Lời giới thiệu
Tác giả bài viết là Thiếu tá Phạm Văn Hồng, xuất thân Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, từng phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Phòng 3. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1974, ông cùng G. Kosh – một nhân viên của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng – được giao nhiệm vụ theo tàu Hải quân VNCH ra quần đảo Hoàng Sa để khảo sát và nghiên cứu kế hoạch thiết lập một phi trường tại đây.

Ba ngày sau, quân Trung Cộng bất ngờ tấn công, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và bắt giữ toàn bộ quân nhân VNCH, kể cả nhân viên Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ. Một tuần sau, phía Trung Cộng đã trả tự do cho công dân Hoa Kỳ với lý do “nhân đạo”, trong khi các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị giam giữ suốt 29 ngày mới được thả.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu tá Phạm Văn Hồng Khóa 20 bị chính quyền cộng sản giam cầm trong trại tù lao động khổ sai hơn tám năm tại Quảng Nam. Ông cũng là một trong những nhân chứng sống cho vụ thảm sát đầy hèn hạ mà phía cộng sản đã gây ra đối với Trung tá Võ Vàng, Khóa 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Kính mời quý độc giả theo dõi lời kể sau đây.
Khi nhắc đến cố Trung tá Võ Vàng – cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (Khóa Lê Lai) – có lẽ không một chiến hữu nào từng phục vụ tại Vùng I Chiến Thuật, đặc biệt là các chiến sĩ Biệt Động Quân và người dân thị xã Huế, lại không biết đến tên tuổi của anh.

Lý do rất dễ hiểu: trong biến cố Mậu Thân 1968, với nhiệm vụ tái chiếm các khu vực Vĩ Dạ, Dương Nỗ, Bãi Dâu và sau cùng là Gia Hội, đơn vị do anh chỉ huy đã đạt những chiến thắng vang dội, tiêu diệt các lực lượng cộng sản trước thời hạn quy định. Chiến công ấy khiến người dân Cố đô cảm phục vô cùng và thỉnh nguyện với vị Tư lệnh Vùng I Chiến Thuật giữ Tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân – đơn vị do Trung tá Võ Vàng làm Tiểu đoàn trưởng – ở lại thị xã để giúp ổn định đời sống, tái thiết quê hương sau chiến sự.
Ý dân là ý trời, tiểu đoàn của anh đã "trấn thủ lưu đồn" tại vùng sông Hương – núi Ngự suốt sáu tháng trước khi được điều động đến những chiến trường ác liệt khác đang cần sự có mặt của đơn vị anh. Chính từ thời điểm đó, tên tuổi của anh đã bị phía cộng sản miền Bắc ghi vào sổ đen, như một cái gai không thể nhổ bỏ.

Sau này, khi giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh, anh tiếp tục ghi dấu ấn chiến thắng tại mặt trận Bình Đê – Sa Huỳnh, vùng cực nam tỉnh Quảng Ngãi. Trong trận chiến nảy lửa này, Trung đoàn 10 địa phương của cộng sản đã bị đánh tan tác, gần như xóa sổ. Chính chiến thắng này lại trở thành nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết đầy oan nghiệt của anh – khi bị phía cộng sản miền Bắc trả thù một cách ti tiện và hèn hạ.

Người viết bài tường thuật này có may mắn được biết khá rõ về Trung tá Võ Vàng, nhất là sau thời điểm anh bị tên cộng sản khát máu bắn bảy phát đạn từ sau lưng. Người viết chính là người đầu tiên khiêng thi thể anh từ dưới suối lên mặt đường, và cũng là người đã lập biên bản xác nhận cái chết thương tâm ấy.
Sau ngày 29 tháng 3 năm 1975, khi thành phố Đà Nẵng bỏ ngỏ, quân xâm lược cộng sản Bắc Việt tiến vào thị xã. Người dân xứ sông Hàn lần đầu tiên nghe một từ ngữ quái lạ: "Ủy ban Quân Quản". Đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, những quân nhân không còn đơn vị nghe trên đài phát thanh Đà Nẵng bản thông cáo của cái gọi là Ủy ban Quân Quản thành phố, lặp đi lặp lại với nội dung:
“Tất cả các sĩ quan Ngụy, không chậm trễ, hãy tập trung về số 2 đường Đống Đa, Đà Nẵng để nghe nói chuyện về tình hình đất nước.”

