Ông Phan Tôn Công nói dối vợ rằng ông đã kiếm thêm được job thứ hai, làm ca đêm ở môi trường độc hại nên tạm thời không chung chăn chung gối được, nhưng chẳng bao lâu bà vợ biết rõ cái job thơm này của chồng là đi ngủ với vợ hai, bà bèn đi thưa. Quan tòa ra lệnh cho Công ngủ với vợ cả, Công không được ngủ với vợ hai. Công thi hành án lệnh, nhưng bà vợ cả lại đi kiện, vì chồng không thi hành đúng. Quan tòa tức giận đập bàn la bị cáo rằng sao dám coi thường pháp luật, cho nên gia tăng hình phạt, không cho Công ngủ với vợ nào nữa mà còn bị làm “công chức”, tức nhặt rác một tháng ở bên lề xa lộ. Công kêu oan, trình lên quan bản án đánh máy, có chữ ký của quan và đóng mộc đàng hoàng, bản án ghi rằng:
“Ngủ với vợ cả không được, ngủ với vợ hai”.
Thực ra ai cũng hiểu ý quan tòa, nhưng thư ký tòa đã ăn hối lộ của Phan Công, xê dịch cái dấu phẩy (,) đi một ly để chuyện sai đi một dặm, đúng hơn là đảo lộn án lệnh. Bút sa ông tòa hết cãi, Công cứ y án ngủ với vợ hai.
Chuyện khác, có cụ Tổng biết mình sắp chết nên gọi vợ chồng đứa cháu nội đến nhận di chúc và căn dặn đứa cháu dâu rằng phải có nhiều con thì vợ chồng cháu mới vui vẻ hạnh phúc, chứ như ông nội chỉ có 1 con nên buồn lắm. Thằng cháu nội nháy mắt với luật sư viết di chúc, nên di chúc viết như sau:
“Gia đình cháu phải có nhiều con vợ, chồng cháu mới vui vẻ hạnh phúc”.
Từ đó mỗi khi vợ chồng lục đục về chuyện cơm với phở thì thằng cháu lại mang di chúc của ông nội ra dẫn chứng. Hắn than với vợ rằng “mệt lắm”, nhưng vì chữ hiếu mà phải vâng lời ông nội mà thôi.
Chuyện khác nữa, cô em vợ đi thưa thằng anh rể Odam về cái tật hay sờ mó, quan tòa phán “Sờ mó vợ, cấm sờ mó em vợ”. Thằng thư ký tòa mổ cò trên computer sai vị trí và thêm cái dấu phẩy:
“Sờ mó vợ, cấm, sờ mó em vợ”.
Trăm tội rắc rối cũng chỉ vì cái dấu phẩy (,) đứng lộn chỗ. Đó là chuyện của các ông có đầu óc kỳ thị phân chia ngôi thứ, chứ còn tôi thì không bao giờ phân chia giai cấp, sống phải cho công bằng, vợ cả, vợ hai, vợ ba, 3 vợ đều là vợ cả. Chuyện tôi muốn nói hôm nay là mong các vị cao tay chỉ dẫn cho biết cách dùng đúng chỗ những cái dấu phẩy (,), dấu chấm phẩy (, dấu chấm (.), dấu 2 chấm (, dấu 3 chấm (…), dấu gạch nối (-), dấu chấm than (!), dấu chấm hỏi (?), dấu ngoặc đơn (), dấu ngoặc kép (“..”), dấu chấm vân vân (v.v..) v.v.. trong các bài viết.
Ngày xưa có những ông thợ cò chuyên môn sửa lỗi chính tả cho các tờ báo, ngày nay nghe nhà văn Ấu Tím nói có cái xốp-gue sửa lỗi chính tả, sau khi viết bài xong, chỉ cần click một cái là mọi sai sót đều được điều chỉnh, ông nào “dê” không đúng chỗ là máy sửa lưng ngay. Đó là chuyện của các nhà văn nhà báo chuyên nghiệp, còn nhà báo cô, tức là báo hại cô vợ như tôi, ăn xong không giúp vợ rửa chén, lau nhà, đổ rác mà ngồi hí hoáy viết, viết xong rồi xóa, xóa rồi lại hì hục viết thì thật là phiền toái về mấy cái lỗi chính tả thổ tả này.
Không biết có sách văn phạm tiếng Việt nào dậy về việc dùng các dấu kể trên hay không, nên tôi đem chuyện rắc rối đi hỏi ông Vấn Vẩu, chuyên viên tài chánh thì ông ấy bảo Mỹ Việt khác nhau, coi chừng mang họa với cái dấu phẩy, dấu chấm khi viết chi phiếu. Hỏi nhà văn nhà thơ lão thành Khôi Phạm Kim thì ông bảo việc dùng những dấu kể trên rất dễ nhưng cũng rất khó, dùng sai dẫn đến câu văn “què”, mà viết văn què là thiếu tôn trọng độc giả, dù nội dung có hay. Ông khuyên tôi chỉ nên dùng dấu phẩy, dấu chấm, chấm hỏi, chấm than cho những bài báo, câu chuyện bình thường là được rồi.
_ Ông là nhà văn, ông nói thì dễ mà ông làm cũng dễ luôn, nhưng còn những dân chuyên môn bóp cò như chúng tôi, nói lại cho rõ là bóp cò súng kẻo lại hiểu lầm là “nâng bi”, nay gẫy súng rồi, không còn cò mà bóp nữa nên muốn gõ vài trang kể lại chuyện cây súng gẫy, cây súng bất khiển dụng thì thật là vất vả quá!
_ “Đã bảo rằng càng đơn giản càng dễ hiểu, bày đặt chi những cái gạch nối (-), gạch nối (-) không thể thay thế dấu phẩy, những cái 3 chấm (…). Dấu 3 chấm là dấu bỏ lửng, tức là khi muốn nói một điều gì đó nhưng khó nói thì bèn chấm chấm ( …) ra vẻ ngập ngừng, bỏ lửng để người đọc tự tìm hiểu. Thí dụ câu sau đây: “Em xinh quá, anh muốn …”. Ba cái chấm là lấp lửng ý muốn làm quen, muốn cầm tay, muốn hôn má em v.v.. em cho điều nào anh nhận điều đó, không than phiền.
