhàng thanh thản cõi lòng hơn chăng? Bài viết này tôi không mong gì hơn trước là cất đi gánh nặng trong lòng mình và hơn thế nữa là hy vọng sẽ góp thêm vào lịch sử một chút đau thương mà dân tộc mình vốn quá nhiều thiệt thòi đau khổ, mong lắm thay!

Trước tiên tôi muốn hỏi các bạn có tin vào tâm linh hay không? Các bạn có tin vào sự linh cảm huyền bí báo trước những điều sắp xảy ra không? Và sau nữa là những giấc mơ trong đó được kết thành bởi những ám ảnh nặng nề về tinh thần, về những giác quan mà hiện nay khoa học chưa giải thích được.

Riêng tôi thì tôi tin lắm, tôi tin tưởng vô cùng bởi vì chính tôi là một nhân chứng được chứng kiến những điều kỳ lạ đó. Tôi muốn kể một câu chuyện xảy ra cho tôi và một chuyện nữa bi thảm hơn, cảm động hơn và tràn đầy thương tâm đã xảy ra cho một cô gái đi chung tàu với tôi.

Trường hợp của tôi có thể là do một ám ảnh mơ hồ nào đó mà vì quá ao ước nên trong vô thức tôi đã cảm nhận được. Số là sau 30 lần đi không lọt, bị bể, bị rượt chạy cũng có, rồi xuống tàu nhỏ đón hụt tàu lớn cũng có, có khi lên tàu lớn rồi không ra cửa biển được, rồi nào bị gạt, bị gài. Tổng cộng tôi bị đưa đi gỡ lịch 2 lần gần 3 năm, có như vậy mới nếm được mùi đời, mới rõ được bộ mặt gian trá của lũ cướp đã làm đau thương và nhục nhã cho cả một dân tộc.

Có như vậy tôi mới rõ được quyết định bỏ nước ra đi của tôi là hoàn toàn đúng, những chuyện bị gài, bị bắt… không hề làm tôi nản chí sờn lòng, những việc đó chỉ làm tăng thêm trong tôi sự quyết tâm thực hiện cho kỳ được, vì luôn luôn tôi quan niệm rằng ở đời này muốn làm một điều gì trước hết phải có ý chí, nghị lực, cộng thêm vào đó một chút may mắn nữa thì hy vọng thành công sẽ rất lớn, vì vậy thua keo này tôi cố tìm, cố bày keo khác.

Đầu năm 1989 tình cờ tôi được bạn bè giới thiệu qua Miên đi, tôi muốn nói gọn ở điểm này vì lẽ khâu tổ chức cũng chẳng khác gì những nơi khác, quẩn quanh cũng chỉ bằng ấy chuyện nên dù có kể ra cũng sẽ làm bạn đọc nhàm chán thôi. Vả lại bài viết có giới hạn nên tôi muốn đi vào câu chuyện chính ngay.

Vào thời điểm sau cùng được thông báo lên đường, cái chân tôi vẫn còn đau lắm. Trước đó một tuần chúng tôi đi Hồng Ngự, sau đó qua bến phà Neak Lương để vào Miên thì rủi xe bị lật ở nga ba An Hữu, vì là xe khách chạy lậu nên họ chỉ chở những người bị thương nặng đến bệnh viện thôi, còn sơ sơ nứt xương ngón chân như tôi thì họ bỏ mặc cho nằm đó.

Cố gượng đau tôi leo lên ruộng và bao xe ôm về Sài Gòn, tôi vào ngay bệnh viện bó bột và bất chấp lời khuyên của bác sĩ phải dưỡng ba tuần, tôi đón xe đò khác đi ngay cho dù cả thân mình đau ê ẩm và xương ngón chân bị nứt hành tôi nhức nhối vô cùng. Ngay tối hôm đó tôi tới Nam Vang và gần một tuần sau thì được tin chuẩn bị đi, sau khi biết chắc chắn là đi tôi mượn cưa, cưa bỏ ngay lớp băng bột đi.

Sáng hôm sau bằng nhiều phương tiện chúng tôi được tập trung trong một nhà kho kín đáo và nằm chờ xe đến. Trời hôm ấy nắng nhẹ, gió mát thổi từng cơn làm dịu cả lòng người, lòng tôi rộn vui vì nghĩ đây là một điềm lành và yên tâm ngồi chờ xe đến. Sự háo hức và hồi hộp làm tôi đánh mất óc nhận xét và phán đoán, xe chạy ngang qua trung tâm thành phố mà hầu hết là chung cư, vì vậy ai có ngồi trên lầu tình cờ nhìn xuống sẽ thấy rõ chúng tôi mồn một vì chúng tôi chẳng có gì để che dấu cả, ai nấy chỉ cố thu mình cho gọn lại,chỉ ước ao mình nhỏ như kiến để chẳng ai nhìn thấy…

Việc gì đến phải đến, xe chúng tôi ra khỏi thành phố vừa gần đến ngã ba Svay Rieng là một đoàn xe Cup Honda rượt theo vây chúng tôi lại, nhìn những tên công an răng hô mã tấu hí hửng cười lòng tôi lại quặn thắt ngáo ngán thở dài… Ôi ông trời ơi! chúng tôi có tội lỗi gì đâu, chúng tôi có đòi hỏi gì đâu, chỉ mong được sống yên ổn tự do và cái điều ấy chúng tôi đã có được hưởng và vào một cái thời điểm đen đủi mà chúng tôi đã bị cướp đi một cách đầy tức tưởi và trắng trợn… Ới, Ơn Trên sớm cho chúng con thoát khỏi những trấn áp bạo tàn, xin ơn trên phù hộ cho chúng con sớm được hưởng một đời sống yên ổn tự do và hạnh phúc.

Thế rồi bỗng dưng không hiểu là tôi có lòng thành tâm cầu khẩn hay là một ám ảnh ao ước về tâm lý quá lớn mà tự nhiên có chuyện lạ xẩy ra, là khi chúng đem chúng tôi về đồn, gom chúng tôi lại một chỗ trong khi làm thủ tục đem nhốt thì bỗng nhiên tai tôi nghe văng vẳng một tiếng nói: ” Đi đi, hãy đi về đi!”… và tự nhiên có một lực kỳ lạ hay là bản năng thôi thúc mà tôi đã bước qua những tên công an cô hồn đang canh gác gần đó và ra đường cái trốn mất. Sau này các bạn bị bắt chung có hỏi sao liều thế và thực sự tôi đã không trả lời được.

Một tuần sau khi đã chuộc mọi người ở tù ra đông đủ là chúng tôi lên đường ngay, kỳ này cẩn thận hơn chúng tôi… Được thoải mái ngồi trên một chiếc xe bus du lịch xuôi về hướng cảng Shihanoukville. Vài tiếng sau xe rẽ vào một cánh rừng và từ đây chúng tôi phải băng rừng mà đi, đến lúc này thân tôi mới thật khốn khổ, hai ngón chân chưa lành nhức nhối vô cùng mà đi trong rừng thì mạnh ai nấy theo bước chân người kia, họ đi gần như chạy vậy, khổ thân tôi phải cố nhịn đau ráng theo cho kịp. Tôi cứ lẽo đẽo đi theo sau cùng, hai chân gần như mất hẳn cảm giác, cũng may ở trong rừng mau tối, mọi người phải đi chậm lại nhờ vậy tôi cũng ráng theo kịp.

Cuối cùng rồi chúng tôi cũng đến bờ biển, nơi này khuất nẻo, như một cái vịnh nhỏ, cách xa bờ khoảng 200m đã có sẵn một chiếc tầu neo ở đó, lù lù đen đặc trong đêm tối. Cũng may lần này có chủ đi theo tiễn đưa nên mọi người được sắp xếp lên tàu đâu vào đó, sự hỗn loạn khi lên tàu không diễn ra như một vài lần trước tôi đã bị.

Khi mọi người đã yên vị trí là chúng tôi khởi hành ngay, đêm ấy thời tiết mát mẻ, chung quanh đều an ổn tạo cho tôi một cảm giác sảng khoái vô cùng. Đứng trên mũi tàu nhìn trời nước một mầu đen sẫm, sau lưng là núi rừng trùng điệp âm u, xa xa bên phải những bọt sóng đèn lăng quăng hiu hắt trải dài quấn quít trên mặt nước đen ngòm rọi từ cảng Shihanouville.