Đây là cú lừa đầu tiên đối với hàng ngũ quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – những con người ngay thẳng, chân thật – chưa từng hình dung được sự trí trá, xảo quyệt và thâm độc của chế độ cộng sản Bắc Việt. Vì lòng tin và mong hiểu rõ tình hình đất nước, các sĩ quan đã lũ lượt kéo nhau đến địa điểm ấy. Và từ đó, tất cả những người tử tế… tự chui vào rọ! Có vào mà không có ra.
Cuộc đời tù đầy, "lao động khổ sai", của các quân nhân còn kẹt lại tại xứ Quảng bắt đầu từ đây. Chúng tôi bị đưa đến trại Kỳ Sơn thuộc tỉnh Quảng Tín – một vùng rừng núi hoang vu, bên dòng suối uốn khúc dưới chân khu mỏ vàng Bồng Miêu. Danh nghĩa của chúng tôi giờ bị gọi bằng cụm từ trơ trẽn: "tù cải tạo". Ngày ngày đói khát, rách rưới, nhưng vẫn phải lên rừng chặt cây, cắt tranh, rồi tự dựng lấy những căn nhà để… tự giam giữ chính mình.

Lúc đầu, anh Võ Vàng và tôi ở cùng khối 2 của trại 1 Kỳ Sơn, nhưng khác nhà: anh ở nhà 6, tôi ở nhà 9. Hai nhà này phần lớn là sĩ quan cấp tá, thường đi lao động chung. Sau một thời gian "biên chế" lại, anh về ở cùng nhà với chúng tôi.
Thật ra, khi anh còn ở Biệt Động Quân, tôi còn phục vụ tại Tiểu đoàn 3/1 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh. Lúc đó, tôi chỉ nghe danh anh chứ chưa từng gặp mặt. Mãi sau này, khi anh rời Biệt Động Quân về tạm ngồi tại Phòng 3, Quân Đoàn I để chuẩn bị theo học Khóa Tham Mưu tại Đà Lạt, tôi mới có dịp quen biết vì tôi đã về Phòng 3 trước anh.
Sau khi tốt nghiệp, Bộ Tổng Tham Mưu/Tổng Cục Quân Huấn đã chỉ định Trung tá Võ Vàng (Khóa 17) về phục vụ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – nơi được xem là "Trường Mẹ" – nhờ những chiến công rực rỡ cùng kinh nghiệm chiến trường quý báu của anh. Những kinh nghiệm ấy cần được truyền lại cho đàn em.
Tại Trường Võ Bị, anh lần lượt đảm nhận chức vụ Trưởng Khoa Chiến Thuật rồi Trưởng Khối Huấn Luyện Quân Sự. Với cương vị niên trưởng, anh đã truyền đạt tất cả kinh nghiệm xương máu, đầy máu và nước mắt, cho thế hệ đàn em còn đang dùi mài kinh sử dưới mái Trường Mẹ.
Đến tháng 3 năm 1972, khi tình hình chiến sự trở nên sôi động, anh tha thiết xin trở về đơn vị cũ để cùng đồng đội chiến đấu. Dù chị Võ Vàng không đồng ý, anh vẫn quyết chí ra đi – một ước nguyện của người trai Võ Bị yêu nước và trọng nghĩa đồng đội.
Và giờ đây, anh và tôi tái ngộ… trong một hoàn cảnh bi thảm nhất đời: trại "cải tạo" Kỳ Sơn.
Hằng ngày, chúng tôi cùng rong ruổi trên các nẻo đường rừng, đốn củi, cắt tranh, làm rẫy, trồng sắn, cấy lúa… đủ loại việc nặng nhọc, bẩn thỉu, không tên.

