Những thực phẩm nào không được mang vào Mỹ, không khai báo thì bị phạt bao nhiêu tiền?
Nếu bạn bị thanh tra tại sân bay quốc tế, cửa khẩu biên giới hoặc cảng biển lấy mất thực phẩm, cây trồng hoặc đồ lưu niệm, chúng tôi muốn bạn hiểu lý do.
Theo quy định của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), một số mặt hàng nhất định được mang vào Hoa Kỳ từ nước ngoài bị hạn chế. Các mặt hàng nông nghiệp bị cấm có thể chứa sâu bệnh thực vật và bệnh động vật ngoại lai có thể gây hại nghiêm trọng cho cây trồng, vật nuôi và môi trường của Hoa Kỳ - và một phần lớn nền kinh tế của đất nước chúng ta.
Tất cả du khách nhập cảnh vào Hoa Kỳ đều phải khai báo thịt, trái cây, rau, cây trồng, hạt giống, đất, động vật cũng như các sản phẩm thực vật và động vật (bao gồm súp hoặc các sản phẩm súp) mà họ có thể mang theo. Tờ khai phải bao gồm tất cả các mặt hàng được mang trong hành lý ký gửi, hành lý xách tay hoặc trong xe.
Sau khi kiểm tra thực vật, sản phẩm động vật và các mặt hàng liên quan, các chuyên gia nông nghiệp của Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ (CBP) tại các cảng nhập cảnh sẽ xác định xem các mặt hàng này có đáp ứng các yêu cầu nhập cảnh của Hoa Kỳ hay không.
Luôn khai báo các mặt hàng nông nghiệp bằng cách đánh dấu “Có” vào Câu hỏi 11 của Mẫu khai báo CBP 6059B. Cũng đánh dấu “Có” nếu bạn đã đến trang trại hoặc ở gần gia súc, vì chuyên gia nông nghiệp có thể cần kiểm tra giày dép hoặc hành lý của bạn để tìm dấu vết đất có thể chứa các bệnh động vật lạ như lở mồm long móng.
Tránh bị phạt và chậm trễ Các mặt hàng bị cấm mà hành khách không khai báo sẽ bị tịch thu và xử lý bởi các chuyên gia nông nghiệp của CBP. Quan trọng hơn, các hình phạt dân sự có thể được áp dụng đối với hành vi không khai báo các sản phẩm nông nghiệp bị cấm và có thể lên tới 1.000 đô la cho lần vi phạm đầu tiên đối với số lượng không phải thương mại. Nếu các mặt hàng được xác định là để sử dụng cho mục đích thương mại, các hành vi vi phạm sẽ được đánh giá ở mức cao hơn nhiều. Các khoản tiền phạt tương tự cũng áp dụng đối với các sản phẩm nông nghiệp bị cấm được gửi qua đường bưu điện quốc tế.
Hướng dẫn chung:
Trái cây, Rau và Thực vật
Tùy thuộc vào quốc gia xuất xứ, một số loại trái cây, rau và thực vật có thể được mang vào Hoa Kỳ mà không cần xin phép trước, miễn là chúng được khai báo, kiểm tra và không có sâu bệnh. Tuy nhiên, một số loại cây và BẤT KỲ bộ phận nào của cây dùng để trồng (nhân giống) đều phải có giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật nước ngoài trước. Để biết thông tin về giấy chứng nhận, hãy liên hệ với Đơn vị cấp phép kiểm dịch và bảo vệ thực vật của USDA/APHIS theo số (301) 851-2046 hoặc (877) 770-5990. Ngoài ra, hãy kiểm tra phần Tài nguyên thông tin ở cuối thông báo này để biết thông tin chi tiết.
Thịt và các sản phẩm từ động vật và sản phẩm phụ
Nhiều loại thịt tươi, khô và một số loại đóng hộp và sản phẩm phụ từ thịt bị cấm nhập vào Hoa Kỳ từ các quốc gia nước ngoài do mối đe dọa liên tục của bệnh lở mồm long móng (FMD), bệnh não xốp ở bò (BSE hoặc bệnh bò điên) và các bệnh động vật khác. Nếu thịt từ các quốc gia bị hạn chế được đưa vào làm thành phần trong sản phẩm (ví dụ: nước dùng thịt bò), thì sản phẩm đó thường bị cấm.
Do các quy định liên quan đến thịt và các sản phẩm phụ từ thịt thay đổi thường xuyên, du khách nên liên hệ với lãnh sự quán hoặc văn phòng nông nghiệp địa phương tại quốc gia xuất xứ để biết thông tin mới nhất về tình hình dịch bệnh của quốc gia đó.
Các loại cúp săn bắn động vật, xác động vật săn bắn và da bị hạn chế nghiêm ngặt. Để tìm hiểu thông tin chi tiết và cách sắp xếp đưa chúng vào Hoa Kỳ, hãy liên hệ với Dịch vụ Thú y USDA/APHIS, Trung tâm Xuất nhập khẩu Quốc gia (NCIE) theo số (301) 851-3300, qua email tại: AskNCIE.Products@aph is.usda.gov hoặc VS-Live.Animals_Import. Permits@aphis.usda.g ov hoặc trên Web tại Dịch vụ Thú y - Bảo vệ Sức khỏe Động vật (Xuất nhập khẩu). Việc xuất nhập khẩu động vật hoang dã (và có nguy cơ tuyệt chủng) được quản lý bởi Bộ Nội vụ Hoa Kỳ, Cơ quan Cá và Động vật hoang dã (FWS). Để biết danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng, hãy kiểm tra thông tin sau: http://www.cites.org.
Động vật và Chim sống
Động vật và chim sống có thể nhập cảnh vào Hoa Kỳ tùy thuộc vào chứng nhận, một số giấy phép, quy định kiểm tra và kiểm dịch, thay đổi rất nhiều tùy theo loại động vật và nguồn gốc của chúng, đồng thời cũng có thể bị hạn chế bởi một số sở nông nghiệp của tiểu bang.
Để biết thông tin chung và đơn xin cấp phép, hãy liên hệ với APHIS/NCIE theo số (301) 851-3300. Liên hệ với CDC qua email tại CDCAnimalImports@cdc .gov. Bạn cũng có thể truy cập Trung tâm quốc gia về bệnh truyền nhiễm trên web - Traveler's Health.
Các vật liệu sinh học khác
Một quy trình cấp phép nghiêm ngặt quản lý hầu hết các sinh vật, tế bào và nuôi cấy, kháng thể, vắc-xin và các chất liên quan, cho dù có nguồn gốc từ thực vật hay động vật. Các mẫu sinh học của sâu bệnh thực vật, trong chất bảo quản hoặc khô, có thể được nhập khẩu mà không bị hạn chế, nhưng phải chịu sự kiểm tra khi đến Hoa Kỳ. Việc này được thực hiện để xác nhận bản chất của vật liệu và để đảm bảo rằng vật liệu không có sâu bệnh hoặc sâu bệnh thực vật "đi nhờ". TẤT CẢ các mặt hàng này phải được khai báo và trình bày để kiểm tra khi nhập cảnh vào Hoa Kỳ. Để biết thông tin và đơn xin cấp phép, hãy liên hệ với NCIE: AskNCIE.Products@aph is.usda.gov hoặc VS-Live.Animals_Import. Permits@aphis.usda.g ov hoặc trên Web tại Veterinary Services - Safeguarding Animal Health (Import/Export).
Đất, Cát và Khoáng chất
Các sinh vật trong đất đe dọa cả thực vật và động vật. Nếu bạn đến thăm một trang trại hoặc nông trại ở nước ngoài, các chuyên gia nông nghiệp có thể phải kiểm tra và khử trùng giày dép hoặc quần áo của bạn. Xe cộ cũng phải được làm sạch mọi loại đất. Không được phép mang bất kỳ loại đất hoặc đất nào vào Hoa Kỳ nếu không có giấy phép do Đơn vị cấp phép kiểm dịch và bảo vệ thực vật của USDA cấp trước. Cát nguyên chất, chẳng hạn như một thùng cát trang trí nhỏ trên bãi biển, thường được phép mang vào. Luôn kiểm tra với đơn vị cấp phép trước để biết thông tin chi tiết.
Xin vui lòng - Hãy làm phần việc của bạn để giúp bảo vệ nền nông nghiệp Hoa Kỳ
Khi lập kế hoạch cho chuyến đi của mình, hãy nhớ rằng các quy định thường xuyên thay đổi trên toàn thế giới, tùy thuộc vào sự bùng phát của các loại bệnh thực vật và động vật. Vì vậy, bất kể mặt hàng đó có được phép hay không, du khách vẫn có trách nhiệm khai báo các mặt hàng đó và xuất trình để kiểm tra khi trở về Hoa Kỳ.
Khai báo tất cả các sản phẩm liên quan đến nông nghiệp khi nhập cảnh vào Hoa Kỳ. Danh sách chung về Thực phẩm và Sản phẩm Thực vật được chấp thuận
Sản phẩm từ Canada và Mexico
Nhiều sản phẩm được trồng ở Canada hoặc Mexico được phép nhập cảnh vào Hoa Kỳ. Bao gồm nhiều loại rau và trái cây; tuy nhiên, khoai tây giống từ Canada hiện yêu cầu phải có giấy phép và cà chua tươi và ớt chuông bị cấm nhập cảnh vào Canada. Ngoài ra, trái cây có hột, táo, xoài, cam, ổi, sopote, cherimoya và chanh ngọt từ Mexico yêu cầu phải có giấy phép. Bơ từ Mexico đã gọt vỏ, cắt đôi và bỏ hạt có thể nhập cảnh nếu ở dạng lỏng hoặc đóng gói chân không nhưng phải chịu sự kiểm tra.