Những le lói vàng ảo trong bóng đêm mờ mịt bất chợt gợi cho tôi chạnh lòng nhớ quê nhà, nhớ gia đình cha mẹ vợ con và nỗi buồn ly hương man mán dâng lên đầy cảm xúc, đúng là:
Thôi thế cũng xong một đoạn đời
Giã từ cố quận, lệ đầy vơi
Sầu dâng tê tái hờn vong quốc
Khóc kiếp giang hồ phận nổi trôi

Đã ba ngày đêm rồi vẫn chỉ toàn mênh mông trời nước một mầu, xa xa thỉnh thoảng xuất hiện một vài chấm đen ở chân trời xa thăm thẳm, khi ẩn khi hiện, sự thèm khát đủ thứ luôn tạo cho chúng tôi những cảm giác lạ lùng, những cơn nóng bức như thiêu như đốt dưới ánh mặt trời sáng tạo thêm nhiều ảo ảnh giả tưởng kích thích vô cùng sự đói khát mà chưa bao giờ chúng tôi gặp phải.

Rồi ngày cũng qua đi, chiều đã tàn, hoàng hôn buông xuống khi mọi người đang ngầy ngật ngủ say mê mệt, tôi chợt sảng khoái một chút vì khi đêm về cũng chính là lúc tôi mệt nhất vì suốt cả ngày tôi rất là bận rộn, khi thì đôn đốc anh em bơm nước ra, khi thì người này sốt người kia ói, khi thì bận chia nước cho đều,

Ngoài ra, tôi còn phải canh giữ hai thùng nước nữa, khi rảnh tay một tí lại leo lên mui tầu quan sát khắp phương trời để mong tìm một cứu cánh nào đó, cho dù tôi vẫn biết rõ ràng điều đó khó còn có thể xẩy ra nữa khi cả thế giới đều đã quá mệt mỏi với người tị nạn Việt Nam, và cũng như chúng tôi không ngờ rằng những ngày chuẩn bị xuống tàu ra đi là ngày các trại tị nạn Đông Nam Á đóng cửa vĩnh viễn.

Đêm thứ ba rạng ngày thứ tư, như thường lệ tôi ra sau lái nằm nghỉ một chút, vừa mới chợp mắt mơ màng thì nghe có tiếng động nhẹ, mở mắt nhìn thì ra là một cô gái người Hoa ngồi ở trong cabin, những ai có con nhỏ chúng tôi đều ưu tiên dành cho họ chỗ tốt. Và đây là những gì chúng tôi đã nói với nhau tôi vẫn còn nhớ được phần nào.

Cô ấy nhẹ nhàng hỏi tôi bằng tiếng Việt khá chuẩn:
” Xin phép anh cho em nằm cạnh được không?”
Ngạc nhiên tôi vội đáp:
” Không sao cô nằm đi, nhưng sao cô không ở trong cabin, ở ngoài này đêm khuya khá lạnh và gió dữ lắm.”
Cô lắc đầu bảo:
”Anh cứ cho em nằm đây đi, em không hiểu sao em sợ quá! Em lạnh và cô độc quá! Em lại vừa nằm mơ thấy lạ quá nên em sợ, em run quá, em muốn nói với anh điều này…”

Cô tuôn một hơi không đầu không đuôi, tôi chẳng hiểu gì cả, và tôi cũng thấy lạ lùng nữa, vì cô ở trong khoang đã ba ngày đêm rồi, suốt ngày chỉ ôm con nằm ngủ thôi… Tôi cũng khá mệt nên không còn thì giờ thắc mắc nữa, tôi nhích qua và đưa mền cho cô đắp. Cô vừa run rẩy vừa thổn thức…
Tôi hỏi lại:
”Cô lạnh hả? Cô đau hay sao? Có cần thuốc không?”
Thì bỗng nhiên cô bật khóc, cô nói như mê sảng:
”Anh ơi em sợ quá! Em lạnh quá! Áo quần em ướt hết rồi “
Tôi thấy kỳ kỳ lại hỏi tiếp:
“Cái gì vậy? Cô làm sao vậy? ”

Cô sụt sùi khóc và nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
“Anh ơi em mơ thấy kỳ lạ quá! Em thấy có một người đàn bà tóc xõa rũ rượi, mặc một cái áo dài trắng toát, bà ta lướt đi chầm chậm trên mặt nước, đến gần em bà chỉ ngay mặt em mà nói, ta nguyền rằng ngươi phải đi khỏi nơi đây để lo cho con và cho mọi người. Vừa nói bà vừa vẩy nước vào mình em , lạnh quá và sợ quá nên em giật mình tỉnh dậy, em không dám ở trong đó nữa. Ôi em sợ quá!… “

Rồi cô lại thở hắt ra, đôi mày nhướng lên sáng rực trong một thoáng rồi lại mơ màng xa xăm và rồi cô bật ngồi dậy như chợt tỉnh, rồi… run giọng cô nói:
”Anh ơi em tin anh! Cho em gửi con anh chăm sóc giùm, bé Mimi nó còn nhỏ lắm, em chỉ tin anh thôi, anh nhớ nghe anh!”

Rồi cô lại lẩm bẩm gì đó xong lại nằm vật xuống hai tay khua nhè nhẹ trước mặt, cô bắt đầu cất tiếng hát, giọng ca của cô nghe khàn khàn buồn não ruột và ngậm ngùi đứt quãng, tuy không hiểu lời vì cô hát bằng tiếng Hoa nhưng bản nhạc này tôi có biết. Đây là một bản nhạc hay của vùng Trung Mỹ và tôi được nghe bằng tiếng Anh do hai ca sĩ nổi tiếng thập niên 60 ca, đó là bản “El Condo Pasa” do Simon & Garfunkel hát. Tôi nghe đã nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nghe bằng tiếng Hoa, lời thì tôi không hiểu nhưng tôi cũng cảm nhận được âm hưởng của cô hát như chất chứa cả một nỗi niềm tuyệt vọng đầy nỗi ưu sầu như mang cả những lời tạ từ mãi mãi đi về cõi hư vô nào…

Đêm đã về khuya lắm rồi, tôi cảm thấy hơi nhức đầu và mệt mỏi thực sự, muốn an ổn để ngủ một tí nên tôi rời cô leo lên nóc cabin nằm, và chẳng bao lâu tôi thiếp đi để rồi bật choàng dậy lúc gần sáng khi nghe có tiếng hét: ” Có người rớt xuống biển “

Tôi cố mở mắt nhìn, sau đuôi tàu kéo dài hai vệt nước vẫn còn hơi mờ mờ sương sớm, tôi còn nhìn thấy một cái đầu người hai tay đang quạt nước, tạm yên tâm vì nghĩ rằng người đó biết lội, tôi cũng la hét phụ cùng mọi người, hối tài công quay lại. Đến khi tàu quay sát lại bên người rớt xuống, tôi vẫn không biết đó là người nhảy xuống cứu mà cứ nghĩ rằng đó là người bị rớt xuống biển, trời mới hừng sáng ai cũng còn say ngủ, nên chẳng ai biết gì.

Thực sự, nếu tôi biết rằng cô ấy rớt xuống biển không hiểu tôi có nhảy xuống cứu không? Và xuống rồi thì số phận tôi sẽ ra sao khi đang mặc bộ đồ ấm dầy như đang mặc? Như vậy có phải chăng lời nguyền kia đã ứng nghiệm và cô ấy đến số phải ra đi, đi cho con cô ấy và chúng tôi được sống.

Tôi còn nhớ rằng tâm trạng tôi lúc ấy bình ổn trở lại khi trên tàu quăng giây xuống cho người ấy leo lên, và cũng chẳng bao lâu sau tôi lại bực bội vô cớ vì vòng đầu không cứu được, lý do là trên tầu quăng dây xuống nhưng lại không cột vào tầu, phải đến vòng hai mới cứu được…

Sau khi thoa bóp, chà sát bằng dầu nóng, thì anh kia tỉnh lại. Bằng một giọng yếu ớt hoảng hốt anh cho hay một tin kinh hoàng rằng anh chỉ là người nhảy xuống cứu, còn người kia thì tuột tay mất rồi, chúng tôi xúc động quay lại vòng vòng tìm, riêng tôi khi biết người rớt xuống biển là cô ấy thì tôi đã run rẩy toàn thân. Một nỗi xúc cảm trào dâng ngùn ngụt, tôi đã la hét không cho tàu bỏ đi mà quay lại hai ba vòng để tìm, nhưng hỡi ơi chỉ là vô vọng. Đó đây chỉ là sự mênh mông im lặng ghê rợn, không một nơi nào có dấu hiệu vừa cướp đi sinh mạng một cách phũ phàng, thật là đau đớn.