Ngoài những cái dấu ngắt câu không đáng yêu chút nào, người miền Nam tôi cỏn gặp rắc rối về dấu hỏi và dấu ngã, nói thì đúng, nhưng khi viết thì lộn tùng phèo, chữ “hỏi” thì viết thành “hõi”, chữ “ngã” thì viết thành “ngả”, mà “ngã, ngả” thì ý nghĩa khác nhau. Tôi có đọc bài viết của một chuyên gia chữ nghĩa hướng dẫn về những quy tắc, luật lệ dùng dấu “hỏi, ngã” mà cứ như đi vào bát quái trận đồ. Thôi, chịu thua, cố gắng được phần nào hay phần nấy, phần còn lại nhờ mấy ông gốc miền Bắc sữa dùm hay sửa dùm tùy ý.
Nhưng còn một nguyên nhân dẫn đến lộn dấu “hỏi ngã” mà bất cứ ai, không kể Bắc Trung Nam, đều mắc phải là khi “mổ cò” trên computer. Hai ngón tay trỏ to bằng quả chuối mắn, còn hai số 3 và 4 tượng trưng cho hai dấu “hỏi ngã” ở trên hai ô vuông nhỏ nằm sát nhau, giống nhau như hai chị em sinh đôi, nên mấy anh (gõ) lộn cũng là chuyện bình thường, lỡ có lộn thì xin lỗi, chỉ cần chú ý một tí là lần sau có thể tránh được, trừ khi cố tình với ý đồ “mía ngon đánh cả cụm”.
Hỏi với ngã đã mệt rồi lại còn thêm rắc rối của 2 chữ C và t nữa! Trong một lần ngồi đánh tứ sắc với mấy bà bạn hàng xóm, tôi bốc bài lên, không có đôi mà cũng chẳng khạp, toàn là cọc-cạch, đứt đầu tướng, xe ngựa có rồi nhưng thêm hai chàng pháo gác hai bên, đánh chừng nào mới “xên” đây? Tôi chán nản toan vỗ đùi người ngồi bên cạnh mà than “rát (rác) quá” nhưng liếc thấy cô vợ BK nho nhỏ đang dòm chừng tôi đành bèn than với nàng rằng:
_ Em ơi, “rác” hay là “rát”, là c hay là t?
_ Rõ nỡm, anh hỏi thật hay đùa đây? Muốn “rác” (c) thì đi đổ cho em thùng rác, còn muốn “rát” (t) thì vào đây em cạo gió rồi xoa dầu cho là biết thế nào là “rát” ngay.
Nghe nói thì biết vậy chứ vẫn cứ lộn giữa c và t, “cắt” và “cắc”. Muốn diễn tả thời tiết khắc nghiệt, lạnh như cắt hay như cắc đây? Nếu là “cắc” mà gặp chàng gốc sông Hương núi Ngự như Phu Nhơn mà than “trời lạnh như căc” thì dễ bị hiểu lầm đấy. Việc nọ xọ sang việc kia, cái việc “dê” thế nào cho đúng lúc đúng chỗ cũng vất vả lắm. Đọc cuốn “Can Trường Trong Chiến Bại”, tác giả viết:
“Khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh buôn súng..”.
Tôi phải hỏi cô vợ BK gốc rau rằng buôn có “g” hay không? Nàng bèn đi một đường giải thích:
_ Buôn (không g) là buôn bán, là đi mua, “buôn súng” là đi mua súng, ông DVM tuyên bố đầu hàng thì bắt quân đi buôn súng để làm gì? Ổng ta ra lệnh cho quân đội bỏ súng xuống, vứt súng đi, tức buông (có g) súng xuống. Thôi, anh làm ơn buông em ra, để em còn đi buôn, đừng có mượn cớ rồi nắm tay em mãi.
_ Thế thì làm cách nào để biết “dê” (g) sao cho đúng lúc, đúng chỗ?
_ Phải để ý dòm chừng câu văn hay đối tượng có muốn “g” hay không, anh mà “dê” lộn xộn là em cắt. “G” không đúng chỗ là có ngày mang họa vào thân.
Dù nàng có đe dọa cắt, nhưng biết làm sao tránh được, “dê” không đúng chỗ là cái tật dễ thương của anh em chúng tôi. Tóm lại những lẫn lộn vể dấu hỏi, ngã, về c hay t, g hay không g là chuyện bất khả kháng, ráng sửa được chừng nào hay chừng nấy, xin độc giả thông cảm cho anh em niềm Nam chúng tôi, nhất là khi chúng tôi mới tập tễnh viết để ghi lại những kỷ niệm “đơn vị cũ, chiến trường xưa” sau khi đã hoàn tất mọi công việc nội trợ. Việc nội trợ là việc của đàn bà như đi chợ, nấu cơm, quét nhà, rửa bát, lau chùi v.v.. Ừa thì ngày xưa còn khỏe, còn chiến đấu, còn làm công việc của đàn ông, nay không còn sức để làm nhiệm vụ “đàn ông” nữa thì lo việc nội trợ có sao đâu, cũng đều là những hành động yêu vợ cả đấy mà.
Hết chuyện rắc rối vì mấy cái dấu nhỏ bằng móng tay, nay tôi quay qua hỏi chuyện viết hoa. Nếu đọc các bài viết trên các tạp chí, đặc san, lỏng san, tập san v.v.. thì chúng ta sẽ hoa mắt lên vì các chữ viết hoa, nhất là các bài viết có dính dáng đến quân đội, tôi không biết phải viết làm sao cho đúng nên tìm thầy hỏi. Thầy HVP, tục danh Phú-Phét, một nhà văn nổi tiếng viết hay, hay viết về các đề tài như kho đạn, bãi mìn, TNT, C4 v.v…
_ Thưa thầy, viết hoa khi nào và thế cho đúng, thí dụ 2 cách viết tên sau đây: Huỳnh Văn Phú và Huỳnh văn Phú. Cách thứ nhất ở giữa viết hoa (to), cách thứ 2 ở giữa nhỏ.