Tài nguyên thông tin cho du khách
Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ (CBP) hiện đang thu thuế nhập khẩu, tiến hành kiểm tra nhập cư và thông quan hành khách và tiến hành kiểm tra và thông quan các mặt hàng nông nghiệp (ở khu vực thương mại và hành khách) tại các cảng nhập cảnh của Hoa Kỳ. Trang web này chứa nhiều thông tin về cả quy định và yêu cầu xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng và hàng hóa. Từ trang chủ của trang web, hãy nhấp vào "Câu hỏi" và tìm kiếm câu trả lời trong cơ sở dữ liệu về một chủ đề cụ thể hoặc nhấp vào phần "Nhập khẩu", "Xuất khẩu" hoặc "Du lịch" để biết thông tin chi tiết. Đơn vị cấp phép APHIS-PPQ, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, có thể cung cấp thông tin về các yêu cầu và giấy phép nhập khẩu đối với thực vật, bộ phận thực vật, trái cây, rau quả và các mặt hàng nông nghiệp khác. Gọi đến đơn vị theo số (301) 851-2046 hoặc (877) 770-5990 hoặc truy cập trang web tại Dịch vụ Kiểm tra Sức khỏe Động vật và Thực vật.
Bạn cũng có thể viết:
USDA, APHIS
Bảo vệ và kiểm dịch thực vật
4700 River Road, Unit 136
Riverdale, MD 20737-1236, Attn: Permit Unit
Dịch vụ thú y APHIS, Trung tâm quốc gia về xuất nhập khẩu (NCIE) có thể cung cấp thông tin về việc nhập khẩu động vật sống và các sản phẩm từ động vật. Gọi (301) 851-3300, gửi email đến: AskNCIE.Products@aph is.usda.gov hoặc VS-Live.Animals_Import. Permits@aphis.usda.g ov hoặc truy cập trang web Veterinary Services - Safeguarding Animal Health (Xuất nhập khẩu).
Cơ quan Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ quản lý việc nhập khẩu và xuất khẩu các loại thực vật và động vật hoang dã và có nguy cơ tuyệt chủng và các sản phẩm liên quan. Để biết thông tin, hãy truy cập trang web của USFWS tại U.S. Fisheries and Wildlife Services.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) quản lý việc nhập khẩu một số loài động vật nhất định và đưa ra các quy định cụ thể cho các loài linh trưởng và vật nuôi không phải người. Liên hệ với CDC tại Atlanta theo số (404) 639-3311 hoặc (800) 231-4636. Bạn cũng có thể truy cập Trung tâm Quốc gia về Bệnh truyền nhiễm trên web - Traveler's Health.
Ăn để mà sống, nhưng sống mà ăn không ngon thì khó sống dai, vì con người đâu phải là cái máy để ăn, vả lại cái máy nếu chạy với xăng xấu thì khó chạy bền… Ăn phải ngon, và cái ngon ấy nên mua với giá vừa phải. Ăn còn là vấn đề “văn hóa dân tộc”, nói như vậy không quá đáng. Mỗi dân tộc thích những món riêng, ăn mãi dễ chán, nhưng lâu ngày không ăn đến nó thì nhớ nhà, nhớ ông bà ông vải, nhất là vào dịp Tết hoặc khi tuổi đã cao. Lắm của nhiều tiền nhưng vẫn nhớ đến món bình dân, ăn với bạn bè, trong không khí riêng, vừa túi tiền, không gây độc hại.
Sài Gòn là đầu mối giao lưu. Người Hoa nổi danh thế giới về món ăn, kỹ thuật pha chế lắm khi cầu kỳ, nhưng cũng có nhiều điều hay. Là người sống với mức thu nhập bậc trung hoặc thấp, tôi chi dám nêu ra một vài cảm tưởng. Vào vài quán ở Chợ Lớn, chưa chi ta đã vui khi nhìn vào thực đơn, viết chữ to treo trên vách: “Con gà hấp muối.” “Con cá chưng tương.” Chữ con quả là dư. Ở góc Hải Thượng Lãn Ông (quên địa chỉ chính xác), có món bánh bao nướng, món xôi gói như cái bánh ú to tướng, với tiếng réo gọi nhà bếp, ồn ào. Món ăn người Hoa nói chung dùng quá nhiều mỡ heo, đặc biệt là ít khi dùng rau sống. Rau được nấu chín để sát trùng, phải chăng là dấu ấn của buổi dùng toàn “phân tươi”? Ta tiếp thu kỹ thuật nấu nướng của người Hoa. đặc biệt là dùng cái lẩu, lẩu là lô, cái lò, còn gọi là cái “cù lao”.
Những tiệm mì nổi danh có lẽ ở vùng Cầu Bông, thí dụ như Hải Ký, với vài chi nhánh. Mì ngon cán nhồi bằng tay, nhờ vậy mà ăn nghe “xừng xực” như ăn bánh đúc gân.
Cháo vịt Thanh Đa mãi đông khách; quán từ vách lá đơn sơ, không mấy chốc xây lên nhà lầu. Rẻ mà ngon, vịt luộc chặt ra mỗi miếng thịt…. đáng một miếng, nào mỡ, nào nạc, mềm mại, thêm rau thơm, bắp chuối hột, nhưng để ăn cho “bắt” cần thứ nước chấm đặc biệt. Dạo trước dùng giống vịt mập và lùn, gọi vịt bầu hoặc vịt Sa Đéc, nhưng sau này còn “vịt siêu thịt”, giống ngoại, lai tạo ở Gò Vấp. Không như gà, vịt nuôi công nghiệp dường như ngon, nào kém vịt nuôi kiểu cổ truyền. Chủ quán và con gái phục vụ đeo vàng đầy cườm tay. Thử ra sau bếp, ta thấy một toán chuyên nhổ lông vịt không ngừng tay, khối lượng lông vịt bán ra hàng ngày cũng là nguồn lợi. Phải chăng món ngon thường ở ngoại ô? Khách đến quán đã thấm mệt và đói bụng. Cứ gọi ngay một đĩa huyết và lòng vịt để “khởi động cơ thể”.
Cơm tấm nhiều nơi ngon, người sành điệu ở mỗi địa phương cho rằng, xóm mình ngon nhất. Phải chăng cơm tấm xuất phát từ Bà Chiểu, sau năm 1945, ở đầu con đường nhỏ đối diện bệnh viện rồi phổ biến đến Thuận Kiều? Nơi nào khách đến đông, bảo đảm ngon và rẻ. Nấu với loại gạo ngon, hột tấm rời rạc, không chèm nhẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là nước mắm.
Bánh xèo, gốc là bánh khoái ở xứ Huế, cải tiến lại, rau phải có cải xanh (vị cay như mù tạt).
Hồi xưa, bánh xèo là món “phàm phu”, nay thêm nhân thịt heo, tôm, thịt vịt, lắm khi có đậu xanh. Bánh phải giòn ở rìa, bí quyết có lẽ khi xay bột pha thêm cơm nguội và đậu xanh luộc cho thơm ngon vừa dai vừa giòn. Vẫn cần nước mắm thích hợp, giá cao nhưng một cái bánh là trọn bữa ăn. Bánh xèo A-Phủ nổi danh. Ở trước Trường Mỹ Thuật Gia Định bày bán bánh xèo bình dân, một ngàn đồng một cái. dành cho trẻ em và người lớn đói bụng, chào hàng với những cái chảo và lò lửa cháy rực, khi màn đêm vừa buông xuống.
Canh chua, cá kho tộ phát triển mạnh từ 1965 trở về sau vào thời điểm tình cờ trùng hợp với lúc Mỹ đổ bộ vào miền Nam. Công đầu thuộc về quán Cây Dừa, đường Lê Lai. Bà chủ này lớn lên ở rừng U Minh. Phải nhìn nhận rằng, con cá lóc tuy ngon nhưng vị lạt, không bằng con cá tra của Biển Hồ hoặc con cá ba sa tức là cả hú. Canh chua đúng khẩu vị phải đủ 4 vị mặn, ngọt, chua, cay. Người đầu bếp phải đích thân nếm thử. Nghe đâu nước canh chua thường có pha thêm nước lèo nấu xương heo, nhưng chút ít thôi. Cá kho lý tưởng là cá rô, lựa cá tươi, béo, bằng không thì cá lóc hoặc cá trê, kho với nước mắm ngon. Thời xưa, kho trong “mẻ kho”, tức là cái tô bể đặt trên lửa than, cào ra từ cái cà-ràng, nghe đâu cần để thêm chút nước cơm vo, còn hành lá thì hơ lửa cho nóng rồi xắt ra, rắc lên. Canh chua cá kho là sự hài hòa giữa tiêu (miền núi), nước mắm (từ biển), cá bông lau (sông cái), cá rô (đồng ruộng). Chắc chắn nó sẽ tồn tại đến thế kỷ 21. Cua biển rang me, với vị chua, ngọt, mặn, nổi danh ở mé rạch Bến Nghé, gần cầu chữ Y. Món ca-ry ngon nhờ gia vị đặc biệt: với mẩu bánh mì vụn, ta vét tận đáy đĩa, đặc sản của những chùa Hồi giáo, và trước đây ở đường Lê Công Kiểu, sau lưng đường Hàm Nghi có quán của người Ấn, ăn với cơm nị (mỡ dê). Ta chế biến lại, cho thêm rất nhiều nước cốt dừa. Có thứ nước chấm khá chua, bảo rằng khi quá cay thì chấm vào nước ấy. Cá chìa vôi nổi danh vùng nước lợ Nhà Bè (cây số 15), vừa rẻ, vừa ngon; làm gỏi, nấu cháo, cùng ăn với vài người bạn. Cháo lòng chợ Đệm hãy còn ở dốc cầu Bình Điền, ngon thật nhưng dùng thịt heo lai tạo, chứ không còn là heo ta. Hủ tiếu Nam Vang, ra khỏi xa cảng là gặp, đậm đà gia vị nhưng hơi mắc, chủ và con cái chủ đeo vàng đầy tay, rõ “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Bánh bèo bì của chợ Búng (khỏi Lái Thiêu) nổi danh khá lâu. Muốn ăn ngon phải đi xa trung tâm Sài Gòn. Mấy năm qua, món ăn Sài Gòn dường như ngọt hơn mươi năm trước. Khẩu vị thay đổi chăng, ảnh hưởng của bột ngọt?