Nỗi đau càng tăng lên khi anh bạn đã hồi tỉnh kể lại rằng anh dậy sớm nấu cơm và kịp nhìn thấy cô ấy hụt chân rơi xuống là anh bay theo xuống và chụp kịp được, anh bảo cô bình tĩnh chờ tàu quay lại, và khi tàu quay lại sát bên anh chụp được dây từ trên tàu ném xuống anh đã bảo cô: ” mình sống rồi, cô vịn vai để tôi phăng dây“.

Hỡi ơi đầu dây kia trả lại không cột vào tầu, khi anh phăng sợi dây thì tầu từ từ trôi đi, người anh bắt đầu chìm xuống và ngay khi ấy vai anh nhẹ hẫng đi, cô ấy đã buông anh ra mà đi rồi, tay chân anh lúc ấy mỏi nhừ, anh đã đuối không còn cách gì chụp lại cô ấy được…

Thế là cô ấy đã đi, đi thật sự rồi, cô đi một cách đầy đau xót, đi để ứng với lời chiêm bao cho một lời nguyền siêu nhiên không thể tránh được, cô ấy đi cho bé Mimi và chúng tôi được sống, một sự ra đi huyền bí đã được cô ấy linh cảm trước, những gì cô ấy nói với tôi đêm qua giờ trải ra rõ ràng và tôi là người đã được cô chọn để trao gởi và trối trăn cho những ước muốn sau cùng, mà vì mệt mỏi tôi không nhận ra được, mà nếu có nghĩ đến thì tôi cũng chỉ kết luận là cô ấy vì quá lo nghĩ khiến thần kinh bị căng thẳng nên nói năng hồ đồ lẩm cẩm vậy thôi.

Khi đã hết cách rồi cũng đến lúc phải tiếp tục hành trình, lòng lâng lâng đau xót tôi rót dâng cô một chum nước, một ít cơm, ít cá khô và chân thành khấn vái:” Kính xin linh hồn cô sớm được siêu thoát và xin cô phù hộ cho tầu chúng tôi đến được bờ bến bình an. Về phần cháu, chúng tôi xin hết sức chăm sóc và sẽ tìm cho cháu sớm được đoàn tụ với gia đình “.

Và thật kỳ diệu, tuy tai nạn vẫn còn tiếp diễn kể cả những khi tôi cận kề với cái chết khi tàu bị hư máy lênh đênh trôi dạt trên biển cho đến khi gặp được một tàu đánh cá Thái Lan. Không cần biết là loại người gì, hiền hay dữ, chúng tôi chèo chống đến sát bên rồi tôi và một người bạn uống mấy ngụm nước mắm cho ấm người xong là nhẩy xuống biển lội qua tàu họ bám lưới leo lên, mặc cho họ dí búa hăm dọa, vì ở lại cũng chết thôi thì cứ lỳ lợm mặc may còn có cơ sống sót.

Có lẽ nhờ vong hồn cô độ trì nên chúng lại nhẹ dạ nghe lời chúng tôi, không lấy vàng bạc chỉ vét hết số tiền Miên chúng tôi còn giữ lại và sau đó họ kéo thuyền chúng tôi vào bờ, khi ấy trời đã gần sáng, xa xa tít mù là một dải đất mờ mịt, thì cũng vừa lúc họ cắt dây kéo tàu, vì họ được lệnh không được cứu người tị nạn.

Chúng tôi gắng sức chèo bằng mọi phương tiện trước khi gió đổi hướng thổi ra khơi, nhắm hướng nơi vệt đen thăm thẳm ấy là đất liền, là cõi sống, là nơi chúng tôi bắt đầu sống cho một cuộc đời mới, tươi sáng và có ý nghĩa hơn. Phỏng chừng hai tiếng đồng hồ sau tầu chúng tôi tiến gần sát bờ, khi ấy những tàu đánh cá Thái Lan mới hay biết, họ ào ra hơn mười chiếc vây boc lấy chúng tôi lại.

Đến đây xin kết thúc câu chuyện, với các bạn câu chuyện này có chăng chỉ đem lại một xúc cảm nho nhỏ đáng thương thoáng qua rồi cũng sẽ vào quên lãng, nhưng với tôi, được kể ra sự thật những trăn trở trong lòng tôi cũng vơi đi ít nhiều. Ôi nhẹ nhõm biết bao khi tạm không cất giữ trong ký ức những hoài niệm với quá nhiều chuyện chua xót. Tôi xin kể nốt những điều sau cùng của câu chuyện thương tâm này.

Vì tôi là đàn ông nên không tiện giữ cháu bé của người con gái vắn số kể trên, vì vậy cả tàu đồng ý giao cho mẹ của chủ tàu nuôi, thỉnh thoảng chúng tôi đến vui đùa với cháu, và có một đôi lần đang nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Việt thì cháu quay lại ngay giữa trời mà nói bằng tiếng Hoa như là đang nói chuyện với ai đó, làm cho chúng tôi phải rùng mình.

Cháu ở được nửa năm thì VNHCR cho đưa cháu về Việt Nam theo yêu cầu của bố cháu, vì anh ta không muốn bé Mimi qua Canada đoàn tụ với gia đình bà ngoại. Tôi cũng có liên lạc với người nhà ở Việt Nam để thỉnh thoảng đến thăm cháu.

Thêm một điều nữa vẫn còn gây thắc mắc trong tôi là khi tôi kể lại câu chuyện thì có một anh bạn người Hoa nói:” Nghe anh kể mà tôi rùng mình” Hỏi vì sao thì anh ta đáp: “Tôi còn nhớ bản nhạc cô ấy hát có câu: xin cha mẹ tha thứ tội bất hiếu của con, con xin mượn dòng nước này đưa con về với gia đình”. Lời anh ta dịch đúng hay không thật sự tôi không biết. Chỉ xin kể lại với một sự đồng cảm trong nỗi chua xót đến tận cùng.

Cuối cùng tôi xin được mượn những dòng chữ này để kính dâng lên cô lời khấn nguyện cho linh hồn cô sớm được siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng, và mong cô tha thứ cho tôi đã không làm tròn được ước nguyện sau cùng của cô.

Người ta thường nói chết là hết, giữa cô và tôi mình có quen biết gì nhau đâu thế mà sao bao năm qua rồi lóng tôi sao vẫn còn nhiều cay đắng thế.

Ôi!
Ngỡ ngàng trông như một giấc chiêm bao
Thoảng không rơi rụng giữa ba đào
Thương kiếp hồng nhan đà bạc mệnh
Hồn phơi phách rụng lá nơi nào!
(Sài Gòn trong tôi/ Song Quân)
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to Gibbs For This Useful Post:
ICEEXPRESS (05-23-2025)
Old 05-22-2025   #7
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Nguyễn Phúc Tần (tên chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay Nguyễn Thái Tông, tước hiệu Dương Quận công (勇郡公), là con thứ hai của Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan và Đoàn Qúy Phi.

Ông thường được người trong lãnh thổ gọi là Chúa Hiền Vương (主賢), là vị chúa Nguyễn thứ tư của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1648 đến năm 1687, tổng cộng được 40 năm.

Sách Đại Nam Liệt Truyện chép:” Một hôm Hy Tông ( tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên ) ngự giá tới Quảng Nam, đi theo tháp tùng hộ giá có Nguyễn Phúc Lan (bấy giờ đang là thế tử, về sau lên nối nghiệp chúa, tức chúa Thượng)

Vào một đêm trăng sáng, Nguyễn Phúc Lan đi chơi thuyền trên sông, ghé vào bãi Điện Châu để câu cá, nghe tiếng hát của một người con gái đang hái dâu trên bãi sông. Động lòng, mới cho người tới hỏi thì được biết người con gái đó họ Đoàn. Phúc Lan bèn đem nàng về hầu ở Tiềm để,.Cô gái đó đức hạnh ít ai bằng. Về sau , khi Phúc Lan lên ngôi chúa, nàng sinh cho ông một con trai. Sau này, chính là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần.

Nối nghiệp chúa từ năm Mậu Tý (1648), nhưng khi còn thế tử mang tước là Dũng Lễ Hầu, Nguyễn Phúc Tần đã có một chiến công vô cùng hiển hách.: Năm 1644, theo yêu cầu của chúa Trịnh, chiến thuyền người Ô Lan (Hà Lan) đã vào xâm phạm cảng cửa Eo (Thuận An) của nước ta .