Ngày 11 tháng 4 năm 1976, tai họa đã đến.
Hôm đó là Chủ nhật, tên anh có trong danh sách thăm nuôi. Người đến thăm không ai khác hơn là vợ anh – chị Võ Vàng.
Kịch bản đã được chuẩn bị từ lâu. Chúng tạo ra yếu tố tâm lý vô cùng ác độc nhưng hoàn toàn bịa đặt để làm cái cớ thủ tiêu anh. Trong các buổi sinh hoạt toàn trại tại hội trường, một tên chính ủy từ trung đoàn đến nói chuyện đã trắng trợn vu khống:
“Tên Trung tá Võ Vàng là kẻ tội đồ của nhân dân và cách mạng. Hắn tàn ác đến mức, mỗi khi giết một chiến sĩ cách mạng, đều cắt tai họ xâu thành chuỗi đeo trước ngực rồi đi nghênh ngang giữa thành phố Đà Nẵng.”
Lời vu cáo trắng trợn ấy chỉ có thể phát ra từ những kẻ cộng sản chuyên nghề tuyên truyền và bịa đặt. Thành phố Đà Nẵng khi ấy có gần 800.000 dân. Nếu thực sự có người đeo tai người đi giữa phố, liệu không ai thấy? Không ai lên tiếng?
Song song với chiến dịch bôi nhọ, chúng còn canh đúng thời gian thăm nuôi – vốn định kỳ 3 tháng một lần. Một tên quân báo từ Quân Khu 5 đã đến trại 1 chờ sẵn. Khi anh được gọi đi thăm nuôi, một tên cảnh vệ tên Bốn dẫn anh cùng vài người khác ra khu gặp thân nhân.
Sau ít phút thăm gia đình, tên Bốn ra lệnh trở về trại. Nhưng tên quân báo kia – nhân danh "cấp lớn hơn" – ra lệnh cho anh Võ Vàng được ở lại thêm. Tên Bốn miễn cưỡng làm theo.

Ngay sau đó, chúng lại ra lệnh toàn bộ anh em khác tập họp để trở lại trại. Lần thứ hai, anh Võ Vàng vẫn được “cho phép” ở lại. Sự chênh lệch này đã tạo một tâm lý ganh ghét trong lòng tên cảnh vệ – đúng như kế hoạch của chúng: kích động và gieo thù hằn trong nội bộ để tiện bề thủ tiêu.
Có lẽ linh tính báo trước, nên dù được thăm nuôi và hưởng thời lượng gấp đôi người khác, anh vẫn tỏ vẻ nặng lòng, ít nói và không vui. Và đúng như linh cảm ấy: chiều hôm đó, anh bị gọi lên Ban Chỉ Huy trại để "nhận lệnh"…
Xin được tản mạn một chút để mô tả căn nhà chúng tôi ở trong trại cải tạo.
Cũng như tất cả các căn nhà khác trong trại, nơi ở của chúng tôi có bốn sạp nằm ở bốn góc, được ghép lại bằng những thân cây rừng do chính tay người tù chặt về. Bốn sạp nằm tạo thành hình chữ thập, để lại một khoảng trống chính giữa làm lối đi.

