Đêm gơ cửa và tiếng thở dài của một đời người
Tới giờ chú Ba Lợi đă hơn bảy mươi, tóc bạc hết, tay run đi, nhưng mỗi lần nhớ lại những năm sau 1975, tim vẫn nhói một chút. Không phải v́ tiếc của, mà v́ tiếc cái cảnh con người bị cuốn trôi theo những cơn gió lịch sử mà chính ḿnh không kịp hiểu. Hồi đó chú chỉ là chủ một tiệm vải nhỏ ở Chợ Lớn. Không giàu, nhưng đủ để vợ chồng lo cho ba đứa con ăn học, tối về quây quần bên mâm cơm, nghe radio rè rè tin tức. Cuộc sống giản dị mà ấm. Cho đến một đêm. Gần nửa khuya, cả nhà đang ngủ th́ tiếng gơ cửa vang lên dồn dập, như muốn bứt cả cánh gỗ. Thời ấy Sài G̣n vẫn c̣n rất an ninh, nên tiếng gơ cửa nửa đêm là điều khiến ai cũng lạnh gáy. Chú Ba vừa hé cửa đă thấy mấy người cán bộ đứng chờ sẵn, giấy tờ trên tay, lạnh lùng nói một câu: “Vào kiểm kê.” Không ai giải thích thêm nửa lời.
“Tư sản mại bản” – cái nhăn dán để hợp thức hóa cướp bóc
Họ bước thẳng vào nhà, không cần mời, bắt đầu lật từng ngăn tủ, mở từng hộc gỗ. Vợ chú ôm đứa nhỏ đứng nép một góc, mặt tái mét, mắt đỏ hoe mà không dám khóc. Vải trong kho bị niêm phong, sổ sách bị gom lại bỏ vào túi, vàng dành dụm cả đời bị yêu cầu “giao nộp để nhà nước quản lư tập trung”. Chú chẳng biết căi lại bằng cách nào. Họ đọc biên bản, bắt kư, rồi dắt nhau đi như một cơn băo. Khi cánh cửa đóng lại, căn nhà bỗng im phăng phắc. Chú nh́n vợ, muốn nói một câu an ủi mà cổ họng nghẹn cứng. Mấy đứa nhỏ đứng sau cánh cửa, mắt mở to, không hiểu chuyện ǵ vừa xảy ra nhưng cũng không dám bật tiếng khóc. Sáng hôm sau, tấm bảng hiệu tiệm vải mang tên ba má chú – tấm bảng treo gần hai mươi năm như một niềm tự hào nhỏ bé – đă bị tháo xuống. Người ta bảo gia đ́nh chú thuộc diện “tư sản mại bản”, phải cải tạo, tài sản phải “thu hồi cho nhân dân”. Chú vốn chẳng phải đại gia, chỉ là người buôn thúng bán mẹt dành dụm từng chút, nhưng trong con mắt của một chế độ muốn cướp cho sạch, ai buôn bán, ai có chút của ăn của để đều dễ dàng bị gom chung vào một cái nhăn.
Kinh tế mới: nơi người ta tập cho dân… quên quá khứ
Không bao lâu sau, lệnh đi “kinh tế mới” được đưa xuống. “Tạm lên đó vài tháng rồi về”, cán bộ nói như trấn an. Hôm xe tải đến đón, trời mưa lất phất. Mỗi nhà được mang vài cái thùng nhỏ. Vợ chú gói vội ít gạo, mấy bộ quần áo cũ, cái nồi nhôm móp đă dùng nhiều năm. Chú đứng giữa pḥng khách, nh́n quanh căn nhà lần cuối: bộ ván gỗ nơi mấy đứa nhỏ từng chơi ù mọi, bàn thờ má nghi ngút khói, mùi vải mới c̣n phảng phất. Tất cả những thứ đó, chỉ qua một đêm, bỗng dưng không c̣n là của ḿnh nữa. Kinh tế mới buồn như một vùng đất bị bỏ quên. Rừng hoang, bùn đất, vắt muỗi. Đêm nghe tiếng côn trùng rền rền, chú thấy như ḿnh bị ném sang một thế giới khác. Trẻ con sốt hoài, người lớn gầy rộc đi. Vợ chú khóc nhiều đến nỗi mắt mờ, tay run. Hàng xóm có người không chịu nổi, ban đêm lén đi bộ cả chục cây số men theo lối ṃn để t́m đường quay về Sài G̣n, bất chấp bị bắt là “bỏ trốn”. Chú Ba cũng muốn về lắm, nhưng nh́n ba đứa nhỏ đang ngủ co ro dưới tấm mùng rách, chú không nỡ phiêu bạt thêm lần nữa.