Nước mắm ngon vẫn quyết định. Nước mắm cốt, nếu pha với nước lạnh thì còn mùi tanh, pha nước nóng thì mất mùi thơm, phải pha với nước ấm nóng, vừa phải. Mì Quảng, thịt cầy có khu vực riêng. Nhưng đầy đủ món ăn và đáng giới thiệu nhất là chợ Bến Thành Sài Gòn, cửa Nam, đường Lê Thánh Tôn vào là gặp ngay. Nào bún bỏ Huế, bánh xèo, bánh hỏi thịt quay, bánh cuốn, nem nướng, bánh xèo, gỏi cuốn, bì… rất sạch sẽ, giá vừa phải, gần như không đủ chỗ ngồi. Ăn vừa xong, nên đi ngay, nhường chỗ cho người mới đến. Đến đây, mới thấy phụ nữ Sài Gòn thích ăn ngon và sành ăn như thế nào. Ăn xong, có thể tráng miệng với đủ thứ chè. Mua chả lụa, chả quế ngon cũng gần đấy. Không có món nhậu cho đàn ông và không bán rượu, vì khách uống rượu ngồi lâu choán chỗ. Nếu bảo rằng ăn uống là một bộ môn của văn hóa, văn minh thì nên vào đây, ăn hả lòng.
Ăn quán là thú vui tao nhã, với điều kiện là có dư chút ít tiền, như khi gặp bạn thân nào đó, chẳng lẽ ta không mời và “bao cấp”. Không hiếu khách thì còn đâu vẽ hào hoa, hiếu khách của người Sài Gòn.
Sơn Nam
Khi một cánh cửa hạnh phúc khép lại, một cánh cửa khác lại mở ra. Tất cả chúng ta đều từng trải qua điều đó: nỗi đau khi những ước mơ tan vỡ, vết thương lòng do bị từ chối, hay sự trống rỗng khi điều gì đó quý giá trượt khỏi tầm tay. Là con người, chúng ta đau buồn. Chúng ta đứng trước cánh cửa đã khép, gõ, khóc, và hy vọng rằng cánh cửa ấy sẽ mở ra lần nữa. Nhưng khi mải mê nhìn vào cánh cửa đã khép, ta thường không nhận ra cánh cửa khác đã mở, mời gọi chúng ta bước vào một con đường mới, một khả năng mới.
Trong khoảnh khắc mất mát, rất dễ để chỉ tập trung vào những gì đã qua. Ta bị cuốn vào những "nếu như" và "giá như," nhìn mãi vào cánh cửa khép mà quên rằng cuộc sống chưa chấm dứt. Ta quên mất rằng còn rất nhiều điều phía trước đang đợi chờ. Cuộc đấu tranh bắt đầu từ đây: buông bỏ cánh cửa đã khép lại và tin rằng điều tốt đẹp hơn, hoặc ít nhất là điều khác biệt, đang đợi chúng ta phía bên kia một cánh cửa khác.
Chúng ta đã nghe câu nói: "Khi một cánh cửa khép lại, một cánh cửa khác mở ra." Nhưng liệu ta có thực sự tin điều đó? Nhiều khi, ta không tin. Ta cảm thấy như bị mắc kẹt, như thể con đường duy nhất để tiến bước là qua cánh cửa ấy, như thể hạnh phúc và mục đích của ta đã bị khóa kín trong căn phòng đó mãi mãi. Nhưng sự thật là, cuộc đời luôn đầy ắp những cánh cửa mở. Đôi khi đó không phải là những cánh cửa ta mong đợi. Đôi khi chúng không dẫn ta đến nơi ta nghĩ. Nhưng chúng luôn ở đó, chờ đợi ta có can đảm quay lại và bước qua.
Hãy nhìn lại cuộc đời mình, và bạn sẽ thấy điều này là thật. Mỗi khi một điều gì đó kết thúc – một mối quan hệ, một công việc, một giai đoạn trong đời – đó không phải là kết thúc của câu chuyện. Một chương mới bắt đầu. Một cơ hội mới xuất hiện, đôi khi ngụy trang dưới lớp áo của sự không chắc chắn và thay đổi. Nhưng nó luôn ở đó, một cánh cửa mở, chờ đợi được khám phá.
Cánh cửa mở không phải lúc nào cũng dễ nhìn thấy. Nó có thể bị che khuất bởi sự không chắc chắn, hay bị lấn át bởi những nỗi sợ hãi. Nhưng nó luôn ở đó. Đôi khi, đó là một cơ hội ngụy trang thành thách thức. Đôi khi, đó là một mối quan hệ mới đang chờ đợi để chữa lành trái tim tổn thương của bạn. Đôi khi, đó là cơ hội để bạn khám phá lại chính mình trong những khoảnh khắc tĩnh lặng. Cánh cửa ấy đang ở đó, nhưng ta phải sẵn sàng ngừng nhìn vào cánh cửa khép đủ lâu để tìm thấy nó.
Vì thế, hôm nay, tôi khuyến khích bạn ngước lên. Hãy nhìn xa hơn cánh cửa đã khép. Hãy quay lại và nhận ra những cánh cửa đang mở chờ bạn bước qua. Đừng nấn ná quá lâu trong hành lang của sự tuyệt vọng. Đừng để nỗi đau của những gì đã qua làm mờ mắt bạn trước những điều vẫn còn có thể. Bạn không bị mắc kẹt. Bạn không bị giam cầm. Bạn chỉ đơn giản đang được mời gọi để bước qua một cánh cửa mới.
Luôn có một cánh cửa mở.
Có một ông lão ăn mày trang phục rách rưới, đầu tóc bù xù, cả người đều bốc mùi hôi khó chịu dừng chân trước một tiệm bánh ngọt. Sau một lúc băn khoăn, ông quyết định bước vào và xếp hàng. Nhiều vị khách đang mua hàng bên cạnh đều tỏ thái độ bực bội. Một số người cố tình bịt mũi và phàn nàn với nhân viên cửa hàng.
Thấy vậy, anh chàng nhân viên bán hàng quát to: “Ông kia, ông vào đây làm gì đấy? Đi ra ngoài đi!”
Ông lão ăn mày run rẩy đáp: “Tôi đến mua bánh ngọt mà.” Ông vừa vét trong túi những đồng tiền lẻ cáu bẩn, vừa hỏi: “Cậu ơi, loại bánh nào ở đây nhỏ nhất?”
Đúng lúc này thì ông chủ tiệm bánh bước nhanh ra ngoài. Ông ta niềm nở lấy từ trong tủ kính ra một chiếc bánh ngọt nhỏ xinh, đặt vào trong hộp, gói ghém cẩn thận rồi đưa cho ông lão. Sau khi nhận số tiền thanh toán từ ông lão ăn mày, chủ tiệm niềm nỡ tiễn ông lão ra ngoài cửa. Sau đó, ông chủ cúi gập người và nói: “Cảm ơn quý khách đã chiếu cố mua hàng! Hoan nghênh quý khách lần sau lại tới!”
Ông lão cầm chiếc bánh trên tay, nét mặt thể hiện rõ vẻ kinh ngạc. Có lẽ, rất lâu rồi ông lão chưa được ai đó đối xử tôn trọng như vậy. Ông lão cười vui vẻ rồi quay người rời đi.
Cháu trai của ông chủ tiệm bánh cũng có mặt và chứng kiến toàn bộ sự việc. Cậu vô cùng thắc mắc nên gặng hỏi: “Ông nội! Sao ông lại niềm nở với ông lão ăn mày đó như vậy ạ? Ông ta có gì đặc biệt sao?”
Ông chủ tiệm bánh mỉm cười, nói: “Điều đặc biệt nhất chính là, ông ấy là một khách hàng của chúng ta. Ông ấy đã phải chờ đợi rất lâu, chịu rất nhiều vất vả mới tích góp được những đồng tiền ấy. Sau đó, ông ấy dùng chúng để mua bánh ngọt của cửa hàng chúng ta. Sự ưu ái ấy không xứng đáng để chúng ta niềm nở với khách hàng của mình hay sao?”
Người cháu trai lại tiếp tục hỏi: “Nếu như vậy thì sao ông còn lấy tiền của ông ăn mày ấy làm gì? Nếu tặng miễn phí cho ông ấy có phải đặc biệt hơn không?”
Ông chủ tiệm cười đáp: “Hôm nay, ông ấy đến đây với tư cách là khách hàng, chứ không phải đến để ăn xin cháu ạ! Ông ấy hoàn toàn có đủ khả năng chi trả cho bản thân thì chúng ta phải tôn trọng điều đó. Nếu như cửa hàng chúng ta không lấy tiền thì chẳng phải đã làm nhục ông ấy rồi sao?”