Tôi may mắn được nằm ngay trung tâm chữ thập – nơi đắc địa nhất – bởi ở đó có một hố đất nhỏ được đào để đốt lửa mỗi tối. Lửa vừa dùng để xua muỗi, vừa sưởi ấm trong cái lạnh của rừng sâu. Củi thì khỏi lo thiếu – mỗi người sau giờ lao động đều phải vác về một cây, dùng cho chính mình vào buổi tối.
Nhờ vị trí thuận lợi này, mỗi đêm anh Võ Vàng thường lân la đến chỗ tôi nằm để hút thuốc lào với anh Phạm Ngọc Bảo – người bạn thân thiết lâu năm vì hai anh có nhà sát nhau tại bãi biển Thanh Bình, Đà Nẵng. Anh Bảo thuộc khóa 12, anh Vàng khóa 17, còn tôi là “em út”, thuộc khóa 20 Trường Võ Bị.
Tình đồng môn đã gắn kết ba anh em chúng tôi với nhau bằng sự thương yêu và tin tưởng tuyệt đối. Trong môi trường tù đày, khi mà hiểm họa “ăng-ten” – tức những người tù làm tay sai cho quản giáo để dò la, báo cáo – luôn rình rập, thì niềm tin giữa chúng tôi quý hơn vàng.
Tối hôm định mệnh – ngày thăm nuôi 11 tháng 4 năm 1976 – như thường lệ, anh Vàng lại đến chỗ tôi.
Lần này anh tâm sự cặn kẽ chuyện được thăm nuôi thêm giờ, việc gây mâu thuẫn với tên cảnh vệ tên Bốn và bị trại bắt viết kiểm điểm vì “cưỡng lệnh cảnh vệ”. Anh hỏi ý tôi và anh Bảo xem nên viết như thế nào.
Tôi chân thành góp ý: hãy viết ngắn gọn, đúng sự thật, không biện hộ cũng không phản kháng. Tôi gợi ý nội dung:
“Khi tôi được anh cảnh vệ ra lệnh trở về trại, tôi đã nghiêm chỉnh chuẩn bị thi hành. Tuy nhiên, một cán bộ quân khu có mặt tại đó đã giữ tôi ở lại để tiếp tục gặp gia đình thêm ít phút. Tôi cam đoan đây là sự thật.”
Sáng thứ Hai, ngày 12 tháng 4 năm 1976, anh nộp bản kiểm điểm theo góp ý và tiếp tục đi lao động cùng chúng tôi. Tối đó, anh vẫn đến hút thuốc, nhưng lần này gương mặt trĩu nặng, ánh mắt xa xăm. Dù tôi và anh Bảo tìm lời an ủi, dường như anh đã linh cảm được điều chẳng lành.
Ngày Định Mệnh – Thứ Ba, 13 tháng 4 năm 1976
Như thường lệ, nhà chúng tôi được phân công đi phát rẫy tại khu đồng Cò Bay – con đường dẫn về phía mỏ vàng Bồng Miêu. Tên cảnh vệ Bốn trực tiếp dẫn đi. Anh Vàng và tôi đều nhận dao tông – loại dùng để đốn cây lớn. Suốt buổi sáng, anh đi sát bên tôi, vừa làm vừa trò chuyện như cố dằn nỗi lo âm ỉ trong lòng.

Khoảng 10 giờ, khi chúng tôi lên đến sườn cao cách đường mòn khoảng mười thước, tên Bốn gọi lớn:
– Anh trưởng toán đâu? Cho tôi mười người cầm dao tông theo tôi lên đốn những cây lớn hơn.
Khi người trưởng toán đang chọn người, anh Vàng nói với tôi:
– Ê mày, tụi mình xuống đi, nó đang kiếm người cầm dao tông kìa.
Tôi đáp gọn:
– Kệ cha nó, làm như không nghe.
Chỉ vài phút sau, tên Bốn đã có mặt phía sau lưng, đứng dưới đường mòn và chỉ thẳng vào anh Vàng:
– Anh kia! Xuống đây, đốn chỗ khác.
Anh Vàng rời tôi đi. Đó là giây phút cuối cùng… Tôi không ngờ rằng từ đó trở đi, tôi vĩnh viễn không còn được đứng cạnh anh nữa.
Chừng vài chục phút sau, một loạt đạn AK chát chúa vang lên. Tôi giật mình. Trong lòng dấy lên một linh cảm chẳng lành…

