Đào Hồng Thủy – Người Ở Lại Với Núi Rừng Tam Biên
Đoàn Công Tác 72 Nha Kỹ Thuật
Sau khi tốt nghiệp khóa Hạ Sĩ Quan tại Trường Huấn Luyện Đồng Đế, Nha Trang, với cấp bậc Trung sĩ, Đào Hồng Thủy đã chọn phục vụ trong Nha Kỹ Thuật, và được phân về Đoàn 72 do Cựu Trung tá Cẩm Ngọc Huân làm Đoàn trưởng.
Đây là thời điểm Đoàn 72 vừa mới thành lập, chuẩn bị tham gia khóa huấn luyện Chiến tranh Ngoại lệ, cùng với các Đoàn 71 và 75. Tất cả đều đóng quân quanh khu vực phi trường Nha Trang, phía đường Phước Hải đi vào.
Lúc ấy, các toán tham dự huấn luyện Chiến tranh Ngoại lệ gồm 4 sĩ quan và 8 hạ sĩ quan. Không rõ Thủy thuộc toán nào. Nhưng sau khi tốt nghiệp khóa, không rõ vì lý do gì, Thủy cùng một số anh em khác được điều động phục vụ tại Chiến đoàn 2 đóng ở Kontum.

Khi Đoàn 72 được đưa lên Kontum để thực tập nhảy toán thám sát tại các vùng rừng núi trên đường mòn Hồ Chí Minh, khu vực Cao Nguyên và Tam Biên (biên giới Việt – Miên – Lào), mỗi lần xâm nhập, Chiến đoàn 2 đều bổ sung thêm 2 người “hướng đạo” để hỗ trợ toán di chuyển trong rừng sâu.
Trong một lần công tác nhảy toán vào vùng “nóng” tại Tam Biên, Toán 723 của tôi được bổ sung một biệt kích người Thượng và Trung sĩ Đào Hồng Thủy – người đã từng phục vụ tại Chiến đoàn 2. Thời điểm ấy, những chuyến nhảy thực tập luôn đủ quân số 12 người như một toán thực chiến của Chiến tranh Ngoại lệ. Toán chia làm hai tổ: bán tổ A do tôi – Trưởng toán – chỉ huy, và bán tổ B do Trung úy Tùng phụ trách.

Buổi sáng hôm ấy – cận Tết năm 1971 – bầu trời cao nguyên nắng ráo, không khí trong lành. Chiếc trực thăng chở bán tổ A của chúng tôi (gồm tôi, Thủy, Ngô Quang Đợi, Huỳnh Cẩm Sanh, Huỳnh Thanh Phong và Nguyễn Văn Thoại) bay theo sau chiếc O-1 của Đại úy Lê Đình Vũ, Tiền Không Sát dẫn đường. Sau chúng tôi là trực thăng chở bán tổ B – do Trung úy Tùng chỉ huy – gồm 4 toán viên và một biệt kích Thượng.
Hai bên đội hình là hai trực thăng Cobra yểm trợ hỏa lực, lúc lên cao, lúc sà sát ngọn cây – cảnh tượng thật hùng tráng. Phía trên cao là một trực thăng cấp cứu.

Tôi và Thủy ngồi thòng chân ra ngoài trực thăng bên trái. Đợi và Sanh ngồi bên phải; Phong và Thoại ở giữa. Rừng núi Tam Biên dưới chân hiện lên bằng phẳng, rậm xanh. Tiếng động cơ trực thăng vang như nhịp trống quân hành, át đi mọi nỗi lo lắng của buổi đầu xâm nhập.