_ Sách vở đã dậy rằng danh từ chung thì không viết hoa, còn danh từ riêng là phải viết hoa, tên người là danh từ riêng thì phải viết hoa, viết tất cả họ, tên đệm, tên, dù tên đó dài hay ngắn. Thí dụ ngắn như ông Võ Kỉnh, dài như cô Công Tằng Tôn Nữ Thị Kim Chi, trung bình như Nguyễn Hồng Miên, Trần Tiễn San, Huỳnh Văn Phú v.v.. Đa số các cụ ngày xưa thường dùng tên đệm “văn” cho nam, ý chỉ việc học hành văn chương chữ nghĩa, còn “thị” là tên đệm cho phái nữ. Chữ “thị” còn có nghĩa là cái chợ, là ồn ào, không biết các cụ nghĩ sao mà lại trọng nam khinh nữ như vậy? Vì có sự hiểu lầm đó là danh tử chung nên không viết hoa hai chữ đệm “văn” và “thị”, điều đó không đúng. Nguyễn Hồng Miên, chữ “Hồng” là tên đệm, viết hoa thì tại sao lại viết Phạm văn Phú? Văn cũng là tên đệm vậy, cũng là chữ ở giữa, không lẽ có sự kỳ thị hay so sánh? Tóm lại, tên người là viết hoa tất cả
_ Thế còn Cần Thơ, Cần thơ hay cần Thơ? Hạ Lào, Hạ lào hay hạ Lào? Quảng Trị hay Quảng trị?
_ Rõ là bạn bị tẩu hỏa nhập ma rồi. Ngay từ tiểu học, văn phạm đã dạy chúng ta phải viết hoa những danh từ riêng, không viết hoa những danh từ chung, cứ theo nguyên tắc này mà đi thì không bị lạc đường. Cần Thơ là danh từ riêng, tên riêng một thành phố, Hạ Lào là tên riêng một địa danh, cả thế giới chỉ có một tên Cần Thơ thôi, vậy thì phải viết hoa cả hai chữ Cần và Thơ, ai viết Cần thơ, cần Thơ là không đúng. Hạ Lào, chứ không phải Hạ lào, tệ hơn nữa là viết “hạ Lào”. Cũng thế, phải viết hoa cả 2 chữ Quảng Trị.
_ Thế còn câu này: “Tôi sinh ở Tỉnh Mỹ Tho, Quận Cai Lậy” thì thế nào?
_ Những danh từ chỉ xóm làng, xã, quận, huyện, tỉnh, thành phố, thủ đô, chùa, nhà thờ, thánh thất v.v.. đều là những danh từ chung. Có biết bao nhiêu cái xóm, nào là xóm Ông Năm, xóm Bà Tình, xóm Chị Quý v.v.. văn phạm đã dạy không viết hoa, trừ khi nằm ở đầu câu hay sau dấu chấm. Tỉnh cũng là danh từ chung, không viết hoa, vì vậy phải viết là tỉnh Mỹ Tho, quận Cai Lậy.
Tôi ghi lại đoạn văn sau đây để xin thầy giải thích về những chữ gạch đít nên viết hoa hay không?
“Rời hậu cứ ở Xã Khoai Hà, Quận Thủ Thừa, trực chỉ về tỉnh Phong Dinh, nghỉ qua đêm ở thị trấn Cái Răng. Hôm sau từ Phi Trường Trà Nóc được trực thăng vận vào vùng chiến trận”.
Như đã nói ở phần trên thì những chữ xã, quận, tỉnh, thị trấn, phi trường đều là danh từ chung, không cần viết hoa. Trong đoạn văn trên, tác giả đã không dựa vào luật, mà viết “hoa và không hoa” tùy hứng, cùng là danh từ chung thì viết Xã Khoai Hà, Quận Thủ Thừa, nhưng lại tỉnh Phong Dinh. Thế “nà” thế “lào”?
_ Thưa thầy và thưa quan DinhDauBac, con xin trích nguyên văn câu sau đây trong tập san BĐQ số 32 để xin thầy và quan chỉ dẫn về mấy danh từ đơn vị viết hoa và không viết hoa (những chữ gạch đít)
“Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của trung đoàn 9, Sư đoàn 5 BB trong khi xung phong….”
_ Coi chừng bị Cọp bắt đấy (bắt chứ không phải bắc). Trong đoạn văn trên, câu “một tiểu đoàn” là nói đến một tiều đoàn nào đó của Trung Đoàn 9 nên không viết hoa là đúng rồi. Nhưng “trung đoàn 9” và “Sư đoàn 5BB” chỉ rõ danh xưng, là danh từ riêng nên cần phải viết hoa. Không viết hoa danh từ “trung đoàn 9” mà lại viết hoa danh từ “Sư đoàn 5 BB” là không công bằng, là nhất bên trọng nhất bên khinh. Đây là tác giả biết nhưng không chú ý mà thôi. Đề nghị câu trên nên viết cho hợp lý như sau:
“Trong trận Ấp Ba, một tiểu đoàn của Trung Đoàn 9, Sư Đoàn 5/BB trong khi xung phong ..”
Tóm lại các danh xưng đơn vị như tiểu đội, trung đội, tiểu đoàn, sư đoàn, quân đoàn v.v.. đều là danh từ chung, không cần viết hoa, nhưng khi có danh từ chỉ định đi theo sau thì nhóm danh từ này trở thành danh từ riêng nên viết hoa cho đẹp lòng nhau.
Đó là đơn vị, còn về con người thì sao? Cùng nhau đọc câu này:
“Tôi thấy một hạ sĩ làm tài xế cho Đại Tướng”.
Trong câu trên, hạ sĩ hay đại tướng đều là danh từ chung, phải được đối xử công bằng như nhau, không có chuyện coi thường hạ sĩ mà nịnh Đại Tướng được. Nhưng nếu hạ sĩ tên là Bé, đại tướng tên là Lớn thì câu trên nên viết cho đúng để vui vẻ đôi bên là:
“Tôi thấy Hạ Sĩ Bé làm tài xế cho Đại Tướng Lớn”.