Đến giờ nghỉ trưa, khi tôi men xuống đường mòn, tôi gặp Thiếu tá Lê Văn Lộc – nguyên Trưởng khối CTCT, Ty Cảnh sát Thừa Thiên – Huế, hôm đó làm nhiệm vụ nấu nước. Thấy tôi, mắt anh đỏ hoe, môi mím chặt, rồi buông ra một câu nghẹn ngào:
– Anh Vàng chết rồi!
Tôi sững người, tay chân bủn rủn.
Mãi về sau, tôi mới biết rõ mọi chuyện. Sau khi tách nhóm mười người mang dao tông đi xa khỏi toán chính, tên Bốn lấy tiếp hai người để đi… đốn đót làm chổi (!). Việc này hoàn toàn phi lý – nếu muốn đốn đót, lẽ ra phải gọi những người cầm rựa chứ không phải dao tông.
Hai người bị gọi là Trung tá Nguyễn Văn Bá (Thủ khoa Khóa 13 Võ Bị) và anh Võ Vàng. Chúng cố tình chia hai người ra hai hướng: anh Bá được lệnh đi qua bên kia cây cầu lủng; còn anh Vàng phải xuống suối tìm đót.
Chỉ mới bước xuống khoảng mười thước, anh Vàng đã bị một loạt đạn AK kết liễu. Không ai còn nghi ngờ: anh bị sát hại có chủ đích.
Sau tiếng súng, tên Bốn gọi tôi – người giữ chức “nhà phó” – và ra lệnh khiêng xác. Tôi cùng Thiếu tá Trần Hữu Cảnh (Phòng 2/QĐI) tiến xuống dòng suối. Vừa rẽ khỏi đường mòn chừng mươi thước, cảnh tượng trước mắt khiến tim tôi thắt lại.
Anh Võ Vàng nằm úp mặt giữa lòng suối cạn.