Tôi khẽ chạm vào viên đá nhỏ trong túi áo ngực trái – một “lá bùa hộ mạng” tôi thường mang theo từ khi bắt đầu công tác – thầm thì: “Anh phải sống!” Viên sỏi ấy, nếu còn sống sót, tôi sẽ mang về trả lại sân bay, như một lời hẹn với số phận. Sau này, tôi vẫn giữ thói quen ấy trong mỗi lần nhảy toán.
Sau hơn nửa giờ bay, từ phía xa, chiếc O-1 như con bồ câu trắng cô đơn, lượn một vòng rồi biến mất trong mây.
Hai chiếc Cobra lao xuống vùng bãi đáp. Người xạ thủ trên trực thăng ra hiệu: “Sẵn sàng nhảy!”
Tôi nhìn xuống: bãi đáp là một bãi lau sậy thưa, xung quanh rừng rậm. Khi trực thăng hạ thấp, cỏ lau rạp xuống như thảm nhung.
Tôi vỗ vai Thủy, ra hiệu cùng nhảy.
Chúng tôi vừa chạm đất thì tiếng nổ rền vang, đất cát tóe lên. Nhìn lại, chiếc trực thăng bán tổ A vừa bị trúng đạn phòng không, đang cố bay lên với vệt khói đen kéo dài như hình con rồng. Chiếc trực thăng của bán tổ B vội vã đổi hướng, bốc lên cao lẩn vào mây.
Hai Cobra nhào sát mặt đất, bắn dữ dội vào rừng.
Phía xa, A-37 quần thảo, ném bom. Âm thanh ầm ầm như bão nổi – một bản hợp xướng chết chóc!
Tôi lăn người, tìm vị trí toán viên. Thủy núp sau bụi cỏ, súng chĩa vào bìa rừng. Đợi nằm phía trái, cách tôi 10m. Sanh phía sau tôi 5m. Chỉ có 4 người kịp nhảy xuống. Phong và Thoại còn kẹt trên trực thăng.
Chúng tôi không thấy địch, chỉ biết hướng súng về rừng bắn trả. Sanh bò tới đưa máy PRC-25. Tôi áp vào tai:
Hồng Hà đây Vương Vũ, nghe rõ không?
Hồng Hà nghe Vương Vũ 5/5.
Gia đình Hồng Hà cứ nằm lại bãi, Zu Lu đang đến cứu.
Tôi chưa kịp trả lời thì từ phía rừng vang lên tiếng la:
Hàng sống, chống chết!
Rồi AK địch bắn tới tấp. Ba khẩu CAR-15 của tôi, Đợi và Thủy đồng loạt khai hỏa. Chúng tôi hạ được ba tên, những tên còn lại nằm rạp.
Bất chợt Đợi gọi to:
Em bị thương rồi anh Hậu ơi!
Tôi đáp nhanh:
Cố gắng lên em! Anh Hậu không bỏ em đâu!
Tôi quay sang nói Thủy yểm trợ để tôi bò lên cứu Đợi.
Nhưng Thủy im lặng. Tôi gọi:
Thủy... Thủy...
Không tiếng trả lời. Tôi lay vai Thủy – nhưng em đã hy sinh. Vẫn ngồi như cũ, lưng tựa balô, súng trong tay, ánh mắt như còn nhìn vào núi rừng Tam Biên buổi sớm mai…
Tôi lấy khẩu súng Thủy đưa Sanh bắn yểm trợ. Bò đến chỗ Đợi – súng gãy làm đôi, máu đỏ thẫm nơi đầu gối. Chưa kịp kéo Đợi đi thì nghe tiếng "pình pình" – trực thăng cứu nạn đang lao xuống. Tôi và Sanh kéo Đợi lên máy bay. Vừa xốc được anh lên thì máy bay từ từ cất cánh. Tôi và Sanh bám càng, bò lên sàn trong tiếng đạn vẫn nổ phía sau.
Oái oăm thay – xạ thủ trực thăng bị trúng đạn, trọng thương!
Từ trực thăng nhìn xuống, tôi thấy Thủy – mờ dần, nhỏ dần – rồi khuất sau lớp mây trắng, như một chiếc khăn tang phủ ngang vòm trời Tam Biên ngày định mệnh...
Hôm nay, ngồi viết lại những dòng này, tôi – người anh trong toán – chỉ biết xin Thủy tha thứ: Anh Hậu không thể mang xác em về cho gia đình.
Trích hồi ký Lê Văn Hậu Cựu Trung Úy Trưởng Toán 723 sửa bởi Gibbs VIETBF