Đoàn thuyền của họ được chia làm hai cánh ; một cánh gồm ba chiến thuyền có tên là Wakende-bode; Kievit và Meerman do Isaac Davids chỉ huy , cánh này tiến thẳng ra Đàng Ngoài để cùng đi với chúa Trịnh.Cánh thứ hai gồm ba chiếc Wojdenes; Waterhond và Vos do Baek chỉ huy.

Ngày 3/6/1644 cả hai đoàn chiến thuyền rời Batavia , theo gió Nồm tiến đến bờ biển nước ta. Trịnh Tráng đem đại đội binh mã 100 000 người rước vua Lê đi cùng với Issac Davids vào. Cả hai đoàn quân giao ước hội quân ở sông Gianh

Khi đoàn thuyền của Baek trên đường đến điểm hẹn thì tại Phú Xuân, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan được tin cấp báo. Sách Đại Nam Thực Lục chép: "Bấy giờ, giặc Ô Lan đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn.

Quân tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế Tử (tức Nguyễn Phúc Tần) tức thì mật báo với Chưởng Cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết.

Thế Tử tự đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra biển. Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền theo đi, đến cửa biển thì thuyền của Thế Tử đã ra ngoài khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng Thế Tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như bay, giặc trông thấy thất kinh hoảng sợ…”(ĐNTL, T1, sdd, tr 55,56)

Đó là ngày 7/7/1644(*) , đoàn thủy binh ta do thế tử Nguyễn Phúc Tần cầm đầu, tiến thẳng ra biển Đông ,vây đánh đoàn thuyền Hà Lan do Baek chỉ huy. Khi đối đầu với đoàn thủy binh của ta, quân Hà Lan quá hoảng sợ , chống cự không nổi, phải bỏ chạy ra khơi.

Trong tình thế hoảng loạn, quân địch tự phóng lửa đốt cháy tàu Wijdenes, tướng Baek chết theo tàu. Binh lính trên tàu sống sót chìm xuống biển, bị quân Nguyễn vớt lên và tiêu diệt. Từ xa, các chiến thuyền khác của Hà Lan thấy chiến thuyền của Phúc Tần nổ súng vang trời , không dám tiến đến sông Gianh nữa, chúng chạy ra trốn ở đảo Tây Sa..

Cũng theo “Đại Nam Thực Lục” , khi hay tin Nguyễn Phúc Tần ra biển một mình, chúa Thượng rất lo lắng, liền tự mình đốc suất binh thuyền đi tiếp ứng. Vừa tới cửa biển, từ xa trông thấy khói đen bốc cao mịt mù ; chúa ra lệnh cho thủy binh ta tiến lên tiếp ứng. Đến khi được tin quân ta thắng trận, chúa mừng lắm, kéo quân về hải đình để chờ. đợi . Khi Nguyễn Phúc Tần đến bái yết, chúa trách:
”Làm thế tử sao không thận trọng giữ mình ?”

Chúa còn trách Tôn Thất Trung về tội không bẩm mệnh. Trung cuối đầu tạ tội , sau đó đã hết lời khen ngợi thế tử. Chuá thượng cười và nói :
”Trước kia, tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế. Ta không lo gì nữa…”. Nói xong, chúa trọng thưởng thế tử và đoàn thủy binh rất hậu…

Trong tài liệu “ Xứ Đàng Trong”, tác giả Litana đã chép như sau:
“Tháng Giêng năm 1943 (?), người Hà Lan gởi một đoàn tàu mới gồm 5 chiếc tới Đàng Ngoài, do Johannes Lamotius chỉ huy, để phối hợp tấn công Đàng Trong, nhưng họ tháy là quân đội Đàng Ngoài chưa sẵn sàng.

Tháng 6 năm 1643, người Hà Lan đã kiên nhẫn gởi thêm một đoàn tàu khác gồm 3 chiếc, dưới quyền chỉ huy của Pieter Baeck. Họ cũng nhận được chỉ thị là phải bắt càng nhiều càng tốt người Đàng Trong khi họ tới ven biển.

Tuy nhiên, khi tới cách sông Gianh khoảng 5 dặm về phía Nam, họ đã bất ngờ nhìn thấy 50 chiến thuyền của họ Nguyễn đang tiến về phía họ. Theo Lê Thành Khôi” trận chiến hoàn toàn là một thảm họa, tàu de Wijdenes ( đô đốc) bị phá huỷ, Baeck bị giết, hai chiếc tàu khác phải vất vả lắm mới thoát được…”

Trong thời gian kế nghiệp chúa, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần được coi là người rất chăm chỉ chính sự, biết trọng người tài, xa rời nữ sắc. Dưới thời chúa, vào năm 1656 , Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến đã kéo quân ra đánh Trịnh, tạm chiếm được 7 huyện ở Nghệ An. Sau đó mới rút quân về. Và kể từ đó , chiến tranh Trịnh- Nguyễn kéo dài từ lâu đã được chấm dứt .

Năm Qúy Tỵ (1653), vua nước Chiêm Thành mang quân sang đánh phá Phú Yên, chúa sai quân đi đánh dẹp. Đổi vùng đất từ Phan Rang trở ra làm Thái Ninh phủ và đặt dinh Thái Khang để coi việc cai trị.

Năm Kỷ Mùi (1659) Dương Ngạn Địch là một tướng cũ của triều Minh, bất phục nhà Thanh, cùng với Trần Thượng Xuyên đem hơn 3 000 quân vào đóng tại của bể Tư Dung xin thần phục. Chúa bèn phong cho họ quan chức, rồi cho vào khai hoang vùng Đông Phố ( Gia Định ); Lộc Dã ( Đồng Nai ) và Mỹ Tho.

Cùng với số di dân từ miền Trung và miền Bắc, họ đã lập nên phố xá đông đúc ở các vùng đất mới. Nhân dân trong vùng có sự giao lưu thương mại với thuyền buôn của nhà Thanh; các nước tây phương và Nhật Bản.

Cũng trong thời gian Hiền Vương trị vì, nhiều vùng đất mới được mở mang. Các kênh Trung Đan, Mai Xá được khơi đào. Bờ cõi vô sự, thóc lúa được mùa. Chúa thực hiện chính sách bớt lao dịch, giảm thuế khóa…

Nguyễn Phúc Tần là người có tình cảm sâu nặng. Sách Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí chép: “Từ khi Thái Phu Nhân Chu Thị qua đời. Hiền Vương buồn rầu thương tiếc, mắt lệ ít khi khô, bữa ăn thường bỏ dở, đêm nằm, vẵn đặt chung đôi gối như khi Thái Phu Nhân còn sống, các mỹ nhân trong cung không mấy khi được gần…”(NTCNDC, sdd, tr 613).

Ngày 19 tháng 3, năm Đinh Mão (30 tháng 4 năm 1687), Hiền Vương không được khỏe, cho triệu con thứ là Nguyễn Phúc Thái đến bảo rằng:
Ta bình sinh ra vào gian hiểm giữ nhà, giữ nước. Con nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho yên bờ cõi. Các quan văn võ đều do ta cất dùng để mưu mọi bề, đừng để bọn tiểu nhân len vào.

Sau đó, Nguyễn Phúc Tần triệu các quan đại thần tới và bảo rằng:
Ta với các khanh một chí hướng với nhau mà công việc mưa đồ chưa trọn. Nay con ta tuổi còn nhỏ, mong nhờ các khanh giúp đỡ cho công việc của tổ tông rõ ràng. Đừng quên lời ấy.

Nói rồi, ông qua đời, thọ 68 tuổi. Lăng mộ tại làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng được đặt tên là Trường Hưng Lăng (長興陵), thụy hiệu của ông là Công Cao Đức Hậu Dũng Triết Vương (功高德厚勇哲王).

Vào đời Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, ông được tặng miếu hiệu là Nghị Tổ (毅祖), thụy hiệu cải thành Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chánh Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết Vương (宣威建武英明莊正聖德神功孝哲 王).

Sách Đại Nam thực lục tiền biên có nhận xét về công nghiệp của Chúa Nguyễn Phúc Tần:
“ Bấy giờ trong cõi vô sự, thóc lúa được mùa. Chúa càng sửa sang chính trị, không xây đài tạ, không gần con hát gái đẹp, bớt nhẹ dao dịch thuế má, trăm họ vui vẻ, đều khen là đời thái bình. ”
— Đại Nam thực lục tiền biên

Con ông là Nguyễn Phúc Thái lên kế nghiệp, tức chúa Nghĩa (主義).