Từ thắt lưng lên đầu ướt đẫm nước, phần còn lại vẫn khô. Cái xác lặng lẽ úp mặt như nuốt trọn oan khiên và căm giận. Không ai nói, không ai khóc, vì nước mắt lúc đó nghẹn trong lồng ngực – đau đến mức không thể bật thành tiếng.
Xác anh Vàng – Sự thật không thể lãng quên
Hai anh em – tôi và Thiếu tá Trần Hữu Cảnh – lặng lẽ lật thi thể anh Võ Vàng lên khỏi mặt suối. Khi nhìn thấy những vết đạn, chúng tôi không kìm được cảm xúc – nước mắt trào ra, nghẹn đắng. Những phát đạn quá tàn độc, quá dã man.
Tôi đếm được bảy vết đạn, tất cả đều bắn từ sau lưng xuyên ra trước thân thể anh. Nhưng có hai phát đã in hằn trong trí nhớ tôi như vết cắt suốt đời không lành: một phát xuyên từ lưng ra trước ngực, hơi chếch về bên trái – xuyên tim, phá nát lồng ngực anh. Phát còn lại đi từ hàm phải xuyên qua miệng bên trái, khiến hàm răng vỡ nát, miệng anh không thể khép lại.
Năm viên còn lại rải rác khắp tay, mông, chân – như thể tên súc vật kia chỉ bắn để thỏa mãn cơn điên thú máu lạnh.
Chúng tôi khiêng thi thể anh lên đặt cạnh nơi anh Lộc – Thiếu tá Cảnh sát, đang nấu nước cho anh em lao động. Tôi cúi xuống, run run lục ví anh. Trong đó là tấm hình nhỏ chụp vợ con, số tiền 200 đồng, và trên tay anh còn đeo chiếc nhẫn vàng khoảng hai chỉ, cùng một đồng hồ hiệu Longines nơi cổ tay.
Xin mở ngoặc: thời điểm đó, trại cải tạo còn thuộc sự quản lý của quân đội nên tù nhân vẫn được giữ tư trang cá nhân. Về sau, khi chuyển sang quản lý bởi công an (“bò vàng”), toàn bộ tài sản đều bị tịch thu, buộc phải “ký gửi”.
Tôi viết biên bản theo quy định, nhưng bị ép sửa chi tiết: chiếc nhẫn vàng bị buộc phải ghi là "nhẫn màu vàng", không được ghi trọng lượng – trò tráo trở đầy toan tính, hệt như thủ đoạn đổi tiền lừa đảo sau 30 tháng 4. Rõ ràng chúng muốn dễ bề đánh tráo, cướp đoạt của người chết.
Về sau, khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi có dịp gặp lại chị Võ Vàng. Chị nghẹn ngào kể: bọn cộng sản trả lại chiếc đồng hồ Seiko, trong khi tôi – người tận tay lấy từ cổ tay anh – biết rõ đó là Longines. Ai cũng hiểu chuyện gì đã xảy ra…
Việc chôn cất – những giờ cuối cùng
Thi thể anh vẫn nằm đó cho đến khi mọi người ăn trưa xong. Một toán anh em được phân công chôn cất anh gồm:
Nguyễn Văn Tố, Trung tá, nguyên Tỉnh trưởng Phú Yên
Nguyễn Văn Chước, Trung tá, nguyên Biệt Động Quân
Đ.H.X, Thiếu tá Thiết đoàn M48, Quảng Trị
Trần Hữu Cảnh, Thiếu tá Phòng 2/Quân Đoàn I
Một chuyện kỳ lạ xảy ra ngay trước cổng trại: khi toán khiêng xác chuẩn bị đưa anh vào “chuồng cu” – căn nhà nhỏ dùng để nhốt người kỷ luật – bỗng nhiên xác anh trở nên nặng trĩu, hai người khiêng bị kéo xuống không nhấc nổi.
Anh Cảnh chợt khấn vái:
“Xin anh Vàng hãy thông cảm cho chúng tôi. Đây là lệnh trại, không phải ý chúng tôi. Xin anh nhẹ bước để chúng tôi làm tròn bổn phận.”
Sau vài lời khấn thành tâm, điều kỳ lạ xảy ra: xác anh bỗng nhẹ hẳn, và họ có thể tiếp tục khiêng vào.
Chưa hết. Sau này, một số anh em ở ngoài Tổng trại kể lại rằng: tên Bốn – kẻ trực tiếp sát hại anh – có dấu hiệu thần kinh bất ổn. Suốt ngày, y vừa đi vừa lẩm bẩm:
“Tôi đâu có muốn giết anh! Tôi đâu có muốn giết anh!”