Sau đó, người ông cũng dạy cháu rằng: “Khi đã làm kinh doanh, nhất định cháu phải nhớ kỹ điều này: Hãy tôn trọng từng khách hàng, bất kể họ là ai, ngay cả đó là một người ăn mày. Bởi tất thảy những thứ chúng ta có được hôm nay đều là do khách hàng mang lại.” Có thể thấy rằng, dù là ông lão ăn mày khó coi hay nhân vật sang trọng, họ đều xứng đáng được đối xử như một “Thượng đế”. Và hơn thế nữa, sự tôn trọng cần được thể hiện bằng thái độ tận tâm thực sự, không phải vì nhắm đến lợi ích đằng sau đó. Vì khi đã có lòng tôn trọng khách hàng, lợi nhuận ắt tự đến.
Và chủ tiệm bánh này chính là ông nội của tỷ phú Nhật Bản Yoshiaki Tsutsumi. Câu chuyện kinh doanh nhỏ chứa đựng bài học “đắt giá hơn vàng” đã giúp Yoshiaki Tsutsumi tìm được phương hướng đúng đắn để ngày một phát triển, khẳng định vị thế của mình trên thương trường. Ông cũng đã kể lại rất nhiều lần câu chuyện này cho các nhân viên.
Con người sống trên đời dựa vào hai chữ "tôn trọng" để đứng vững trong xã hội. Biết đánh giá đúng về lòng tôn trọng mới là người thực sự khôn ngoan. Vì thế, bất kể yêu mến hay chán ghét, mọi người vẫn cần phải dành cho nhau đủ sự tôn trọng. Mỗi người đều có thể diện và tôn nghiêm của riêng mình. Đừng chọc vào điểm yếu của người khác hay nói xấu sau lưng người ta.
Đến những doanh nhân thành công nhất cũng luôn tôn trọng từng đối thủ của mình. Vì tôn trọng không chỉ là một loại dũng khí, còn là một loại trí tuệ.
Vòng tròn của tháng năm không ngừng luân chuyển, ngày lại ngày, thời gian trôi qua đưa tôi vào những năm tháng của tuổi xế chiều. Tôi lặng lẽ rong ruổi trong đường hầm thời gian, bất ngờ cánh cửa tư tưởng mở ra trong ngập tràn ánh hoàng hôn rực rỡ. Ngay lập tức, tôi cảm thấy toàn thân ung dung nhẹ nhõm, lòng thanh thản bình yên.
1. Đời người ai cũng có những lúc huy hoàng, nhưng những ánh hào quang ấy sẽ sớm bay theo gió và thoảng qua như khói tản mây trôi, ta không cần lúc nào cũng dương dương tự đắc và nhớ mãi không quên.
2. Đời người ai cũng có những lúc khổ đau, nhưng những khổ đau đó lại là bài học bắt buộc, là nấc thang trưởng thành, là của cải tinh thần quý giá của đời người. Ta không thể nghĩ đó chỉ đơn thuần là bất hạnh trong cuộc đời.
3. Khi còn trẻ, chúng ta luôn đầy những mộng tưởng viển vông về tình yêu, nhưng trên đời này không có tình yêu nào là thập toàn thập mỹ, vậy nên dù tình yêu có chỗ thiếu sót không hoàn mỹ thì cũng cần dụng tâm và quý trọng bằng cả trái tim, đừng vội nói lời phân ly. Điều quan trọng là, có một người yêu bạn thật lòng, đi cùng bạn trên mọi nẻo đường mưa nắng, luôn bên cạnh và nắm tay bạn đến cuối cuộc đời.
4. Khi còn trẻ, chúng ta luôn thích tranh giành hơn thua với mọi người, thiếu sự thấu hiểu và bao dung, thậm chí còn tạo ra những mối ân oán khó giải với ng��ời khác.
Thực sự, ở tuổi xế chiều, khi nhìn lại những năm tháng đã qua của mình, tôi thấy thật ấu trĩ và nực cười. Khi đối xử với người khác bằng thái độ khoan dung và nhân từ thì có ân oán nào mà không thể giải quyết được?
5. Khi còn trẻ, chúng ta thường chỉ chú ý đến sự nghiệp, mà quên mất rằng còn cần quý trọng thân thể của bản thân. Bởi thực ra, thân thể con người ngay lúc còn trẻ đã thường bị làm hư hại, khi về già bệnh tật đầy thân, hối hận thì đã muộn rồi.
6. Khi còn trẻ, chúng ta thường nghĩ nuôi con để phụng dưỡng lúc tuổi già, đặt nhiều kỳ vọng vào con cái, nhưng khi về già, chúng ta mới nhận ra rằng mình cần phải dựa nhiều hơn vào chính bản thân, và chủ yếu là vợ chồng về già sẽ chăm sóc nương tựa vào nhau.
7. Hầu hết cuộc sống của chúng ta đều bận rộn với sự nghiệp và gia đình, và chúng ta rất mệt mỏi. Khi về già, bạn chợt nhận ra cuộc đời thật ngắn ngủi, ông Trời không còn cho bạn nhiều thời gian, vậy nên bạn hãy nắm bắt thời gian để làm những điều mình thích, và sống thật hạnh phúc.
8. Hầu hết những người lớn tuổi trong thế hệ chúng tôi đều sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó và có thói quen cần cù tiết kiệm. Nhưng khi về già, ta cần rộng mở hơn, đừng quá coi trọng tiền bạc. Tiền bạc vốn là vật ngoài thân, nếu bạn có điều kiện, bạn nên sẵn lòng giúp đỡ mọi người.
9. Khi còn trẻ, chúng ta thường coi trọng bản thân quá mức. Nhưng khi về già, bạn sẽ dần dần hiểu ra rằng vị trí của bạn không quá lớn, bạn chỉ giống như một giọt nước trong đại dương mênh mông, vô cùng bé nhỏ. Trái đất vẫn tiếp tục quay khi không có bạn, và xã hội cũng sẽ tiếp tục phát triển mà không cần có bạn.
10. Khi về già, bạn sẽ ngày càng ít tiếp xúc với xã hội, người quen và bạn bè ngày càng ít đi, bạn sẽ cảm thấy cô đơn và lẻ loi hơn, vậy nên bạn phải học cách tự an ủi mình, học cách thắp lên ngọn đèn hy vọng cho chính mình trong đêm dài cô quạnh, học cách sống trong cô độc và lẻ loi.
11. Khi về già, bạn sẽ thực sự nhận ra rằng cuộc sống bình hoà rất thuần khiết, tình bạn bình hoà rất chân thành, nụ cười bình bình rất dịu dàng; một chút cô đơn lặng lẽ là đẹp đẽ, mộc mạc nhẹ nhàng là chân thật, vắng vẻ tĩnh mịch lòng cũng say.
12. Khi về già, sức yếu và bệnh tật, chắc chắn bạn sẽ nghĩ đến cái chết. Thật ra, sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, chúng ta nên thản nhiên đối mặt và mỉm cười coi nhẹ cái chết.
Chỉ cần một đời ngay thẳng, làm người đường đường chính chính, không hổ thẹn khi tự vấn lương tâm, ta nên dũng cảm đón nhận cái chết, nhắm mắt mỉm cười và rời khỏi thế gian mà không hối tiếc.
13. Sự sáng suốt của tuổi già
01 – Khi về già, đối mặt với sự sống chết, có lúc cần kéo dài tuổi thọ, có lúc phải buông xuôi theo mệnh.
02 – Khi về già, đối mặt với bệnh tật, có lúc phải yêu cầu bác sĩ, có lúc nên thuận theo tự nhiên.
03 – Khi về già, đối mặt với kim tiền, có lúc cần phóng khoáng, có lúc phải tiết kiệm.
04 – Khi về già, đối mặt với quốc sự, có lúc nên quan tâm, có lúc nên thận trọng.
05 – Khi về già, đối mặt với cháu con, có lúc phải làm gương, có lúc phải giao thiệp.
06 – Khi về già, đối mặt với dưỡng sinh, có lúc phải nhiệt tình, có lúc phải tuần tự.
07 – Khi về già, đối mặt với các mối quan tâm, có lúc phải nồng hậu, có lúc phải hững hờ.
08 – Khi về già, đối mặt với việc quản lý gia đình, có lúc phải tham dự, có lúc phải buông tay.
09 – Khi về già, đối mặt với những việc đã qua, có lúc cần quay đầu nhìn lại, có lúc phải bỏ qua.
10 – Khi về già, đối mặt với bất công, có lúc cần kháng nghị, có lúc phải lặng im.
11 – Khi về già, đối mặt với khó khăn, có lúc phải vượt qua, có lúc cần né tránh.
12 – Khi về già, đối mặt với sự khoe khoang, có lúc phải mỉm cười, có lúc cần im lặng.
13 – Khi về già, đối mặt với bạn cũ, có lúc phải thật lòng, có lúc không tranh cãi.
14 – Khi về già, đối mặt với hôn nhân, có lúc phải kiên trì, có lúc cần từ bỏ.
Đời người ngắn ngủi, tháng năm dằng dặc. Nhân sinh nhất thế, bất kể thành công thất bại, vui mừng khổ đau, thịnh suy vinh nhục, tất cả đều chỉ như nước chảy mây trôi, một đi không trở lại.
Vui với việc tự mình nỗ lực vươn lên, thanh bạch đạm bạc vô sầu. Kẻ làm ác sẽ gặp tai họa, người làm thiện sẽ được phúc lành. Kẻ đê hèn ắt mục nát còn người cao thượng mãi trường tồn.
Nhất Tâm
LUẬT ĂN CƠM: 50 QUY TẮC TRÊN MÂM CƠM !!