Tại Sài Gòn trước năm 1975 có đường (Chúa) Hiền Vương chạy dài từ Đinh Tiên Hoàng khu Đakao đến bùng binh Công Trường Dân Chủ. Tiếc thay, sau khi Miền Nam Việt Nam bị bọn cộng sản bắc việt ngang ngược cưỡng chiếm ngày 30/ 04/ 1975, con đường bị thay bằng tên của một kẻ hoàn toàn không xứng đáng là võ thị sáu!
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 05-22-2025   #8
Gibbs
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
 
Gibbs's Avatar
 
Join Date: Jan 2005
Posts: 36,459
Thanks: 30,838
Thanked 21,641 Times in 9,907 Posts
Mentioned: 165 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 825 Post(s)
Rep Power: 86
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11Gibbs Reputation Uy Tín Level 11
Default

Sau ngày tang thương 30/4/1975, người Việt tản mác trên khắp thế giới để tỵ nạn cộng sản. Trên Sách Vở, Báo Chí, Hồi Ký, Bút Ký, trên Ðài Truyền Thanh, Truyền Hình, trong các Ðại Nhạc Hội, những lúc Hội Họp các Ðoàn Thể chính trị hay các Tổ Chức khác, trong lúc ngồi nói chuyện quá khứ với nhau, đôi lúc cũng nhắc đến cái chết của những vị Tướng Lãnh hay các Sĩ Quan và Chiến Sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Những cái chết anh hùng đó phải được vinh danh một cách trang trọng xứng đáng, phải được ghi vào Lịch Sử để con cháu chúng ta sau này biết đến sự tuẫn tiết anh dũng của cha anh họ khi đất nước không may rơi vào tay lũ giặc cướp xâm lược từ phương bắc.

Với tinh thần đó, tôi muốn viết lên sự tuẫn tiết của Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng cùng vợ con ngày 29.3.1975 tại Ðà Nẵng.

***
Tám giờ sáng ngày 28.3.1975, Tiểu Ðoàn tôi được lệnh rút về tuyến “vàng” phòng thủ, giữ phía Tây Nam của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I và bảo vệ Pháo Ðội 105 ly của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. Mở bản đồ thì biết đó là Trục Lộ 14C từ Quận Ðiện Bàn đi Ðại Lộc, Thượng Ðức thuộc Tỉnh Quảng Nam. Tiểu Ðoàn chịu trách nhiệm từ Tháp Bằng An đến Phong Thử (khoảng 2 km). Tiểu Ðoàn di chuyển đến địa điểm lúc 10 giờ sáng, đã thấy vài khẩu đại bác 105 ly đã có sẵn ở các ruộng khô cách Tỉnh Lộ 14C khoảng 50 mét.

Sau khi liên lạc với vị Pháo Ðội Trưởng để bàn hoạch phương thức bảo vệ Pháo Ðội, tôi ra lệnh, giao nhiệm vụ, chỉ định vị trí cho từng Ðại Ðội. Bộ Chỉ Huy của Tiểu Ðoàn ở gần Pháo Ðội. Khoảng 12 giờ trưa hôm đó, vị Ðại Úy Pháo Ðội Trưởng báo cho tôi biết là họ được lệnh rút lui sau. Tôi không thắc mắc vì Pháo Binh luôn luôn ở sau để yểm trợ. Tuy nhiên, tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý, Trưởng Ban 3 của tôi gọi về Tiểu Khu hỏi xem chúng tôi có theo họ để bảo vệ súng không?

Hai giờ 30 chiều hôm đó Sĩ Quan Ban 3 của tôi báo cho tôi biết là Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã thông báo là dời về Non Nước. Lúc này, tôi có phần bi quan vì theo dõi tin tức qua máy trên các tần số của các đơn vị ở Vùng I mà chúng tôi có trong đặc lệnh truyền tin.

Bốn giờ chiều, tôi hoàn toàn không liên lạc được với Liên Ðoàn 911 do Trung Tá Lê Văn Thành Chỉ Huy mà Tiểu Ðoàn tôi trực thuộc. Tiểu Khu cũng biệt vô âm tín. Tôi gọi về Trung Tâm Hành Quân của Quân Ðoàn I cũng như của Sư Ðoàn 3 BB, họ quá bận rộn với nhiều Ðơn Vị nên khó chen vào được.

Tôi mời các Ðại Ðội Trưởng và Sĩ Quan Tham Mưu đến cho biết tình hình và bàn kế hoạch. Bây giờ tôi không còn ai chỉ huy nữa nên tôi quyết định rút Tiểu Ðoàn về Hội An để vào Tiểu Khu xem sự việc đồng thời đó là con đường tương đối an toàn và gần nhất để ra Ðà Nẵng.

Ðơn Vị ra Quốc Lộ 1 thì dân, lính họ chạy về Ðà Nẵng quá sức tưởng tượng. Họ đang chạy giặc. Tình hình quá bi đát, một thoáng suy nghĩ trong đầu, tôi ra lệnh tất cả dừng lại ở trong làng cách Quốc Lộ 100 mét, chờ lệnh tôi vì tôi sợ lính ra đây thấy cảnh đó thì bỏ đơn vị về lo cho gia đình.

Tôi tiến sát Quốc Lộ 1 để xem tình hình thì gặp Trung Tá Nguyễn Tối Lạc, Quận Trưởng Ðức Dục. Ông ta cho biết tất cả các Chi Khu của Quảng Nam đều bỏ cả rồi, Tiểu Khu thì về Ðà Nẵng không liên lạc được. Ông ta còn cho biết thêm là Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh vừa cho lệnh ông là trực thuộc Ðại Tá Vũ Ngọc Hướng, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 3 BB.

Ðại Tá Hướng chỉ huy luôn các Tiểu Ðoàn của Tiểu Khu Quảng Nam nữa. Trung Tá Lạc chỉ còn một người mang máy truyền tin, một người lính bảo vệ thôi. Tôi đang đứng với Trung Tá Lạc thì một chiếc chiến xa M-48 từ trong đi ra thấy có Ðại Tá Hướng ngồi trên pháo tháp. Ông ta thấy tôi liền cho xe dừng lại. Tôi là thuộc quyền của ông lúc ông ta còn là Tiểu Khu Phó Quảng Nam và hỏi tôi:
o - Tiểu Ðoàn của mày đâu mà mày đứng đây?

Tôi trả lời:
o - Tiểu Ðoàn tôi còn nằm trong làng này, Ðại Tá.

Tay tôi chỉ vào trong làng gần đó.
o - Có còn đủ không?
o - Còn nguyên, chưa đụng trận nào lớn cả, mà chỉ gặp du kích thôi. Bảo đảm Ðại Tá, chắc Ðại Tá biết Tiểu Ðoàn này rồi mà.
o - Tao hiểu, mày đã nhận lệnh của Thiếu Tướng Hinh chưa?
o - Tôi chưa nhận lệnh trực tiếp của Thiếu Tướng nhưng đã nghe Trung Tá Lạc nói rồi.
o - Tốt, bây giờ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu không còn ai nữa, mày trực thuộc Trung Ðoàn tao, mày có tần số của tao chưa?
o - Có đầy đủ ở đặc lệnh truyền tin rồi Ðại Tá. Bây giờ Ðại Tá cho lệnh thế nào?
o - Theo lệnh Thiếu Tướng, mày cho Tiểu Ðoàn về Hội An phòng thủ với Trung Ðoàn. Ðến nơi, mày vào gặp tao tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để nhận lệnh chi tiết.

Tôi từ giã Ðại Tá Hướng trở lui Tiểu Ðoàn trình bày cuộc nói chuyện và lệnh của Ðại Tá Hướng cũng như Trung Tá Lạc cho các Sĩ Quan nghe. Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi nói:
o Bây giờ chúng ta về Hội An như ý định của chúng ta đã nói. Trên vấn đề quân sự, chúng ta đặt dưới quyền của Ðại Tá Hướng, nếu hữu sự, chúng ta có Lực lượng quân sự cùng chiến đấu. Về đó tùy tình hình ta xử trí sau.
Tại Hội An chúng ta có các điểm lợi sau:
o - Về địa thế chúng ta đã rõ như trong vòng bàn tay.
o - Có kho vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men của Trung Tâm Tiếp Vận Quảng Nam của Tiểu Khu, chúng ta xử dụng nếu chiến đấu nhiều ngày.
o - Nếu, có Lính chết hay Bị Thương thì có Bệnh Viện Hội An có phương tiện cấp cứu, có Bác sĩ Trung Ðoàn 2 và Y tá.
o - Liên Tỉnh lộ 13C từ Ðà Nẵng đi Hội An tương đối an toàn để chúng ta về Ðà Nẵng.