Ngoài ra chúng ta cũng nên để ý đến một số danh từ cần viết hoa như ngày, tháng, hướng, mùa. Thí dụ như Thứ Hai, Tháng Ba, Đông, Tây, Nam, Bắc, Xuân, Hạ Thu, Đông.
Những cái rắc rối về lỗi chính tả trong các bài viết tiếng Việt đã được các chuyên viên chữ nghĩa giải đáp, có thể do kinh nghiệm nghề nghiệp, có thể họ căn cứ vào tài liệu, tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đã giúp cho chúng tôi rất nhiều điều hữu ích. Có những lỗi rất khó chữa do thói quen địa phương, nhưng có những lỗi rất thông thường nếu người viết chú ý một tý, chịu khó đọc lại thì có thể tránh được và sửa được, tức là tác giả đã tôn trọng độc giả rồi đấy. Tôi xin ghi tóm tắt lại để quý vị tùy nghi chứ tôi không hề có ý chẻ sợi tóc làm tư làm tám, không hề có ý dám vẽ chuyện và cũng xin quý vị góp ý, bổ sung thêm hầu cùng giúp nhau tránh được những lỗi sơ đẳng.
Điều chính yếu tôi muốn nói trong bài viết này là mượn câu chuyện “cái dấu phẩy” để “phết” vào đít những ai khi thấy danh từ mới XHCN là vội vàng vồ lấy mà dùng. “Thấy sang bắt quàng làm họ” đã là điều đáng chán, chữ nghĩa XHCN không sang, chẳng sáng mà tối mò, có khi lại lộn lèo vậy mà một số báo chí và xướng ngôn viên các đài phát thanh hải ngoại cứ nhận là bà con! Thu em hỏi quá!
Ừa, thôi thì mấy người này thấy ngôn ngữ XHCN đo-đỏ thì cũng ráng nói theo, viết theo, làm theo cho có vẻ đỏ đít một tý, nhưng còn những người anh em tôi, đồng đội tôi, những người gốc lính thì hà cớ chi mà dính vào những thứ “bân hỏi bẩn” này! Thật là ngứa tai, chói mắt khi một số đồng đội của tôi nói và viết cái thư ngôn ngữ thổ tả này. Có ông còn cố bào chữa rằng vì ở tù lâu nên quen mất rồi!
Nguy hiểm là ở chỗ này đây, “cải tạo” lâu ngày chuyện sai trái cũng thấy quen quen!.
Chẳng phải tôi cực đoan, cái gì dính tới VC là chê đâu, thực ra cái gì của họ hay hay thì tôi cũng phải khen chứ, thí dụ như họ dùng chữ “cải tạo” để nhốt những người vô tội. Rất nhiều vị chê chữ “cải tạo” mà tự nhận mình là “tù”, đó là quyền của quý vị, riêng tôi “tù” là phải đi với “tội”, cả thế giới này đều bỏ tù kẻ phạm tội, trừ VC, không nhốt kẻ cướp của công mà dùng chữ “cải tạo” để nhốt người vô tội! Tôi đếch có tội gì cả nên không nhận là tù. Tù có thời gian, dù 1 ngày đến 1 thế kỷ, cỏn “cải tạo” là không hạn định, khi nào tiến bộ thì được về. Tôi xin kể câu chuyện vui mà quý vị đã nghe nhiều lần về cái đáng sợ của 2 chữ “cải tạo”
“Ba nhà lãnh đạo Pháp, Mỹ, Liên Sô đi dạo phố Bombay, xứ thờ bò, nhưng bị đàn bò nghênh ngang giữa đường, TT Pháp xin bò nhường đường sẽ bồi thường “La vache qui rit”. Nghe TT Pháp nói thế đàn bò bèn cười hô hố. TT Mỹ năn nỉ bò tránh ra sẽ cho nhiều dollars, đàn bò giở thói cao-bồi nghinh lại. Tổng bí thư Nga ghé tai nói nhỏ, đàn bò té đái vãi cứt ù té chạy bán sống bán chết. TT Pháp, Mỹ quá đỗi ngạc nhiên hỏi lý do, Nga bảo: “Thứ nhất tôi nói tiếng súc vật, thứ hai tôi bảo chúng tránh ra, nếu không thì tôi cho đi cải tạo”.
Vậy thì XHCN dùng chữ “cải tạo” đối với chúng ta là “hay” lắm đấy. Cải tạo là nạo óc, ghê gớm hơn tù nhiều, ghê gớm đến độ ngu như bò mà còn sợ té đái, huống chi người. Nó “hay” ở chỗ VC dấu kín được cái ác độc hơn tù nên tôi mắc nỡm, tình nguyện đi “cải tạo”! Có bác luật sư kết tội rằng tôi khen “cải tạo” là tầm bậy, phải nói là “đi tù”. Thưa cái đó là tùy quan niệm cá nhân, ls thích coi mình là tù thì tùy.
Về cách dùng chữ mới, cũng có nhiều bác thanh minh rằng chữ này chữ nọ có trong tự điển, đâu phải là của VC. Tôi hoàn toàn đồng ý, thí dụ như những chữ “tiếp cận”, “đăng ký” “thân thương” “khẩn trương” v.v.. có trong tự điển, nhưng thời VNCH chúng ta không dùng, hoặc chỉ dùng vào những trường hợp chính xác mà thôi, nay nó xuất hiện tùm lum theo XHCN mà các bạn lại theo đuôi thì chán mớ đời. Chúng ta có dùng chữ “khẩn trương”, tình trạng khẩn trương, nhưng không bao giờ nói “đái khẩn trương lên”. Xuống xóm ngắm hoa Mai, Lan, Cúc, Huệ mà nghe các em dục “khẩn trương lên anh” thì chán chết. Tạm thông cảm, nhưng còn những cái quá sai, quá ngược đời, lộn lèo mà cũng nhắm mắt làm theo là sao?