1. Không và quá 3 lần khi đưa bát cơm lên miệng.
2. Không gắp thức ăn đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn.
3. Không dùng thìa đũa cá nhân của mình quấy vào tô chung.
4. Không xới lộn đĩa thức ăn để chọn miếng ngon hơn.
5. Không cắm đũa dựng đứng vào bát cơm.
6. Không nhúng cả đầu đũa vào bát nước chấm.
7. Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác.
8. Không được cắn răng vào đũa, thìa, miệng bát, không liếm đầu đũa
9. Không vừa cầm bát vừa cầm đũa chỉ 1 tay cũng như không được ngậm đũa để rảnh tay làm các việc khác chẳng hạn như múc canh, đôi đũa chưa dùng đến phải đặt vào mâm hoặc đĩa bàn nếu ăn trên bàn có dùng đĩa lót bát, hoặc đồ gác đũa.
10. Ngồi ăn dù trên chiếu hay trên ghế đều không được rung đùi, rung đùi là tướng bần tiện của nam, dâm dục của nữ, và cực kỳ vô lễ.
11. Không ngồi quá sát mâm hay bàn ăn nhưng cũng không ngồi xa quá.
12. Ngồi trên ghế thì phải giữ thẳng lưng. Ngồi trên chiếu thì chuyển động lưng và tay nhưng không được nhấc mông.
13. Không để tay dưới bàn nhưng cũng không chống tay lên bàn mà bưng bát và cầm đũa, khi chưa bưng bát thì phần cổ tay đặt trên bàn nhẹ nhàng.
14. Không ngồi chống cằm trên bàn ăn.
15. Tuyệt đối tránh cơm đầy trong miệng mà nói.
16. Không chu mồm thổi thức ăn nóng mà múc chậm phần nguội hơn ở sát thành bát đĩa.
17. Muỗng kiểu múc canh phải đặt úp trong bát không được để ngửa.
18. khi chấm vào bát nước chấm, chỉ nhúng phần thức ăn, không nhúng đầu đũa vào bát chấm, miếng đã cắn dở không được chấm.
19. Khi nhai tối kỵ chép miệng.
20. Không tạo tiếng ồn khi ăn [ví dụ húp soàm soạp]
21. Không nói, không uống rượu, không húp canh khi miệng còn cơm.
22. Không gõ đũa bát thìa.
23. Khi ăn món nước như canh, chè, xúp, cháo… nếu dọn bát nhỏ hay chén tiểu thì có thể bưng bát trên hai tay để uống nhưng không được kèm đũa thìa. Nếu dọn bát lớn hay đĩa sâu thì dùng thìa múc ăn, tới cạn thì có thể một tay hơi nghiêng bát đĩa sâu ra phía ngoài, một tay múc chứ không bưng tô to đĩa sâu lên húp như kiểu chén tiểu. Món canh có sợi rau nên dọn bát nhỏ, món gọn lòng thìa có thể dùng bát lớn, đĩa sâu.
24. Không ăn trước người lớn tuổi, chờ bề trên bưng bát lên mình mới được ăn. Nếu đi làm khách không gắp đồ ăn trước chủ nhà hay người chủ bữa cơm (trừ ra bạn được đề nghị gắp trước, trong một dịp nhất định).
25. Dù là trong khuôn khổ gia đình hay khi làm khách, tuyệt đối không chê khi món ăn chưa hợp khẩu vị mình. Điều này cực kỳ quan trọng vì không đơn thuần là phép lịch sự mà còn là một phần giáo dục nhân cách. Nếu không được dạy nghiêm túc, trẻ em từ chỗ phản ứng tự nhiên do khẩu vị sẽ tới chỗ tự cho mình quyền chê bai, phán xét, không trân trọng lao động của người khác. món không ngon với người này nhưng ngon với người khác và có được nhờ công sức của rất nhiều người.
26. Không gắp liên tục 1 món dù đó là món khoái khẩu của mình.
27. Phải ăn nếm trước rồi mới thêm muối, tiêu, ớt, chanh v.v…, tránh vừa ngồi vào ăn đã rắc đủ thứ gia vị phụ trội vào phần của mình.
28. Phải ăn hết thức ăn trong bát, không để sót hạt cơm nào.
29. Dọn mâm phải nhớ dọn âu nhỏ đựng xương, đầu tôm, hạt thóc hay sạn sót trong cơm…
30. Trẻ em quá nhỏ dọn mâm riêng và có người trông chừng để tránh gây lộn xộn bữa ăn của người già, tới 6 tuổi là ngồi cùng mâm với cả nhà được sau khi đã thành thục các quy tắc cơ bản.
31. Khi trẻ em muốn ăn món mà nó ở xa tầm gắp, phải nói người lớn lấy hộ chứ không được nhoài người trên mâm. Trong gia đình, khi trẻ em ngồi cùng mâm người lớn thì sắp cho bé một đĩa thức ăn nhỏ ngay bên cạnh với đồ ăn đã lóc xương và thái nhỏ. Với người cao tuổi cũng vậy, dọn riêng đĩa cá thịt đã lóc xương, thái nhỏ, hay ninh mềm hơn.
32. Không để các vật dụng cá nhân lên bàn ăn, trừ chiếc quạt giấy xếp có thể đặt dọc cạnh mép bàn. Ngày nay thì di động là vật bất lịch sự và mất vệ sinh.
33. Nhất thiết để phần người về muộn vào đĩa riêng, không khi nào để phần theo kiểu ăn dở còn lại trong đĩa.
34. Ăn từ tốn, không ăn hối hả, không vừa đi vừa nhai.
35. Khi ăn không được để thức ăn dính ra mép, ra tay hay vương vãi, đứng lên là khăn trải bàn vẫn sạch. Giặt thì giặt chứ dùng cả tuần khăn bàn vẫn trắng tinh không dính bẩn.
36. Nếu ăn gặp xương hoặc vật lạ trong thức ăn, cần từ từ lấy ra, không được nhè ra toàn bộ tại bàn.
37. Chỉ có người cao tuổi, 70 trở lên và trẻ nhỏ mà ợ khi ngồi ăn mới không bị coi là bất lịch sự.
38. Nếu bị cay thì xin phép ra ngoài hắt xỳ hơi, xỷ mũi.
39. Nhà có khách cần cẩn trọng khi nấu, chất cay để phụ trội bày thêm, tránh bất tiện cho khách khi họ không ăn được cay hay một vài gia vị đặc biệt.
40. Tránh va chạm tay với người cùng mâm, nếu thuận tay trái thì nói trước để chọn chỗ cho thuận tiện.
41. Phải chú ý tay áo khi gắp đồ ăn.
42. Nếu thấy thức ăn lớn nên xin cắt nhỏ để mọi người được thuận tiện
43. Khi đang ăn mà có việc riêng phải xin phép rồi mới rời mâm.
44. Nhất thiết nói cảm ơn sau bữa ăn dù là chỉ có hai vợ chồng nấu cho nhau. Đừng tiếc lời khen ngợi những món ngon.
45. Phong tục mời tùy theo gia đình, có gia đình thì người cao tuổi nhất nói đơn giản “các con ăn đi”, trẻ thì thưa “con xin phép”, nhưng có gia đình trẻ con phải mời hết lượt ông bà cha mẹ cô chú anh chị… Khi tới đâu thì quan sát gia chủ, không thể mang tập quán nhà mình vào bữa ăn nhà người ta.
46. Ăn xong cần tô son lại thì xin phép vào phòng vệ sinh, không tô son trên bàn ăn trước mặt người khác.
47. Ngồi đâu là theo sự xếp chỗ của chủ nhà, không tự ý ngồi vào bàn ăn khi chủ nhà chưa mời ngồi.
48. Ngày xưa, có lúc người giúp việc ăn cùng mâm với chủ nhà, khi gắp, chủ nhà để thế tay ngang nhưng người giúp việc thế tay úp. Nhìn là biết ngay.
49. Không được phép quá chén.
50. Nên thành thực nói trước về việc ăn kiêng, dị ứng [nếu có] khi được mời làm khách để tránh bất tiện cho chủ nhà.
51. Thôi nhịn, không ăn nữa.
Từ năm 1970 đến 1975, một trong những chương trình hấp dẫn trên Đài truyền hình Sài Gòn băng tần số 9 là chương trình “Sức khỏe giống nòi” (còn gọi là chương trình Kiến càng) của giáo sư Nguyễn Thành Nhơn. Nhờ chương trình này, việc luyện tập cơ bắp để trở thành lực sĩ đẹp được phổ biến rộng rãi đối với khán thính giả miền Nam qua màn hình ti vi. Chương trình mượn hình ảnh “Kiến càng” để đề cao vóc dáng người lực sĩ với vai ngực nở nang, eo thon gọn như hình dáng một con kiến. Bên cạnh việc chiêm ngưỡng vóc dáng cân đối, bắp thịt lồ lộ và bóng lưỡng dưới lớp dầu xoa trên thân hình các lực sĩ, người xem chương trình quen dần và thích thú cách nói chuyện dí dỏm của ông Nguyễn Thành Nhơn, giám đốc chương trình. Ông Nhơn, một người miền Nam tầm thước có giọng nói chân chất nhưng khúc chiết rành mạch khi giới thiệu và hướng dẫn việc luyện tập thể hình, tạo dựng cơ bắp. Câu ngạn ngữ Latin “Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện“ được thường xuyên nhắc đến trong chương trình này.
Trung tâm của phong trào tập luyện thể hình miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đặt tại Phú Nhuận, số nhà 203 đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ), là tư gia của ông Nguyễn Thành Nhơn.