Tôi đã trình bày những điểm lợi hại cho Sĩ Quang rõ, tôi nói tiếp:
o - Nếu phải bỏ Ðà Nẵng như ở Huế và Vùng II thì tôi sẽ vào trình diện Quân Ðoàn để được giúp đỡ vì Tiểu Ðoàn mình còn nguyên chưa bị tổn thất thì thế nào Quân Ðoàn cũng lo cho mình vào Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu. Nếu tận cùng mình dùng quân số đông để áp đảo Hải Quân, yêu cầu được chở vào Nam chiến đấu.

Bây giờ đã 6 giờ chiều, mặc dù còn ánh nắng mặt trời, dân chúng cũng như Binh Sĩ chạy về Ðà Nẵng quá nhiều nên di chuyển Ðơn Vị lớn như thế rất khó khăn, dễ bị thất lạc. Tôi ra lệnh cho các Ðại Ðội Trưởng, Trung Ðội Trưởng phải bám sát binh sĩ của mình đừng cho thất lạc. Nếu thất lạc, họ phải đến điểm tập trung là Ty Công Chánh Hội An. Ðó là điểm tập trung của Tiểu Ðoàn, đừng vào Tiểu Khu. Tôi căn dặn thật kỹ các Ðại Ðội phải ban hành lệnh đếm từng người Lính để họ nắm rõ điểm tập họp.

Sáu giờ 30, Tiểu Ðoàn bắt đầu hướng về Hội An. Lính Sư Ðoàn 2 Bộ Binh Tiểu Khu Quảng Ngãi, Quảng Tín kéo về như kiến cỏ. Họ không còn người Chỉ Huy nên hoàn toàn vô trật tự, vô kỷ luật, chỉ cần một hành động vô ý thức làm chạm tự ái, họ có thể bắn mình một cách dễ dàng.

Tôi đến được Hội An lúc 11 giờ đêm. Tại điểm tập trung, hai Ðại Ðội đầu đã có mặt. Tôi ra lệnh phòng thủ và đợi Tiểu Ðoàn đến cho đầy đủ. Tôi vào Tiểu Khu để gặp Ðại Tá Hướng nhận lệnh.

Mười hai giờ, Tiểu Ðoàn đã đến đầy đủ. Ðại Úy Quý Ban 3 Tiểu Ðoàn, cho tôi biết quân số lúc đó là 470 người. Các Sĩ Quan có đủ, có 20 thường dân là thân nhân của các Quân Nhân của Tiểu Ðoàn theo họ (họ hy vọng nếu có vào Sài Gòn thì họ cùng Tiểu Ðoàn vào Nam được dễ dàng hơn) vì lúc ở Ðiện Bàn, các gia đình này ở đó nên họ biết có Tiểu Ðoàn về nên đem theo luôn.

Có 50 Quân Nhân các Ðơn Vị khác thuộc Tiểu Khu Quảng Nam đã thất lạc Ðơn Vị nay muốn theo chúng tôi. Tôi nói với 50 Quân Nhân này, tôi chấp thuận cho họ ở với Tiểu Ðoàn với điều kiện phải tuyệt đối tuân hành lệnh của các Sĩ Quan Tiểu Ðoàn, nếu bất tuân, tôi ra lệnh bắn bỏ, nhất là lúc đụng trận. Tôi sẽ cho họ về Ðơn Vị gốc khi tôi gặp Ðơn Vị đó. Tất cả họ đồng ý và tôi phân chia cho các Ðại Ðội tác chiến ngay.

Riêng 20 thường dân (trong số này, tôi đã biết họ vì trước đây tôi có đến nhà họ lúc thuận tiện), Tôi ra lệnh cho Trung Sĩ I Thoảng chịu trách nhiệm vì Trung Sĩ I Thoảng là Hạ Sĩ Quan Ban 5 của Tiểu Ðoàn (Trung Úy Trưởng Ban 5 vắng) đồng thời tôi giới thiệu Trung Sĩ I Thoảng cho họ biết và nói:
o “Bà con là thân nhân của Quân Nhân các cấp trong Tiểu Ðoàn tôi, tôi có nhiệm vụ bảo vệ bà con như bảo vệ Lính tôi vậy. Nếu đụng trận bà con nghe lệnh của Trung Sĩ I Thoảng để được an toàn, đừng chạy lộn xộn mà chết, Tiểu Ðoàn đến đâu, tôi đem bà con theo đó”.
Họ hiểu ý tôi nên rất hoan hỉ.

Thành Phố Hội An bây giờ trống vắng, 99% đều bỏ ra Ðà Nẵng lánh nạn. Tiểu Ðoàn rời Ty Công Chánh Quảng Nam để đến vị trí phòng thủ theo lệnh Ðại Tá Hướng. Ðó là hướng Bắc Hội An trên đường ra Ðà Nẵng. Trước khi đi, tôi còn để lại một Tiểu Ðội, một máy truyền tin do một Trung Sĩ của Ban 2 Chỉ Huy để đón nhận những người đến muộn.

Tại vị trí phòng thủ mới, tôi quá mỏi mệt, tinh thần căng thẳng. Tôi đang ngồi suy nghĩ thì Hạ Sĩ I Minh bưng đến một tô cháo và một ly cà phê sữa đang nóng và nói:
o - Mấy ngày nay Thiếu Tá ít ăn, ít ngủ, chỉ uống nước không, lo suy nghĩ nhiều, em thấy Thiếu Tá ốm đó nghe. Thiếu Tá ăn tô cháo hầm bồ câu và uống ly cà phê để có sức đánh giặc chứ.

Tôi đang lo lắng, định bảo dẹp đi, nhưng thấy thuộc cấp của mình thương mình, lo cho mình như thế nên không đành và nói:
o - Mấy ông kia ăn chưa? Bồ câu đâu mày có?
o - Thưa Thiếu Tá, lúc nãy ở Ty Công Chánh có chuồng bồ câu có lẽ của ông Trưởng Ty đã bỏ đi rồi, nên em bắt 4 con, em biết Ðại Bàng sẽ rầy, nhưng giờ này có khỏe mới giết được việt cộng chứ Ðại Bàng.
o - Thôi được, để đó, đừng mắc võng nữa nghe.

Từ sáng đến giờ, tôi chỉ uống nước không ăn gì ngoài một tô mì gói có đập vào hai hột gà cũng do Hạ Sĩ I Minh làm mà thôi. Cảm thấy đói, hớp mấy miếng cà phê, ăn được gần nửa tô cháo thì nghe tiếng trực thăng, tôi nhìn ra thì thấy từ hướng Quân Ðoàn I có hai chiếc máy bay bay vào khá cao. Tôi bảo Trung Úy Bình, Sĩ Quan Truyền Tin mở máy qua tần số Quân Ðoàn liên lạc xem sao. Không liên lạc được mặc dù Bình đã có tất cả đặc lệnh truyền tin trong tay, đã liên lạc nhiều tần số và nhiều giới chức có thể đi bằng máy bay nhưng vô hiệu. Tôi biết chắc đó là máy bay Quân Ðoàn, nhưng không biết giới chức nào mà thôi.

Lúc này, tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi ra lệnh Ðại Úy Quý, Trưởng Ban 3 gọi các Ðại Ðội Trưởng về họp đồng thời thu hết Tiểu Ðội ở Ty Công Chánh trở về Tiểu Ðoàn. Tôi còn ra lệnh Ðại Úy Hà Thúc Thuyên đi với một máy, vài Lính bảo vệ đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu xem Ðại Tá Hướng thế nào mà không liên lạc được.