Nghe VC than “thiếu đói” là hải ngoại ào ào quyên góp dollars để cứu tụi “thiếu đói” ư?. Chả hiểu tiếng Việt gì cả! Báo chí trong nước loan tin nhiều xe hơi đụng nhau “liên hoàn” trên xa lộ, nghe hoàn-hoàn là các bác cứ “hoàn” theo! Sai hoàn toàn, khi nào xe trước vòng quay đầu lại húc vào đít xe sau thì mới gọi là liên hoàn. Tại sao không dùng chữ “liên tiếp”? Cầu thủ Backham “vào bóng bẳng gầm giầy” là cái quái gì vậy? Gầm là gầm giường còn giầy thì là “đế”. Có thế thôi mà cũng bày đặt sáng tạo đỉnh cao trí tuệ!
Khổ quá đi thôi, chuyện của “người ta” thì kệ chúng, không nên xen vào nội bộ của họ, còn chúng ta, những quân nhân VNCH thì hãy tránh xa chữ nghĩa XHCN đi. Nói hoài nói mãi thì các anh lại bảo tôi nói nhiều, đàn ông mà sao lắm mồm lắm miệng thế! Nhưng không nói, không nhắc nhở nhau để giữ gìn tiếng Việt cho trong sáng thì thật buồn. Mất nước là mất tất cả, danh ngôn của TT Thiệu, đã mang kiếp lưu vong tỵ nạn CS, chỉ còn một chút tiếng Việt để nhớ để thương mà cứ tự nguyện cho chữ nghĩa VC xâm lăng vào nữa thì thật lãng nhách.
Tôi xin trích một vài đoạn văn “tiệc-tác” trong các tác phẩm mà tác giả là gốc lính với cấp bậc cao cao để mời huynh đệ thưởng thức:
1. Ta phải dùng hỏa lực từ xa bằng súng SKZ57 và 2 cây đại liên 30 bắn khống chế đám VC đang có mặt từ trên cao để tiếp tục tiến vào. ….Tôi đề nghị ĐĐ vẫn tiếp tục khống chế hỏa lực từ trên cao của địch bằng 2 cây SKZ 57 …(trích nguyên văn trong bài Nghiệp Lính)
“Khống chế” có hay không có trong tự điển tiếng Việt tôi không cần biết mà chỉ biết nó xuất hiện ở trong nước sau 30/4/75 mà thôi, vậy mà đại bàn(g) đang là tỵ nạn CS ở hải ngoại lại vồ lấy mà dùng thì cam đảm thật! Tiếng Việt Nam Cộng Hòa thiếu gì chữ hay ho thay cho chữ “khống chế” chết tiệt này.
2. Đã mấy tiếng đồng hồ rồi mà chưa có trực thăng đế tải thương, nhìn những anh em bị thương đang rên la cùng những poncho bọc thây đang căng dần lên vì sức nóng mà tôi bức xúc. (trích Hạ Lào).
Đoạn văn thật đúng và hay để diễn tả một tình trạng đau lòng, bi thảm của lính trận trong cuộc chiến, vậy mà tác giả nỡ đem 2 chữ VC vào làm đau lòng lính VNCH! Có biết bao nhiêu ngôn ngữ hay để tác giả biểu lộ cảm xúc, thí dụ như: bực mình, khó chịu, phiền hà, lấn cấn, áy náy, giận dữ, lo âu, đau đớn, muốn văng tục, muốn chửi thề, muốn nổi điên và tục-tục một chút là là là chửi thề đ..m.. Có biết bao nhiêu chữ để dùng, vậy mà bạn viết trong tác phẩm của bạn 2 chữ “bức xúc” khiến tôi cũng muốn “bực và xục” theo. Xin lỗi các đại “bàn” nha.
Captovan.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
(Xin phép Tác Giả được post câu chuyện thật cảm động)
Đang tản bộ trong một công viên ở London với mấy đứa cháu ngoại, tôi bất ngờ nhận được tin nhắn từ Việt Nam qua Viber. Khi ấy ở Việt Nam đúng 11 giờ trưa ngày 28.7.2019:
-Cháu đã nhìn thấy ngọn núi Tiền Đồn 5 ngay trước mặt và đang chuẩn bị vượt con suối để đến đó, chỉ còn cách chừng hơn một cây số.
Gần một giờ sau, tôi nhận mấy tấm ảnh và vài cảnh phim được quay bằng điện thoại trên đỉnh Tiền Đồn 5. Bây giờ chỉ là một khung cảnh hoang tàn, đầy lau sậy, vương vãi một số mảnh bao cát, mấy đoạn kẽm gai concertina, đế của một chiếc giày trận và một vài chiếc vỏ đạn rỉ sét. Tôi cảm động hơn khi hình ảnh người con trai tật nguyền, chỉ còn một cánh tay trái, đang quì lạy tứ phương với một bó nhang nghi ngút khói hương. Và đó cũng chính là người vừa nhắn tin và gởi những hình ảnh cho tôi. Cháu Nguyễn Thế Vinh đang đứng trên vị trí mà cha cháu đã hy sinh và nằm lại đây đúng 45 năm, bây giờ đứa con trai mới biết được nơi này.
Khi các chiến thắng liên tục của những người lính Việt Nam Cộng Hòa vào mùa Hè 1972, không những đã giữ vững được thành phố Kontum mà còn gây thiệt hại rất nặng nề cho các đại đơn vị thuộc Mặt Trận B-3 của Cộng Sản, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn F 10, Sư Đoàn 2 và sau này có thêm Sư Đoàn tân lập 968. Tất cả buộc phải rút về vùng biên giới Tây Nguyên và Lào để tái lập, bổ sung, thì bất ngờ Hiệp Định mạo danh Hòa Bình được Hoa Kỳ và Bắc Việt thỏa thuận ký kết tại Paris vào ngày 27/1/1973, sau khi chính phủ Nixon đã đi đêm, mặc cả với Trung Cộng, bất chấp sự phản đối của chính quyền Nam Việt Nam. Hiệp định này chẳng khác nào một huyệt mộ được đào lên nhằm chôn sống VNCH.
Các vùng địch xâm chiếm bỗng dưng trở thành an toàn khu của chúng. Nhiều sư đoàn cùng với chiến xa vũ khí hạng nặng, nhiên liệu, đạn dược từ miền Bắc ồ ạt xâm nhập công khai vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, cùng lúc Quốc Hội Mỹ cắt hết mọi viện trợ quân sự cho VNCH.