Theo Hồi ký của ông Lê Đình An tại hải ngoại từng là học viên của giáo sư Nguyễn Thành Nhơn, trong Thế chiến thứ II tại Pháp đã phát động một phong trào tập thể dục thẩm mỹ qua phương pháp tập tạ của bác sĩ Desbonnet được giới thanh niên nam nữ Âu Châu rất hưởng ứng. Phương pháp nầy đào tạo ra nhiều lực sĩ có thân hình khỏe mạnh đẹp như những pho tượng thời La Mã, Cổ Hy Lạp.v.v. Trong thời gian đó, có một người Việt là ông Quách Ngọc Bá du học tại Pháp. Ông Bá tập luyện ở Viện Thể dục Thẩm mỹ của Bác Sĩ Desbonnet tại Paris và sau khi tốt nghiệp, được giảng dạy thể dục tại đây vào năm 1936.
Đến năm 1938, ông Quách Ngọc Bá từ Pháp trở về nước sáng lập tại ngã sáu Chợ Lớn một phòng tập Thể dục thẩm mỹ mang tên Studio Apollon ở đường Armand Rouseau (nay là Nguyễn Chí Thanh), là phòng tập thể hình đầu tiên tại miền Nam Việt Nam.
Năm 1944, ông Nguyễn Thành Nhơn sau hai năm tập luyện tại phòng tập của ông Quách Ngọc Bá đã trở thành lực sĩ “Khỏe mạnh và Đẹp”, thay thế cho lực sĩ Phạm Văn Tươi (Tác giả quyển sách nổi tiếng “Bắp thịt trước đã”) làm huấn luyện viên cho Viện Thể dục Việt Nam tại ngã sáu Chợ Lớn, do ông Hội đồng Trương Văn Bền (Chủ hãng Xà Bông Việt Nam) sáng lập. Năm năm sau, năm 1949, ông Nguyễn Thành Nhơn sang Pháp thụ huấn tại Trung Tâm Thể dục Thẩm mỹ và Y khoa Raspail tại Paris. Tốt nghiệp, ông làm giáo sư thể dục tại Trung tâm thể dục nầy. Sau đó, ông Nguyễn Thành Nhơn cùng em trai là Nguyễn Công Án cũng đang học tại đây đứng ra thành lập ra Phong trào thể dục Việt Nam tại Pháp, địa chỉ số 36 Bis Boulevard Saint Germain, Quận 5 – Paris.
Năm 1954, chánh phủ VNCH ở miền Nam mời một số nhân sĩ Việt Nam đang ở nước ngoài trở về nước để phục vụ cho quê hương. Trong số đó có hai anh em giáo sư Nguyễn Thành Nhơn. Lúc đó, ông Nguyễn Thành Nhơn đã có những thành tích như: Lập kỷ lục lặn sâu thế giới 81 mét dưới biển Địa Trung Hải bằng khí nén (1957), huấn sư Lặn cứu thủy nạn của Nghiệp đoàn huấn luyện viên lặn dưới biển Pháp Quốc và của Trung tâm Hải đế học Pháp quốc (Centre d’ Études Sous-marines de France). Riêng ông Nguyễn Công Án cũng có nhiều thành tích thi lực sĩ đẹp ở Pháp và giải thế giới. Năm 1957, khi về đến Nam Việt Nam, hai ông được mời vào chức vụ Chuyên viên đặc trách thể dục của Bộ Thanh niên. Hai ông đệ trình lên chánh phủ một dự án “Sức khỏe giống nòi” với hoài bão đào tạo thanh, thiếu niên nam và nữ tập thể dục để trở thành những người khỏe mạnh phục vụ cho đất nước. Tuy nhiên, sau một năm, Lực sĩ Nguyễn Công Án trở lại Pháp, chỉ còn lại giáo sư Nguyễn Thành Nhơn.
Năm 1959, ông Nguyễn Thành Nhơn sáng lập “Phong trào Thể dục Thẩm mỹ và cử tạ Việt Nam Cộng Hòa”, cho thành lập nhiều phòng tập thể dục cho thanh niên nam nữ khắp nơi trong miền Nam. Riêng tại Sài Gòn có phòng tập tại sân vận động Phan Đình Phùng, ở Chợ Lớn thì có vài phòng tập tư nhân của lực sĩ Trần Vinh Quang và lực sĩ Vương Quảng Nhơn. Trụ sở trung ương phong trào này đặt tại 203 đường Võ Tánh, Phú Nhuận.
Phong trào này phát triển mạnh mẽ, chỉ trong vòng một năm đã bắt đầu có các cuộc thi lực sĩ đẹp tại Sài Gòn.v.v… Năm 1961, sau lần tổ chức Giải Lực Sĩ Đẹp toàn quốc tại Ty Thanh niên Đô thành, góc đường Hai Bà Trưng - đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), phong trào Thể dục thẩm mỹ và cử tạ bị cấm thi tuyển lực sĩ vì bà Cố vấn Ngô Đình Nhu cho là “Công xúc tu sỉ”, phong trào phải ngưng hoạt động vì lệnh cấm trên. Sau đó tình hình chính trị thay đổi, năm 1966, ông Nguyễn Thành Nhơn được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Nha Thể dục Thể thao Thanh niên. Phong trào Thể dục Thẩm mỹ và Cử tạ tiếp tục được phát triển. Nhờ đó, từ năm 1970, giáo Sư Nguyễn Thành Nhơn được mời làm Giám đốc Chương trình Sức Khỏe Giống Nòi “Kiến Càng” trên đài truyền hình số 9 được phát hình khắp miền Nam, mãi cho đến tháng 4-1975 mới chấm dứt.
Địa chỉ số 203 đường Võ Tánh, trung tâm phong trào Thể dục Thẩm mỹ và Cử tạ miền Nam được hình thành và lan tỏa sức ảnh hưởng trong những điều kiện như vậy. Tác giả Lê Đình An kể: “Tôi ghi danh tại 203 Võ Tánh phòng tập trung ương của phong trào, tập từ 8 giờ đến 9 giờ 30 sáng. Nhưng sau đó vì muốn tập trở thành lực sĩ nên tôi theo chương trình tập 3 giờ một ngày. Hàng ngày tôi đạp xe đi từ Thủ Đức đến phòng tập khoảng 14 cây số, mỗi ngày đi và về phải đạp xe đạp gần 30 cây số. Vì lòng say mê tôi đã cố gắng tập tạ với điều kiện thật khó khăn, ăn uống cũng bình thường không bổ dưỡng cơ thể đầy đủ cho lắm. Mỗi buổi tập tôi chỉ uống được một ly nước mía ép chớ không có được một ly sữa tươi như các bạn, mỗi ngày sau khi tập xong tôi đạp xe về đến nhà ăn uống xong thì phải đi ngủ từ 1 giờ trưa đến 7 giờ chiều rồi thức dậy đi làm cho đến 6 giờ sáng và lại tiếp tục đi tập như hàng ngày”. Phòng tập có sức hút vì phương pháp hiệu quả và cũng vì sức lan tỏa truyền thông do chương trình Kiến Càng trên truyền hình. Ngoài ra, ông Nguyễn Thành Nhơn và nhóm của mình còn đi đến các trường học biểu diễn về thể dục thẩm mỹ, thúc đẩy phong trào luyện tập thể dục thời đó.
Ông Nguyễn Thành Nhơn mất năm 2022 tại Mỹ, hưởng thọ 98 tuổi.
PHẠM CÔNG LUẬN
Không cần phải là người Mỹ để quan tâm đến các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tôi đã là một trong hàng tỷ người trên thế giới theo dõi cuộc tranh cử năm 2008. Tôi lưỡng lự giữa Obama mà tôi tự nhiên thấy có cảm tình và McCaine mà tôi quý trọng từ lâu về nhân cách. Chọn lựa của tôi lệch về Obama sau khi bà Sarah Pallin được chọn làm ứng cử viên phó tổng thống cho McCain và tôi đã là một trong hàng tỷ người hân hoan theo dõi lễ nhậm chức của Obama trên truyền hình. Trong lịch sử nước Mỹ có lẽ ngoại trừ George Washington chưa có vị tổng thống Mỹ nào được hoan nghênh khi đắc cử bằng Obama. Nhưng rồi Obama trở thành một trong những tổng thống Mỹ ít được tín nhiệm nhất sau một năm cầm quyền.
Ronald Reagan trước đây cũng đã từng xuống thấp trong tỷ lệ tín nhiệm sau một năm tại chức như Obama, nhưng sau đó đã lên dốc được và trở thành một trong những tổng thống Mỹ được ái mộ nhất vì ông quả quyết theo đuổi một chính sách và chính sách đó -quyết tâm đánh gục lạm phát và chủ nghĩa cộng sản- dần dần chứng tỏ là đúng và đã thành công. Obama thì khác, ông khó có thể đảo ngược được tình thế bởi vì không thể chờ đợi kết quả của một hò hẹn nào với tương lai cả, ông là một con người thực tiễn.