Trở lại Sài G̣n – khi thành phố không c̣n là của ḿnh
Nhiều năm sau, gia đ́nh chú cũng được cho phép trở về thành phố. Nhưng Sài G̣n ngày đó đă không c̣n là Sài G̣n mà chú rời đi. Tiệm vải ngày xưa đă thành cửa hàng hợp tác xă. Bảng hiệu cũ biến mất, thay bằng tên một đơn vị nào đó nghe rất xa lạ. Hẻm cũ, người này vào khu tập thể, người kia đi kinh tế mới không về, người khác vượt biên chẳng ai nghe tin nữa. Nhà cũ, dĩ nhiên không thể lấy lại. Gia đ́nh chú thuê một căn pḥng nhỏ ẩm thấp, bắt đầu lại từ con số không. Chú đi buôn chuyến lặt vặt, vợ chú ra chợ trời bày mấy món hàng xén; từng đồng góp lại, gom chút vốn để sống qua ngày. Của cải mất th́ có thể gây dựng lại. Nhưng cái cảm giác bất an trong ḷng – cái cảm giác chỉ một tiếng gơ cửa là cả đời ḿnh có thể bị xóa trắng – phải mất mấy chục năm sau chú mới nguôi. Đến bây giờ, mỗi lần nghe ai đó nói chữ “giải phóng”, chú lại cười chua chát: “Giải phóng ǵ đâu, chú chỉ thấy người ta giải tán luôn tài sản và cuộc sống của ḿnh.”
Kể lại để đời sau hiểu ḿnh đă đi qua những ǵ
Giờ chú Ba Lợi chỉ mong con cháu không bao giờ phải trải qua những ngày tháng như vậy nữa. Con người có thể chịu cực, chịu nghèo, chịu cảnh làm lại từ đầu, nhưng đừng bắt họ sống trong sợ hăi, không biết nhà cửa, tài sản, thậm chí mạng sống của ḿnh ngày mai sẽ ra sao. Chú kể lại không phải để khơi dậy hận thù, mà để những ai sinh sau hiểu rằng: trên mảnh đất này đă từng có một thời, chỉ cần có chút của ăn của để là có thể bị dán nhăn “tư sản”, bị gơ cửa giữa đêm, bị xua đi như một kẻ có tội. Những ḍng chia sẻ của anh chị em, cô chú, ba má từng trải qua thời “đánh tư sản”, “đi kinh tế mới” chính là những mảnh ghép quan trọng của sự thật. Càng nhiều người lên tiếng, bức tranh càng rơ. Đừng ngại kể lại. Bởi những ǵ đă xảy ra, nếu không được nhắc lại, sẽ rất dễ bị kẻ khác viết lại theo cách có lợi cho họ. C̣n khi kư ức được giữ ǵn, ít nhất con cháu sau này sẽ hiểu v́ sao ông bà ḿnh, như chú Ba Lợi, mỗi lần nghe tiếng gơ cửa đêm vẫn c̣n giật ḿnh. Và hiểu v́ sao có những người miền Nam tới tận bây giờ vẫn nói: “Một chế độ như thế, đáng sợ hơn cả những mùa mưa bom ngày xưa.”