Đầu năm 1974, lợi dụng tình thế bất lợi này của VNCH, Bắc Việt đã tung đại quân tràn ngập, ngang nhiên lấn chiếm một số căn cứ, đơn vị của ta. Đặc biệt tại các vùng mà lực lượng của chúng được phép nằm lại theo hiệp định Paris quái đản, trong khi Hoa Kỳ và tất cả các nước cùng ký tên trong bản hiệp định đều im tiếng, không một lời phản đối.
Đặc biệt, mặc dù Dak Tô, Tân Cảnh đã bị Cộng quân lấn chiếm từ cuối tháng 4/ 72, nhưng Căn cứ Biên phòng Dak Pek và Chi khu Dak Pek vẫn đứng vững nhờ hệ thống công sự liên hoàn kiên cố và tinh thần chiến đấu vô cùng dũng mãnh của các chiến sĩ Biệt Động Quân. Qua rất nhiều lần tấn công, địch quân đều thảm bại. Căn cứ Dak Pek nằm ngay giữa ngã ba biên giới Miên-Lào-Việt, án ngữ con đường huyết mạch của Cộng quân, cách thị xã Kontum 98 cây số về hướng Tây Bắc, được phòng thủ bởi Tiểu Đoàn 88 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Võ Ngọc Di, bên cạnh là Chi Khu Dak Pek được bảo vệ chỉ một đại đội ĐPQ và khoảng 8 trung đội Nghĩa Quân. Cuối tháng 4/72, sau khi Cộng quân chiếm Dak Tô, Tân Cảnh, Dak Pek trở thành một tiền đồn cô lập, nằm giữa lòng địch, việc tiếp tế chỉ giới hạn bằng phi cơ.
Ngày 15.5.1974, Cộng quân tập trung một lực lượng hùng hậu cấp sư đoàn, do tướng CS Vương Phú, Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3 tổng chỉ huy, gồm Trung Đoàn 3 (ĐoànThuận Hóa) thuộc Sư Đoàn 324 được điều động từ A- Lưới, Trị Thiên vào Tây Nguyên, phối họp cùng Trung Đoàn 66 (Đoàn Pleime) của Sư Đoàn 10, Trung Đoàn 40 Pháo hạng nặng, Trung Đoàn 37 Phòng Không, được tăng cường một tiểu đoàn đặc công, và đại đội chiến xa T 54, tràn qua sông Pô-Kô đánh chiếm Căn cứ Dak Pek và Chi Khu Dak Pek. Căn cứ thất thủ chiều ngày 16.5. 74, sau gần hai ngày chống trả một lực lượng địch gấp 20 lần. Sau đó, để tránh đụng độ với các đơn vị chủ lực của ta, gồm Sư Đoàn 23 BB và các Liên Đoàn BĐQ hoạt động ở phía Bắc và Tây Bắc Kontum, chúng kéo xuống phía Đông Nam bao vây Măng Buk, đồng thời tăng cường lực lượng địa phương, tiếp tục tấn công về hướng thị xã Kontum, cô lập Chương Nghĩa (Platoni), Măng Đen nằm về hướng Ba Tơ, Quảng Ngãi. Khu vực này hoàn toàn do lực lượng ĐPQ của Tiểu Khu Kontum đảm trách.
Tiền Đồn 5 trở thành phòng tuyến đầu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Đây là một trong dãy tiền đồn của Tiểu Khu Kontum, nằm phía Đông Bắc, cách thị xã Kontum khoảng 15 cây số đường chim bay, trên một ngọn đồi có cao độ đúng 1200 mét (so với mực nước biển trung bình), và cách con đường tỉnh lộ nối liền Kontum – Quảng Ngãi (khi ấy đang bỏ hoang) khoảng bốn cây số, được phòng thủ bởi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Kontum.
Đầu tháng 6/1974, Cộng quân mở nhiều đợt pháo kích, bao vây Tiền Đồn 5 nhằm tiêu diệt lực lượng trú phòng và phục kích các đơn vị tiếp viện của Tiểu Khu. Lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, bên ta bị thiệt hại nặng. Nhờ Không yểm, tiểu đoàn trú đóng mở đường máu di tản, nhưng hơn một nửa quân số bị tổn thất, hai đại đội đóng quân bên ngoài phải phân tán, thất lạc. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chỉ định Sư Đoàn 23 Bộ Binh mở các cuộc hành quân khẩn cấp giải tỏa áp lực địch và sau đó đưa một tiểu đoàn đến trú đóng tại Tiền Đồn 5, thay thế cho đơn vị ĐPQ đã phải triệt thoái, nhằm ngăn chặn đường tiến quân của địch. Tiểu Đoàn 1/44 nhận lãnh trách nhiệm gay go này ngay sau khi có một vị chỉ huy mới, Đại úy Dương Đình Chính (Khóa 20 Võ Bị) vừa thay thế Thiếu Tá Phan Văn Khánh (Khóa 12 Võ Bị) đi nhận nhiệm vụ mới.
Ngày 12.7.1974, Tiểu Đoàn 1/44 được trực thăng vận xuống Tiền Đồn 5, vừa củng cố lại công sự phòng thủ đã bị phá hủy bởi các cuộc pháo kích và tấn công của địch, vừa hành quân tảo thanh chung quanh căn cứ để hổ trợ Tiểu Đoàn ĐPQ tìm gom những binh sĩ còn đang thất lạc. Do vị tiểu đoàn trưởng ĐPQ mang cấp bậc thiếu tá, nên khó khăn trong việc chỉ huy, phối hợp, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chỉ thị Trung Đoàn 44 BB phải thành lập ngay một Bộ Chỉ Huy Nhẹ đến Tiền Đồn 5 để chỉ huy tổng quát. Ngày 14/7/1974, BCH Nhẹ gồm Thiếu Tá Lê Thái Như, Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn Trưởng cùng một toán tháp tùng được thả xuống Tiền Đồn 5, trong số này có Đại úy Nguyễn Đức Vinh, là sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233 PB. Thiếu Tá Lê Thái Như nguyên là Quận Trưởng Quận Phụng Hiệp (Phong Dinh) vừa mới thuyên chuyển đến Trung Đoàn 44 BB, chưa có chức vụ chính thức, tạm thời làm sĩ quan phụ tá hành quân cho Đại Tá Phùng Văn Quang và sau đó là Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ, Trung Đoàn Trưởng.