Bây giờ là 2 giờ sáng ngày 29.3.1975. Ðại Úy Thuyên báo Trung Ðoàn 2 đã âm thầm ra hướng biển để về Ðà Nẵng. Tiểu Ðội ở Ty Công Chánh đã đến Tiểu Ðoàn mang theo 9 người Lính đến muộn. Tôi cho về lại Ðại Ðội của họ cả. Như thế giờ này Tiểu Ðoàn có 479 Quân Nhân tham chiến chưa kể 50 Quân Nhân các Ðơn Vị khác đi theo. Sau một hồi bàn thảo của Sĩ Quan Tham Mưu và các Ðại Ðội Trưởng, tất cả quyết định rút về Ðà Nẵng, vào trình diện Quân Ðoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý và trình bày:
o - Bây giờ còn sớm, chưa tới 3 giờ, chúng ta đến Chùa Non Nước sẽ gặp Ðơn Vị phòng thủ Quân Ðoàn ở đó trời chưa sáng, họ không nhận diện được ta có thể ngộ nhận và bắn lầm. Tôi quyết định 4 giờ sáng chúng ta xuất phát theo đội hình Ðại Ðội 1 đi dẫn đầu, Ðại Ðội 3 bên trái, Ðại Ðội 4 bên phải, Ðại Úy Thuyên Tiểu Ðoàn Phó đi với Ðại Ðội này vì có Trung Ðoàn 2 đi ra biển, nếu gặp tiện việc liên lạc hàng ngang tránh ngộ nhận. Ðại Ðội 2 đi sau, Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn đi giữa, gia đình đi sau Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn. Trên đường đi nếu chạm địch, chúng ta phải yểm trợ nhau đưa nhau về Ðà Nẵng. Tất cả, nếu không ai có ý kiến gì khác thì về Ðơn Vị chuẩn bị lên đường khi có lệnh.

Ðúng 4 giờ sáng ngày 29.3.1975, Tiểu Ðoàn bắt đầu di chuyển thứ tự theo lệnh như đã phân nhiệm. Trên đường đi, chúng tôi không gặp một sự kháng cự nào, chỉ gặp vài tên du kích thổ phỉ bắn lẻ tẻ, vô sự, các Ðại Ðội phản ứng nhưng vẫn tiến quân.

Gần 9 giờ sáng, Ðại Ðội đầu do Trung Úy Thành Chỉ Huy báo cáo đã đến Non Nước, gặp đơn vị bạn, đã nhận diện và nói chuyện vời nhau. Trung Úy Thành nói chuyện đã gặp một Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến đang ngồi trên chiến xa nói là họ được lệnh không cho một quân nhân nào vào Ðà Nẵng mà mang súng, muốn vào phải bỏ súng ở đây. Tôi nghe cũng ngạc nhiên. Lính mà không cho mang súng thì đánh giặc bằng gì, ôm mà cắn hả? Lệnh gì kỳ cục vậy.

Tôi nói cho Trung Úy Thành ra lệnh cho binh sĩ đứng tại chỗ, cấm phản ứng để tôi lên tiếp xúc. Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quý là các Ðại Ðội thu hẹp gần Tiểu Ðoàn, bố trí tại chỗ chờ lệnh và nói Ðại Úy Thuyên đến gặp tôi. Trên con đường đến gặp Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến, tôi suy nghĩ: Tình hình an ninh Ðà Nẵng rất xấu, đã có việt cộng cải trang thành lính xâm nhập rồi, nên mới có lệnh đó.

Tôi gặp vị Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến và trình bày sự việc để xin được vào Ðà Nẵng. Ông ta dứt khoát và bảo đó là lệnh, tôi không thể sai được. Tôi cũng biết lệnh của Quân Ðội, tôi nói tình lý cho Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến và gần như năn nỉ. Ông ta mềm lòng và nói để hỏi lại cấp trên. Tôi tìm hiểu Thiếu Tá Ðịnh là cấp trên của ông ta vì Thiếu Tá Ðịnh học chung một Khóa Bộ Binh cao cấp với tôi năm 1973 ngủ chung một phòng, cùng người Huế, nên chúng tôi cũng thân nhau.

Tôi cũng nói cho ông ta biết là tôi cũng là bạn thân với Thiếu Tá Ðịnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Thủy Quân Lục Chiến, vị Ðại Úy này xác nhận là Thiếu Tá Ðịnh là Tiểu Ðoàn Trưởng của ông ta. Ông ta nói chuyện với Thiếu Tá Ðịnh sau đó trao máy cho tôi để nói chuyện. Thiếu Tá Ðịnh cho tôi biết Quân Ðoàn đã đi hết, đã bỏ ngõ, Thủy Quân Lục Chiến cũng đang tự tìm cách về Sài Gòn chưa biết tính sao đây. Thế là hết! Tôi trả máy cho Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến.

Tôi ra lệnh Ðại Úy Quý gọi tất cả Sĩ Quan đến gặp tôi. Bây giờ là 9 giờ 30 sáng ngày 29.3.1975 tại Chùa Non Nước, Ðà Nẵng. Vị Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến cũng báo cho tôi biết là tôi được tự do vào Ðà Nẵng. Tôi chỉ nói cám ơn. Chiến xa nổ máy quay đầu chạy lui về Ðà Nẵng có tùng thiết Thủy Quân Lục Chiến theo. Thiếu Tá Ðịnh Thủy Quân Lục Chiến cũng cho tôi biết không còn phương tiện vào Sài Gòn nữa, chính đơn vị ông ta cũng phải tự lo liệu lấy. Không ai chỉ huy nữa. Hải Quân ở Tiên Sa cũng nhổ neo hết rồi.

Tất cả Sĩ Quan có mặt. Tôi trình bày tình hình Quân Ðoàn, Hải Quân do Thiếu Tá Ðịnh cho biết chính ông ta cũng không biết xử trí thế nào. Tôi nói:
o - Tôi đã cùng Quân Nhân các cấp trong Tiểu Ðoàn chiến đấu bên nhau bấy lâu nay, nhất là sau Tết cho đến bây giờ, tình hình chiến sự sôi động, gian lao khổ cực cùng anh em. Tôi đã đoán được tình hình, cố gắng đưa Tiểu Ðoàn về đây để được cùng nhau vào Sài Gòn tiếp tục chiến đấu, nhưng bây giờ sự việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta, tôi rất đau khổ về sự việc này.

Tôi cũng kể về sự tiếp xúc của tôi và Thiếu Tá Ðịnh Thủy Quân Lục Chiến, sự suy luận của tôi, sự hiểu biết về tình hình của tôi cho tất cả nghe và nói tiếp:
o - Không nên tập trung cả Ðại Ðội, sợ bị tấn công bất thường, chỉ từng Trung Ðội giải thích cho họ hiểu, thông cảm tìm cách vào Sài Gòn hoặc về gia đình tùy ý. Quyền Chỉ Huy bây giờ tùy nghi các anh lo liệu. Nếu ai về nhà thì vũ khí nên phá hủy đừng để lọt vào tay việt cộng. Các bạn tự do thi hành theo ý mình, điều cần nhất là phải an ủi, giải thích cho Lính hiểu tâm trạng của chúng ta bây giờ.

Có nhiều người lưỡng lự chưa muốn đi. Lúc này tôi như cái xác không hồn, ngồi xuống đất, dựa vào cổng trụ cửa ngõ của một nhà bên đường xem phản ứng của Quân Nhân các cấp của Tiểu Ðoàn như thế nào. Các Sĩ Quan đã đến chia sẻ sự đau khổ của tôi, mỗi người một ý.

Mười giờ 30 sáng ngày 29.3.1975. Tôi vẫn ngồi yên tại chỗ. Trung Ðội Tình Báo của Ban 2 vẫn đứng quanh tôi để bảo vệ như những lúc hành quân. Trung Sĩ I Nguyễn Thoảng đến đứng trước mặt tôi nghiêm đưa tay chào một cách trịnh trọng rồi nói:
o - Chắc em không vào Sài Gòn đâu Thiếu Tá. Cả Quân Ðoàn không một trận đánh nào mà đã bỏ đi cả, em thấy buồn chán quá rồi! Em chúc Thiếu Tá nhiều may mắn, cố gắng vào cho được Sài Gòn.

Cái xác không hồn của tôi vẫn ngồi dựa vào trụ vôi, không chào lại, không bắt tay từ giã, tôi nói:
o - Tao bây giờ không biết tính sao, tao cố gắng đưa đơn vị về tới đây để cùng vào Nam song không ngờ như thế này, tao rất thương anh em nhưng bây giờ ngoài tầm tay tao rồi !

Vợ Trung Sĩ I Thoảng và 2 con, một đứa 6 tuổi, một đứa 4 tuổi cùng đi với Tiểu Ðoàn từ hôm qua. Chị ta bước tới trước mặt tôi và nói:
o - Em chúc Thiếu Tá lên đường bình an vào cho được Sài Gòn nghe Thiếu Tá, chứ việt cộng đến cỡ Thiếu Tá nó giết chứ không tha đâu.