Tôi không tận mắt chứng kiến nên chỉ dám ghi lại với sự dè dặt, nhưng lòng tôi tin: cái chết oan nghiệt ấy vẫn đeo bám tên sát nhân như một lời nguyền.
Việc mai táng – gian nan và cay đắng
Đến xế chiều, khi anh em đang đào huyệt để chôn anh thì tên Nhất, trưởng trại, đi họp ngoài Tổng trại về. Vừa nhìn thấy huyệt, y hét lớn:
“Chôn ở đây không được! Sau này chỗ này sẽ mở đường lên mỏ vàng Bồng Miêu!”
Thế là phải lấp hố, tìm vị trí khác. Nhưng nơi thứ hai chỉ đào sâu vài mươi phân thì gặp đá tảng cứng ngắc. Không đào nổi. Lại phải đổi nơi khác – lần này cao hơn, trên triền núi.
Lúc ấy trời đã nhá nhem tối, bóng chiều rừng đổ dài giữa núi đồi âm u. Đến huyệt thứ ba, việc mai táng mới tạm hoàn tất.
Một kế hoạch trả thù đầy toan tính
Mọi chuyện – từ việc cử cán bộ quân báo Quân Khu 5 xuống trại, chờ đúng đợt thăm nuôi, tạo ra xích mích giữa anh và tên cảnh vệ, rồi bày trò lệnh chồng lệnh, dẫn đi riêng, chia tách khỏi toán – tất cả đều là một kế hoạch trả thù tinh vi và hèn hạ.
Bọn cộng sản không chỉ muốn giết một sĩ quan VNCH. Chúng muốn hủy diệt biểu tượng, gây sợ hãi, và bịt miệng những người còn sống. Nhưng chúng đã lầm. Cái chết của Trung tá Võ Vàng không bị quên lãng, mà trở thành một phần lịch sử đau thương và bất khuất.
Âm mưu hạ sát và những trò diễn vụng về
Sau ngày Chủ nhật định mệnh anh Võ Vàng được thăm nuôi, sáng thứ Hai, trại yêu cầu anh nộp bản kiểm điểm. Bản viết chân thành và ngắn gọn theo góp ý của chúng tôi đã bị đánh giá là “tránh né, quanh co, ngoan cố, không nhận lỗi.” Sang ngày thứ Ba, trại cử anh đi lao động và cố ý phân công tên vệ binh Bốn – một kẻ đã bị kích động sẵn lòng thù hận – dẫn đoàn phát rẫy để rồi ra tay hạ sát. Mọi việc diễn ra y như một kịch bản đã được dàn dựng từ trước.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là bọn chúng không để lộ những sơ hở thô thiển. Ngay sau khi bắn anh Vàng, tên Bốn đã xuống suối nhúng nước cho ướt quần đến đầu gối, rồi lặng lẽ vác súng trở về trại. Hàng chục cặp mắt tù nhân chúng tôi đều nhìn thấy khẩu súng còn nguyên vẹn, không hề có dấu vết va chạm nào.
Thế nhưng, đến xế trưa hôm đó, khi các cán bộ từ trung đoàn đến hiện trường lập biên bản, thì báng súng lại xuất hiện vết chém! Họ viết rằng anh Võ Vàng là “tên phản động”, đã “tính cướp súng, chém cảnh vệ nên buộc lòng vệ binh phải bắn để tự vệ”. Một trò lừa rẻ tiền.
Lố bịch thay, tất cả các vết đạn trên thân thể anh đều bắn từ sau ra trước. Vậy thì anh lấy gì để “tấn công” từ phía trước?
Lời của một người còn lương tri
Tối hôm ấy, như thường lệ, một anh y tá người Bắc – thường ghé nhà 9 trò chuyện và hút thuốc lào với anh em – vừa bước vào đã buột miệng:
“Đ.m. chúng nó! Chúng nó bắn một người vô tội! Vết đạn bắn từ sau ra trước mà bảo người ta cướp súng, phản động! Ngày mai xác minh biên bản, bố mày sẽ ghi rõ ràng là đạn bắn từ phía sau!”
Đó là lời nói của một người còn giữ được nhân tính giữa bầy sói. Nhưng chỉ vài hôm sau, anh y tá ấy biến mất. Anh không bao giờ quay lại nhà 9 nữa.
Bắt chết chưa đủ, còn phải bôi nhọ danh dự người đã khuất
Cướp đi mạng sống của anh Võ Vàng chưa đủ, bọn cộng sản còn tiếp tục bức hại người ở lại.
Về sau, khi tôi có dịp gặp chị Võ Vàng tại Hoa Kỳ, chị kể rằng: sau cái chết oan khiên của chồng, chị bị đuổi khỏi công việc dạy học tại Trường Trung học Phan Chu Trinh – Đà Nẵng. Mọi nguồn sống của mẹ con chị bị cắt đứt.
Không dừng ở đó, bọn chúng còn lan truyền tin bịa đặt rằng Trung tá Võ Vàng là “tên phản động khát máu”, được đưa vào cải tạo để “giúp hoàn lương” nhưng vẫn “cố tình cướp súng và bị trừng trị”. Tin đồn này lan khắp nơi, khiến người thân, bạn bè, thậm chí hàng xóm cũng xa lánh gia đình chị, vì sợ bị liên lụy. Một số người quá ngây thơ còn tin là thật, và chê trách anh Vàng “dại dột”, “đem dao đi đọ súng”. Đau đớn và cay đắng làm sao!
Trả lại danh dự – muộn màng nhưng cần thiết
Phải rất lâu sau, khi tôi được nhà báo Huy Phương mời lên kể lại câu chuyện thảm sát Trung tá Võ Vàng trong trại cải tạo, chị Vàng đã xem được cuộc phỏng vấn. Sau buổi phát sóng ấy, chị gọi điện cho tôi, nghẹn ngào nói:
“Xem như anh Vàng đã được rửa mặt…”
(Rửa mặt, ở đây, nghĩa là rửa sạch nỗi nhục, trả lại danh dự.)
Chỉ tiếc rằng, còn quá nhiều người nhẹ dạ cả tin, vẫn bị lừa bởi tuyên truyền rẻ tiền của cộng sản Bắc Việt. Họ chưa từng nghe, hoặc đã quên, lời cảnh báo bất hủ của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:
“Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.”
Chứng nhân còn sống – tâm nguyện chưa tròn
Gần đây, tôi đọc được một bài viết của anh Đ.H.X, cũng viết về cái chết của anh Vàng. Anh X. là Thiếu tá thuộc Thiết Đoàn M48 – Quảng Trị, và tôi biết khá rõ anh từ ngày đầu vào trại. Hiện nay, anh vẫn còn ở lại Việt Nam, trong hoàn cảnh rất khó khăn, nên tôi xin phép không nói rõ thêm để bảo vệ anh.