Lúc này trên Tiền Đồn 5, ngoài BCH Nhẹ Trung Đoàn 44, BCH Tiểu Đoàn 1/44 và Đại Đội Chỉ Huy Yểm Trợ, được bảo vệ bởi Đại Đội 2/1 của Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Quyền Đại Đội trưởng. Các đại đội còn lại hoạt động ở các cao điểm và hành quân lưu động chung quanh, cách Tiền Đồn 5 từ 2 đến 5 cây số.
Hai ngày sau, các công sự phòng thủ chưa được sửa chữa xong, vào sáng sớm ngày 16.7.1974, khi sương mù còn đang phủ kín cả một vùng núi non và thung lũng, Cộng quân pháo kích dồn dập vào Tiền Đồn 5 từ nhiều hướng khác nhau trong suốt một tiếng đồng hồ bằng đủ các loại pháo 120 ly, 122ly và 155ly bắn thẳng. Lúc này, Pháo Binh của ta đã bị hạn chế tác xạ vì không còn đủ đạn dược và Không Quân cũng không thể yểm trợ được bởi thời tiết quá xấu. Ngay những loạt đạn pháo đầu tiên, hầm chỉ huy bị sập, hệ thống truyền tin bị phá hủy và một số đông quân trú phòng đã bị tử trận, trong số đó có Đại úy Dương Đình Chính, Tiểu Đoàn Trưởng, Đại úy PB Nguyễn Đức Vinh và Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang, Q.Đại Đội Trưởng ĐĐ 2/1. Riêng Thiếu Tá Lê Thái Như bị thương nhẹ, chạy thoát ra ngoài, nhưng bị bắt làm tù binh sau đó.
( Năm 1976, khi bị chuyển tù ra miền Bắc, người viết bất ngờ gặp lại Thiếu Tá Lê Thái Như ở Trại 6 Nghĩa Lộ. Chính Thiếu Tá Như đã kể lại chi tiết trận đánh này).
Cộng quân tràn ngập. Tiền Đồn 5 trở thành một địa điểm “oanh kích tự do” sau đó. Tất cả tử sĩ đều phải đành vùi thây nơi chiến địa. Gia đình họ nhận “Tờ Trình Ủy Khúc” (một hình thức báo tử) để chỉ biết người thân của mình đã hy sinh tại một địa danh xa lạ nào đó, với tọa độ AR 863-994 mà chỉ có những nhà quân sự mới có thể biết được.
Bà quả phụ Nguyễn Xuân Quang cũng nhận được “Tờ Trình Ủy Khúc” như thế, nhưng bà không tin là chồng đã chết. Vì trước đây, vào giữa năm 1973, bà cũng nhận được giấy báo tử tương tự, nhưng sau đó mấy tháng thì bất ngờ nhận được tin chồng còn sống và đang được điều trị tại quân y viện Quảng Ngãi. Lần đó, Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận Ngô Trang, phía Bắc Kontum, nhưng vì anh bị thương khá nặng, nên địch quân bỏ anh lại trên đường áp giải tù binh ra Quảng Bình, họ nghĩ là anh sẽ chết, nhưng anh đã may mắn được trực thăng bên ta phát hiện cứu sống. Sau khi được điều trị lành vết thương, anh xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út chưa tròn một tuổi.
Cuối tháng 3/75 gần cả miền Trung lọt vào tay Cộng sản sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7B đã trở thành một nỗi kinh hoàng. Cuối cùng đến ngày 30/4/75 cả miền Nam cũng hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Kể từ đó, những mồ mả của tử sĩ miền Nam được chôn cất tại các nghĩa trang trong thành phố còn bị CS đập phá, san bằng, thì chuyện đi tìm những người thân hy sinh trên các vùng núi non vô danh xa lạ, như Tiền Đồn 5 đã trở thành câu chuyện hoang đường. Hơn nữa ở thời điểm ấy, người sống chưa giữ được mạng mình thì làm sao còn có thể lo cho người đã chết.
Bà Nguyễn Xuân Quang không còn cách nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu trại gia binh Sông Mao, dắt bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan Thiết. Khổ nỗi, bà còn có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp (Khóa 16) Trường Võ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên cha mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang cả cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi còn thơ dại. Ông bà, con cháu cùng dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới dưới dòng sông. Vậy mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những hành xử và lời nói khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đã làm cho bà Quang không còn con đường sống. Bà đã uống mấy chai thuốc rầy để chết đau đớn trước mặt cha mẹ mình và bốn đứa con thơ. Bà xin lỗi vì đã để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và xin lỗi các con đã phải đành lòng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các con phải chết theo mình. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đã uống thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nhì, Nguyễn Thế Vinh, năm 1975 mới lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho ông ngoại trong cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay, “họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con bò của Hợp tác xã, lấy mấy ký lúa phụ ông ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên lưng bò. Cánh tay phải bị gãy. Do không có thuốc thang và băng bó không đúng cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ đến gần bả vai.
Ông bà ngọai lần lượt qua đời, mấy chị em Vinh lại được bà dì Út không lấy chồng, ở vậy cưu mang. Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng Vinh không chịu bỏ học hành. Bị tật nguyền, nhưng cậu bé lên mười vẫn thừa hưởng ý chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua tất cả khó khăn, làm đủ thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù với cái lý lịch rất “đen”, Vinh không chút hy vọng gì mình có thể được ngoi lên trong một xã hội đang còn đầy dẫy những đố kỵ, hận thù. Đỗ Đại học Kinh tế ưu hạng, nhưng không kiếm được việc làm. Ngày tốt nghiệp có hai ba nơi gởi thư chọn Vinh khi thấy số điểm tối ưu của Vinh, nhưng không bao giờ gọi Vinh đi nhận việc. Vinh đi dạy kèm, mở các lớp luyện thi, và đặc biệt hơn, Vinh đã thành công bằng nghề tay trái – với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Đánh đàn – tất nhiên chỉ bằng tay trái.