Thất vọng đầu tiên của tôi đối với Obama đến ngay trong khi nghe ông đọc bài diễn văn nhậm chức. Obama nói đại khái: “Với những chế độ độc tài bám lấy quyền lực bằng mọi giá và bịt miệng đối lập chúng tôi nói quí vị đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu quí vị chìa bàn tay ra chúng tôi cũng sẽ nắm lấy“. Diễn nghĩa: quí vị cứ tiếp tục vi phạm nhân quyền cũng không sao miễn là đừng thù địch với chúng tôi. Câu nói ngắn ngủi này diễn tả một cách bóng bẩy chủ thuyết đối ngoại thực tiễn của Obama. Ông đã trình bày một cách tỉ mỉ hơn trong bài diễn văn tại Cairo ngày 4-6-2009. Hôm đó đúng là ngày kỷ niệm 20 năm cuộc thảm sát Thiên An Môn nhưng Obama đã không có một lời nào cho biến cố này, hơn thế nữa trong phần nói về dân chủ Obama đã làm một triệt thoái lớn trong khái niệm dân chủ: ông định nghĩa dân chủ một cách mơ hồ là chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của người dân. Nhưng đây chỉ là định nghĩa của dân chủ sơ đẳng nhất, không hề làm phiền các chế độ độc tài vì chúng đều tự xưng là thể hiện trung thành ý chí của nhân dân. Đây là dân chủ ở mức độ zero. Hình như nghĩ rằng nói như thế vẫn chưa đủ để làm vừa lòng các chế độ độc tài, Obama còn nói thêm rằng không một dân tộc nào có quyền quyết định chế độ nào là phù hợp nhất cho một dân tộc khác. So much for democracy. Quý vị nào muốn có thể đọc bài nhận định của tôi về ông Obama sau bài diễn văn này.
Chủ nghĩa thực tiễn của Obama có thể tóm tắt như sau: thôi nhấn mạnh về dân chủ và nhân quyền trong quan hệ đối ngoại, thoả hiệp thay vì đương đầu với các chế độ hung bạo, tương đối hoá các giá trị và các văn hoá, tránh can thiệp khi quyền lợi của Hoa Kỳ không trực tiếp bị đe doạ. Trong chuyến công du châu Á vừa qua, gồm cả Trung Quốc, Obama đã hầu như không đề cập đến vấn đề dân chủ và nhân quyền.
Obama mất dần uy tín bởi vì chính sách thực tiễn của ông đã thất bại. Iran đã bạo tay hơn trong việc đàn áp các cuộc biểu tình chống bầu cử gian lận và cũng mạnh dạn hơn trong việc chuẩn bị chế tạo bom nguyên tử, tương tự như Bắc Triều Tiên. Các chế độ độc tài tại Venezuella, Cuba, Sudan còn hung hăng hơn. Tình hình Trung Đông bế tắc vì cả Do Thái lẫn các lực lượng khủng bố Hồi Giáo Hizbollah và Hamas đều leo thang trong sự quá khích. Trung Quốc, Việt Nam và Miến Điện gia tăng đàn áp một cách thô bạo đối với những người dân chủ. Trung Quốc và Việt Nam còn công khai hành xử như bọn tin tặc, đánh phá các website của đối lập, bất chấp luật pháp quốc tế, thách thức cả thế giới. Chắc chắn họ không làm như vậy với một tổng thống Mỹ khác. Thái độ của Trung Quốc đặc biệt đáng lưu ý. Trung Quốc làm ngơ trước đòi hỏi tăng hối suất đồng Nhân Dân Tệ, phá đám và làm thất bại hội nghị quốc tế về khí hậu tại Copenhagen, có lúc một thành viên phái đoàn Trung Quốc còn la ó phản đối trong khi Obama đọc diễn văn. Các chế độ bạo ngược đều muốn gia tăng sự bạo ngược vì đó là bản chất của họ; với Obama họ tha hồ làm tới vì được bảo đảm là sẽ không gặp khó khăn. Trong chính sách đối ngoại chủ nghĩa thực tiễn là điều mà ngay cả nếu bất đắc dĩ phải áp dụng cũng không nên nói ra như Obama.
Obama cũng áp dụng chủ nghĩa thực tiễn trong chính sách đối nội. Dự luật cải tổ y tế của ông sau quá nhiều nhượng bộ và thoả hiệp đã mất dần ý nghĩa; nó hầu như không đả động đến vấn đề cốt lõi của nền y tế Mỹ là giá điều trị quá đắt để chỉ tập trung vào một vấn đề ít quan trọng hơn là mở rộng bảo đảm chăm sóc.
Trước sự suy sụp của cảm tình và uy tín dành cho ông, Obama đã bắt đầu thay đổi thái độ. Ông đã tỏ ra cứng rắn hơn đối với Iran và Trung Quốc, các quan chức Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng tố giác các chính quyền độc tài. Obama có nhiều lợi thế hơn để bênh vực nhân quyền, so với Bush 43 chẳng hạn, vì con người truyền thông của ông và vì mọi người đều tin ông là một con người ôn hoà chừng mực, nhưng ông có một trở ngại lớn: chính ông. Obama là con người thực tiễn, và chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể thất bại.
*
Nhưng chủ nghĩa thực tiễn là gì?
Trước hết không nên lẫn lộn chủ nghĩa thực tiễn (realism) với hai triết lý về đạo đức: chủ nghĩa phúc lợi (utilitarianism) và chủ nghĩa thực dụng (pragmatism). Chủ nghĩa phúc lợi là một phương pháp đánh giá hành động, đặc biệt là hành động chính trị, theo tiêu chuẩn hành động đúng là hành động đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người; chính vì thế mà chủ nghĩa phúc lợi được coi là một nền tảng của dân chủ; những người khai sáng ra chủ nghĩa này (Bentham và Stuart Mill) cũng là những người đấu tranh nhiệt tình cho dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa thực dụng là một phương pháp đánh giá các lý thuyết, theo đó một lý thuyết chỉ đáng để ta quan tâm và học hỏi nếu sự kiện nó đúng hay sai có ảnh hưởng cụ thể trong đời sống, còn nếu không nó chỉ là một lý thuyết suông không đáng để ta mất thì giờ.
Chủ nghĩa thực tiễn không phải là một triết lý, dù là triết lý tri thức hay là triết lý hành động, nó là một thái độ hướng dẫn chọn lựa, theo đó mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và nguyên tắc thì quyền lợi phải được dành ưu tiên, trái tim phải phục tùng cái đầu, tình cảm phải nhường chỗ cho lý trí. Obama thực tiễn cho nên dù ông có cho rằng các chế độc độc tài là sai ông cũng sẵn sàng bắt tay như ông đã nói trong bài diễn văn nhậm chức của ông, hay như khi ông định nghĩa dân chủ một cách chung chung và khẳng định rằng không một quốc gia nào có quyền quyết định thế nào là một chế độ đúng cho một nước khác để khỏi bị sự chống đối của các chế độ độc tài. Đặng Tiểu Bình cũng phát biểu chủ nghĩa thực tiễn khi ông nói “mèo trắng mèo đen mèo nào cũng được miễn là bắt chuột”. Bản chất của một chế độ không có tầm quan trọng nào trong chính sách đối ngoại của một chính quyền thực tiễn, điều quan trọng là lợi và hại.
*
Các chính trị gia thực tiễn không bao giờ nhìn nhận là chủ nghĩa thực tiễn đồng nghĩa với sự mềm yếu. Họ có thể viện dẫn trường hợp nhiều nhân vật rất quả quyết từng được coi, có khi tự coi, là thực tiễn. Barry Goldwater, Richard Nixon và Ronald Reagan đã được coi là những chính trị gia Mỹ thực tiễn. Với một bản chất khác hẳn, Lenin, Stalin và Đặng Tiểu Bình cũng là những con người rất thực tiễn. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn thì sự thực có thể khác.
Năm 1964 nghị sĩ Barry Goldwater tranh cử với tổng thống Johnson trên một lập trường mà ông cho là thực tiễn và có thể tóm tắt như sau: hy vọng thoả hiệp với cộng sản chỉ là hão huyền, cộng sản chỉ hiểu ngôn ngữ của sức mạnh vì thế thái độ thực tiễn nhất đối với họ là phải tỏ ra sẵn sàng dùng sức mạnh, phải sẵn sàng tăng cường quân lực tại Việt Nam, sẵn sàng đánh Cuba, Trung Quốc và cả Liên Xô nếu cần. Thực ra Goldwater không phải là một người thực tiễn. Ở vào giữa thập niên 1960, cao điểm của phong trào phản chiến và chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy một lập trường như thế là chuốc lấy thảm bại, và quả nhiên Goldwater đã thua rất xa Johnson trong cuộc tranh cử tổng thống. Goldwater đã lấy thái độ diều hâu như thế, dù biết sẽ thất cử, chỉ để chặn đứng khuynh hướng chủ bại. Ông là một người lý tưởng. Reagan có lúc cũng đã bị đánh giá là thực tiễn một cách sơ đẳng như Goldwater nhưng đã chứng tỏ là một tổng thống lỗi lạc, có lý tưởng, bản lãnh và tầm nhìn. Chỉ có Nixon quả thực là con người thực tiễn. Người Mỹ không còn chấp nhận những hy sinh tại Việt Nam? Vậy thì phải Việt Nam hoá chiến tranh và chuẩn bị triệt thoái. Khối cộng sản có dấu hiệu chia rẽ? Vậy hãy bắt tay với Mao để tách hẳn Trung Quốc và Liên Xô mà không cần thắc mắc về bản chất tội ác của chế độ Trung Cộng. Đặc tính thực sự của chủ nghĩa thực tiễn là sự mưu tìm hiệu quả một cách giản dị trong lý luận và hành động ngay cả nếu phải hy sinh hoặc gác lại các nguyên tắc nền tảng. Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đều đã hành động giản dị như thế, và vì họ không bị ràng buộc bởi một luật pháp nào nên họ đã không dừng tay trước tội ác.
Trong trường hợp các nước dân chủ, mà bản chất là muốn giải quyết mọi vấn đề trước hết bằng đường lối hoà bình, chính do sự giản dị của nó mà chủ nghĩa thực tiễn dẫn đến sự nhu nhược một cách khá tự nhiên. Lý do là vì đối đầu luôn luôn là một chọn lựa khó khăn, đòi hỏi sự quyết tâm mà những người thực tiễn thường không có. Hơn nữa đối đầu bao giờ cũng bao hàm một thiệt hại nào đó lúc ban đầu cho nên không được coi là khôn ngoan, nhất là khi quyền lợi quốc gia không bị trực tiếp đe doạ, vì thế những người lãnh đạo thực tiễn thường hay chọn giải pháp nhân nhượng và thoả hiệp, ngay cả khi những giá trị nền tảng bị vi phạm.