Trong bài viết, anh X. kể rằng: sau khi khiêng thi hài anh Vàng về trại, anh bị ép làm biên bản sai sự thật, hoàn toàn trái ngược với những gì anh đã tận mắt chứng kiến. Họ bắt anh ký vào biên bản với họng súng chĩa vào đầu.
Anh X. tâm sự rằng: từ ngày đó, anh mang theo trong lòng lời nguyện: sẽ kể lại sự thật về cái chết của anh Vàng, bằng mọi giá, trước khi nhắm mắt. Và dù hoàn cảnh còn ngặt nghèo, tôi tin anh vẫn giữ trọn lời hứa với người đã khuất.
Kết lại: Một cái chết điển hình cho tội ác có hệ thống
Tính đến nay, cái chết của Trung tá Võ Vàng đã trôi qua nhiều năm, nhưng đối với chúng tôi – những người chứng kiến – hình ảnh ấy vẫn hiện rõ mồn một: tấm thân đẫm máu, gương mặt úp xuống suối, những phát đạn tàn bạo từ sau lưng.
Nếu ai đã từng đọc lịch sử nội chiến Hoa Kỳ, chắc hẳn sẽ biết: đoàn quân miền Bắc chiến thắng vẫn tôn trọng danh dự kẻ chiến bại miền Nam, không có trại cải tạo, không hạ nhục thù địch.

Gần hơn, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Tây Đức đón Đông Đức bằng sự quân tử, khoan dung – không hề có một cuộc “đấu tố” hay “trả thù”.
Thế mà ở Việt Nam, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, bọn cộng sản Bắc Việt – những kẻ nhân danh “giải phóng” – lại dựng lên trại giam, tra tấn, giết hại một cách hèn hạ, đê tiện. Vụ sát hại anh Võ Vàng chỉ là một trong hàng ngàn ví dụ về cái gọi là "cải tạo" nhưng thực chất là trả thù giai cấp.
Thế mà bọn chúng – những kẻ vô nhân tính, xảo trá, mọi rợ – hôm nay vẫn dám lớn tiếng kêu gọi “hòa hợp, hòa giải”, vẫn lải nhải những luận điệu xảo trá về “xóa bỏ hận thù”.
Nếu có ai tin được điều đó, thì có lẽ người ấy đang mắc chứng hoang tưởng… hoặc đang ngủ mê trong giấc mộng của kẻ bại trận không dám đối diện sự thật.
(Trích từ Hồi ký Phạm Văn Hồng) sửa bởi Gibbs VIETBF