Tôi đứng dậy xoa đầu hai đứa nhỏ đang đứng bên mẹ, có lẽ phản ứng lịch sự đối với đàn bà chứ tôi đã có đến nhà chị ta mấy lần rồi, nên cũng thường thôi. Tôi nói:
o - Tôi cũng không biết có đi được không, đến đâu hay đó, Thoảng thì chắc nó không giết đâu vì nó cấp bậc nhỏ mà là chiến tranh chính trị ăn thua gì. Cố gắng lo cho hai đứa nhỏ.
o - Cám ơn Thiếu Tá, chúc Thiếu Tá thượng lộ bình an. Thoảng tiến lên một bước, đưa tay chào tôi lần nữa.

Tôi cũng không chào lại, đưa tay bắt và nói:
o - Thôi mày về đi, tùy tình hình địa phương mà sống chắc không can gì đâu.

Anh ta đến chào Ðại Úy Hà Thúc Thuyên Tiểu Ðoàn Phó, Ðại Úy Lê Ngọc Nhựt Trưởng Ban 2 Tiểu Ðoàn và Ðại Úy Huỳnh Văn Quý Ban 3 Tiểu Ðoàn rồi từ giã ra đi. Ðến lúc này chỉ còn những Sĩ Quan đó và khoảng 20 Lính của Trung Ðội Tình Báo mà thôi. Còn tôi lại ngồi xuống đất dựa vào trụ vôi. Ðại Úy Thuyên đến nói:
o - Thôi mình cứ về Ðà Nẵng rồi hãy tính.

Tôi đang chán nản chưa có quyết định nào dứt khoát thì bỗng nghe một tiếng nổ lớn phía sau nhà tôi đang ngồi. Lính tôi phản ứng ngồi xuống trong thế sẵn sàng tác chiến. Tôi nói:
o - Minh, mày ra xem cái gì đó?

Minh đi với hai người lính nữa, sau hơn 5 phút chạy lui, trả lời:
o - Thiếu Tá ơi! Ông Trung Sĩ I Thoảng tự tử bằng lựu đạn với vợ con ông ta rồi !

Tôi quá bàng hoàng và xúc động, tự nhiên tôi bật khóc. Tôi đã đứng trước hàng trăm cái chết, sự rên la đau đớn, sự nhắn gởi trối trăn của thuộc cấp sắp chết mặc dầu tôi rất xúc động, tôi cũng có trái tim biết đau khổ nhưng tôi tự kềm chế không bao giờ khóc, nhiều lắm là đỏ con mắt. Tôi cố gắng kềm chế không để cho thuộc cấp biết sự mềm yếu về tình cảnh của tôi. Thế mà hôm nay không hiểu sao tôi lại bật khóc, có lẽ đây là lần khóc đầu tiên và cũng là lần khóc cuối cùng trong 13 năm quân ngũ của tôi đối với thuộc cấp. Tôi hỏi:
o - Nó chết ở đâu?
o - Ông chết ở nhà kia.

Theo tay chỉ của Minh thì sau căn nhà tôi đang đứng cách một cái nữa. Tôi đi theo Minh, 6 người lính bảo vệ tôi cũng đi theo. Căn nhà tôn nhỏ xây vách chung quanh. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi. Bốn thi hài không toàn vẹn, một xách áo quần, mền còn để lại trong một góc của căn nhà, máu đang chảy, xương thịt văng tung tóe dính cả vào tường.

Tôi không nói gì, quan sát và đứng nghiêm chào vĩnh biệt 4 anh hùng rồi ra đi. Các binh sĩ theo tôi cũng bắt chước chào rồi đi ra đường. Người lính đi theo sau tôi nói:
- Ông Thoảng và vợ ông là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Ðảng đó Thiếu Tá.

Bây giờ là 11 giờ ngày 29/3/1975.

Một Trung Sĩ I cấp bậc quá nhỏ so với tôi, một thuộc cấp mà trước đây tôi đã từng có lúc gọi bằng “thằng”, một phần vì anh ta nhỏ tuổi hơn tôi, phần khác vì gọi như thế cho thân mật, có những lỗi lầm mà tôi đã rầy la đôi khi còn nặng lời nữa, thế mà hôm nay tôi phải gọi là Ông, Ông Thoảng, với lòng tôn kính vì đây là một Vị Anh Hùng hơn tôi rất nhiều, ít nhất là lòng can đảm, sự thể hiện bất khuất không thể sống chung với cộng sản.

Hôm nay tôi viết để vinh danh một Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho con cháu sau này biết đến.

Xin nghiêng mình tôn vinh một Vị Anh Hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
__________________
Gibbs_is_offline   Reply With Quote
Old 05-22-2025   #9
ngoclan2435
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
Join Date: Mar 2010
Posts: 2,470
Thanks: 718
Thanked 2,350 Times in 1,096 Posts
Mentioned: 10 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 466 Post(s)
Rep Power: 23
ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9
ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9ngoclan2435 Reputation Uy Tín Level 9
Default

vnchcir Ăn Cơm Hải Ngoại nhưng lại Thờ Ma Cộng Sản
Tôi rất ghét những người ăn cơm Mỹ, ở nhà Mỹ, kiếm tiền từ người Mỹ, nhưng luôn chê trách cuộc sống, và đất nước Mỹ. Những người chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, không bao giờ thành công và hài lòng với những gì họ đạt được... Nếu thật sự ở Việt Nam tốt hơn trong mắt họ, thì họ nên về đó mà sống, sang Mỹ làm gì !...


Những thằng và những con mà có ý nghĩ như trên, tất cả chúng nó đều chưa thấy quan tài nên chưa đổ lệ! Đa số chúng nó là những đứa không biết chiến tranh là gì. Tất cả chúng nó đều có chung 1 ý nghĩ: "Ôi! mình cũng là máu đỏ da vàng như họ mà thôi". Chúng nó không có 1 chút khái niệm Cộng Sản nó nham hiểm, tàn độc ra sao. "Ăn cây nào, rào cây ấy" bọn này toàn là lũ "ăn cháo đái bát". Bòn rút tiền của nước Mỹ qua những gian lận welfare, rồi đem tiền về để cúng cho bọn Cộng Sản. Thật không còn gì đê tiện, hèn hạ với bọn "ăn cơm quốc gia, nhưng thờ ma Cộng Sản" này.
ngoclan2435_is_offline   Reply With Quote
The Following User Says Thank You to ngoclan2435 For This Useful Post:
Gibbs (05-22-2025)
Old 05-22-2025   #10
NguoiTânĐinh
R6 Đệ Nhất Cao Thủ
 
Join Date: Nov 2020
Posts: 4,141
Thanks: 32
Thanked 845 Times in 523 Posts
Mentioned: 15 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 360 Post(s)
Rep Power: 9
NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3NguoiTânĐinh Reputation Uy Tín Level 3
Default

Ai thích gì thì cứ làm thế nấy chứ có cái đéo gì mà phải lèm bèm. Mẹ kiếp. Tổ quốc đất nước mình mà mình còn đéo biết giữ gìn. Dân mình mà mình biết đéo bảo vệ cho an toàn. Bô bô tối ngày... Danh Dự Tổ Quốc Trách Nhiệm, mà có làm ra cái đéo gì đâu. 50 năm trốn chui trốn nhủi như chuột cống; thì chúng nó có "chê" Mỹ cũng có lí do của nó (đéo phải ai cũng giống ai), muốn chọn "tổ quốc" của chúng ở đâu thì cũng.. kệ mẹ chúng nó. Mình làm hay ho hơn giỏi giang hơn thì tức khắc chúng nó lại... "theo mình".... Mẹ bố tiên sư...
NguoiTânĐinh_is_offline   Reply With Quote
Reply

User Tag List



 
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
New Menu

Tin nóng nhất 24h qua

Tin nóng nhất 3 ngày qua

Tin nóng nhất 7 ngày qua

Tin nóng nhất 30 ngày qua

Albums

Total Videos Online
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

Tranh luận sôi nổi nhất 7 ngày qua

Tranh luận sôi nổi nhất 14 ngày qua

Tranh luận sôi nổi nhất 30 ngày qua

10.000 Tin mới nhất

Tin tức Hoa Kỳ

Tin tức Công nghệ
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

Super News

School Cooking Traveling Portal

Enter Portal

Series Shows and Movies Online

SERIES ONLINE 1

Donation Ủng hộ $3 cho VietBF
Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.

Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px

All times are GMT. The time now is 01:23.
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.
Log Out Unregistered

Page generated in 0.17121 seconds with 15 queries