Chủ nghĩa thực tiễn thường được hưởng một lợi thế về ngôn ngữ. Người ta thường có khuynh hướng coi thực tiễn là thái độ đúng và có lợi, ngược lại với thực tiễn là viển vông và vô ích. Nhưng đây chỉ là một sự hiểu lầm. Không cần phải là một người thực tiễn, bất cứ ai cũng đều hành động nhắm lợi ích. Ngay cả những nhà tu hành cũng chỉ chọn cuộc sống tu hành vì nghĩ đó là cách sống có lợi nhất, hoặc vì nó mở cửa thiên đường cho cuộc sống vĩnh cửu sau này, hoặc vì cho rằng đó mới là hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc đời này. Tất cả vấn đề chỉ là quan niệm thế nào là quyền lợi, quyền lợi thực sự hay quyền lợi biểu kiến, quyền lợi lâu dài hay quyền lợi ngắn hạn. Chủ nghĩa thực tiễn dựa trên thực tại trước mắt và coi nhẹ các nguyên tắc và giá trị nền tảng nên thường chỉ là quyền lợi ngắn hạn. Các nguyên tắc và các giá trị nền tảng là gì nếu không phải là những điều mà trí tuệ và kinh nghiệm cho thấy là nên tuân thủ vì phúc lợi lâu dài?
*
Một đặc tính của chủ nghĩa thực tiễn là nó không phù hợp với thực tế. Nó luôn luôn nhắm tiến thẳng tới mục tiêu bằng giải pháp trực tiếp nhất và vì thế luôn luôn bị hụt hẫng. Thực tại không ngừng thay đổi cho nên những người thực tiễn phải vất vả chạy theo nó và có mọi triển vọng là sau khi đã tốn nhiều thì giờ và cố gắng người ta nhận ra rằng thực tại đã thay đổi đến độ mà mục tiêu theo đuổi đã mất ý nghĩa. Làm chính trị là hò hẹn với tương lai cho nên khả năng quan trọng nhất là tiên liệu cái gì sẽ xảy ra, các vấn đề hiện nay sẽ đặt ra như thế nào trong tương lai, các vấn đề nào sẽ không còn đặt ra nữa và các vấn đề mới nào sẽ xuất hiện. Người làm chính trị phải có viễn kiến. Chủ nghĩa thực tiễn thực ra chỉ tố giác sự thiếu viễn kiến. Các trường đại học, và các cố gắng trau dồi văn hoá nói chung, không nhắm mục đích nào khác ngoài việc cho chúng ta khả năng nhìn xa trông rộng, nói cách khác là giải phóng chúng ta khỏi phản xạ thực tiễn.
Một đặc tính khác cần được lưu ý của chủ nghĩa thực tiễn mà có lẽ Obama không thấy là nó luôn luôn sai trong chính sách đối ngoại. Nó bỏ qua quan tâm ý thức hệ để chỉ đặt chính sách đối ngoại trên nền tảng quyền lợi mà không biết rằng ý thức hệ, nghĩa là bản chất của chế độ, bao giờ cũng quyết định chính sách ngoại giao và các đồng minh của một quốc gia. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Dù Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây có ve vãn đến đâu đi nữa thì các chế độ độc tài Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Sudan, Miến Điện, Iran… vẫn coi họ là thù địch, và dù trong thâm tâm các chế độ độc tài có khinh bỉ nhau thế nào đi nữa chúng vẫn là đồng minh. Câu nói “buột miệng” của ông Nguyễn Minh Triết (theo đó ông tìm cách “phân hoá” nước Mỹ) là một bằng cớ.
Mỹ và các nước dân chủ nói chung cần rút kinh nghiệm trên hai trường hợp mà chủ nghĩa thực tiễn đã được thể hiện. Trong hơn ba thập qua họ đã hợp tác với Trung Quốc mà không đặt vấn đề bản chất của chế độ, ngay cả sau cuộc thảm sát Thiên An Môn, có lẽ với hy vọng là tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ dần dần đem đến dân chủ (cứ như là độc tài là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân của sự nghèo khổ). Thực tế đã không như vậy, nhờ giao thương với các nước dân chủ, đặc biệt là Hoa Kỳ, Trung Quốc đã mạnh hơn nhiều nhưng vẫn là một chế độ bạo ngược và còn yểm trợ cho nhiều chế độ hung bạo khác. Đôi khi Trung Quốc còn được viện dẫn như là một bằng cớ về sự đúng đắn của chủ thuyết tăng trưởng kinh tế bất chấp nhân quyền. Sức mạnh kinh tế đã chỉ khiến Trung Quốc tự tin hơn trong thái độ thách thức và đang trở thành một lo âu cho thế giới. Một bài học khác là Pakistan. Tại đây, một cách thực tiễn, Hoa Kỳ đã ủng hộ chế độ quân phiệt của tướng Pervez Musharraf sau khi ông này đảo chính lật đổ chính quyền dân cử cuối năm 1999 và coi ông này như một đồng minh đắc lực trong cuộc chiến tranh chống khủng bố. Thực tế đã ngược hẳn với sự mong đợi, chính Musharraf đã giúp quân khủng bố Taliban hồi sinh; Hoa Kỳ đã chỉ tỉnh mộng một cách muộn màng. Bản chất của những tập đoàn độc tài là gian trá. Phải nói rõ để tránh mọi hiểu lầm: ngày nay ít ai còn đòi hỏi cô lập và trừng phạt các chế độ độc tài, các biện pháp này chỉ đánh vào nạn nhân thay vì thủ phạm. Nhưng ít nhất cũng phải gây áp lực và gắn bó hợp tác với những tiến bộ về nhân quyền bởi vì đó vừa là đạo đức quốc tế được qui định trong hiến chương Liên Hiệp Quốc vừa là điều kiện để có những đối tác đáng tin cậy.
Một sai lầm lớn nếu hoà bình là điều cần được trân quý nhất. Trong lịch sử thế giới các cuộc chiến đã chỉ xảy ra hoặc giữa các nước độc tài với nhau hoặc giữa một nước độc tài và một nước dân chủ. Chưa có trường hợp hai nước dân chủ chiến tranh với nhau. Dân chủ và nhân quyền là nền tảng của hoà bình.
Chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể đem lại thất vọng bởi vì trong chiều sâu nó là một sự từ nhiệm. Dân chúng chờ đợi ở những người lãnh đạo khả năng, viễn kiến và đởm lược để lấy những quyết định khó khăn có thể khó hiểu và nhức nhối lúc ban đầu chứ không phải để lấy những quyết định hiển nhiên, dễ dãi. Người dân đòi hỏi người lãnh đạo phải đi trước họ, họ bầu ra người lãnh đạo để nếu cần áp đặt những cố gắng và hy sinh cần thiết chứ không phải để chạy theo họ. Vả lại nếu không có viễn kiến và lý tưởng thì bước vào trường chính trị để làm gì? Các chính trị gia thực tiễn có thể được lòng dân lúc mới xuất hiện nhưng chắc chắn sẽ gây thất vọng sau đó. Trong trường hợp Obama sự thất vọng còn lớn hơn bởi vì rất nhiều người đã bỏ phiếu cho ông vì những giá trị dân chủ và nhân quyền để rồi khám phá ra rằng chính ông không tha thiết gì lắm với những giá trị này.
Có một bài toán động học và hình học giải tích trình bày một cách khá chính xác chủ nghỉa thực tiễn. Bài toán, với cái tên dí dỏm là “quỹ đạo của chó”, mô tả một con chó đuổi bắt một đối tượng đang di chuyển. Chó có bản năng rất thực tiễn nên nhắm thẳng đối tượng mà chạy tới nhưng vì đối tượng di chuyển không ngừng nên chính tính thực tiễn của nó khiến chó phải chạy trên một quỹ đạo rất cầu kỳ, ngay cả nếu đối tượng di chuyển một các giản dị trên một đường thẳng với một vận tốc cố định. Trong trường hợp đối tượng di chuyển một cách phức tạp hơn thì bài toán không có giải đáp. Chủ nghĩa thực tiễn được chứng minh là sai bằng toán học.
*
Một lời sau cùng: tại sao người Việt Nam cần hiểu rằng chủ nghĩa thực tiễn là sai? Đó là vì cuộc đấu tranh cho dân chủ đang rất vất vả với chủ nghĩa thực tiễn. Có quá nhiều người mong muốn một tương lai dân chủ cho Việt Nam nhưng lại suy nghĩ và hành động một cách thực tiễn. Trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản thái độ thực tiễn là không bộc lộ lập trường dân chủ để khỏi bị trù dập và vô hiệu hoá. Ngoài xã hội thái độ thực tiễn là kiếm tiền, và làm giàu nếu có thể được, thay vì đối đầu với một chính quyền đồ sộ và hung bạo. Chủ nghĩa thực tiễn có một tên gọi khác: chủ nghĩa luồn lách. Người ta chán ghét chế độ nhưng thấy phải thoả hiệp với thực tại để sống, và vì thế vô tình củng cố chế độ. Cuộc chuyển hoá về dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn, như chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nó đòi hỏi những trí tuệ và những tấm lòng rất lớn. Những người thực tiễn chẳng bao giờ làm được những thay đổi lớn và thực sự đáng mong ước.
Nguyễn Gia Kiểng
Tháng 3, 2010
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.