Những năm còn nhỏ, đặc biệt khi cậu hai Minh vừa trong tù cải tạo trở về, như để giải sầu trước một tương lai mịt mờ đen tối, ông thường ngồi đàn trong đêm vắng, lúc chỉ còn có hai cậu cháu. Vinh đã say mê, vì dường như chỉ có tiếng đàn mới làm tan biến những đau buồn, trắc ẩn trong lòng, làm cho Vinh tạm quên đi bao nỗi bất hạnh khi tuổi đời mới lớn, mà chung quanh tưởng chừng chỉ còn là bóng tối luôn bao trùm chụp phủ lấy Vinh. Chuyện đàn guitar bằng một tay mà lại là tay trái là một điều không tưởng, nhưng rồi với đam mê và ý chí, Vinh đã thành công. Tài năng và nổ lực phi thường của cậu bé chưa thành niên đã được Nhạc sĩ Nguyễn Ánh Chín biết tới, nâng đỡ, chỉ dạy thêm, và cuối cùng chính ông đã giới thiệu Vinh đến đàn cho Phòng Trà ATB của nữ ca sĩ Ánh Tuyết. Sau đó Vinh được một số đài truyền hình mời biểu diễn. Người nhạc sĩ một tay, đàn guitar bằng tay trái và thổi harmonica, đặc biệt những bản tình ca của Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng đã làm rung động lòng người, được cả nước tán dương. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là điều mà mọi người biết đến để ngưỡng mộ Nguyễn Thế Vinh như sau này.
Từ lúc bỏ Sài gòn lên Bến Cát, Bình Dương mở các lớp dạy kèm và luyện thi đại học, Vinh có dịp được gặp nhiều học sinh nghèo, mồ côi, tật nguyền nhưng hiếu học. Suy nghĩ từ thân phận của chính mình, Vinh đã vận động bạn bè, đi khắp nơi kêu gọi những nhà hảo tâm, đứng ra mở Trung Tâm Hướng Dương, bảo bọc, nuôi dạy trên một trăm các em học trò nghèo, mồ côi và khuyết tật. Bây giờ thầy giáo Vinh trở thành chủ gia đình Hướng Dương, là cha, là anh cả của đám học trò mà chính Vinh đã đi khắp nơi, những vùng xa xôi, nghèo khổ để gom góp dắt díu về đây nuôi dạy. Đến hôm nay, trong số những học trò ấy, đã có nhiều em tốt nghiệp đại học, trên ba mươi em du học tại Nhật Bản, một em du học tại Úc Châu và một em đang du học tại Hoa Kỳ. Cậu bé, có cha là lính VNCH tử trận khi chưa tròn bốn tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm lên bảy, mất cánh tay phải từ năm lên chín, giờ trở thành người nổi tiếng được bao nhiêu người trong và ngoài nước yêu thương cảm phục. Nhưng Vinh vẫn vậy, hiền lành, nhân hậu, chân chất, không ai tìm thấy trong nụ cười đôn hậu của Vinh một nét kiêu hãnh hay mối hận đời nào. Điều đáng phục hơn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả khi được các đài truyền hình và báo chí trong nước phỏng vấn, lúc nào Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha quá cố, một sĩ quan QLVNCH đã hết lòng chiến đấu và hy sinh cho lý tưởng của mình.
Để có đủ tiền trang trải việc điều hành và nuôi dạy các em tại Trung Tâm Hướng Dương, hằng năm Vinh đều phải đi vận động, trình diễn khắp nơi ở hải ngoại, qua chương trình “Góp Lá Mùa Xuân” từ Úc, Âu, Á đến Mỹ Châu, phối họp với các cơ quan từ thiện khác, đặc biệt cùng tham gia tổ chức “Ngọc Trong Tim”, Vinh được mọi nơi hưởng ứng và hỗ trợ hết lòng. Đến đâu Vinh cũng hãnh diện để nói về người cha của mình, một sĩ quan VNCH đã anh dũng hy sinh. Hình ảnh người cha khá mơ hồ trong ký ức nhưng lại là một động lực để Vinh đứng lên từ nỗi bất hạnh tột cùng, và giúp tha nhân bằng tất cả trái tim mình. Tâm sự với bạn bè, Vinh bảo, điều hạnh phúc nhất của Vinh là nghĩ cha mẹ đang dõi bước chân mình và mỉm cười nơi chín suối.
Tháng 7/ 2019 trong dịp đến Úc Châu, Vinh cũng trình bày về cái chết của cha và ước mong được liên lạc với những người đồng đội cũ cùng đơn vị của ông ngày trước để được biết tường tận hơn về cái chết và địa điểm nằm xuống của cha mình. “Tờ trình ủy khúc” cũng đã thất lạc sau ngày mẹ Vinh qua đời.
Vinh được Luật sư Nguyễn Văn Thuần giới thiệu đến tôi, vì Thuần là người bạn đồng hương khá thân, biết tôi từng phục vụ gần mười năm ở Trung Đoàn 44 BB, đơn vị cuối cùng mà cha của Vinh, Thiếu úy Nguyễn Xuân Quang đã hy sinh. Vợ chồng LS Nguyễn Văn Thuần cũng là những người có nặng tấm lòng, tích cực hỗ trợ tổ chức “Ngọc Trong Tim”, gom góp yêu thương mang đến cho những người khuyết tật cùng các anh Thương Binh VNCH còn đang sống khốn khổ ở quê nhà.
Tôi liên lạc với Vinh qua điện thư, rồi qua điện thoại. Ngay sau khi biết rõ cấp bậc, tên họ và đơn vị cuối cùng của người đồng đội Nguyễn Xuân Quang, tôi liên lạc hỏi thăm một số bạn bè cùng Tiểu Đoàn 1/44 với anh Quang lúc xưa, được biết chắc chắn là anh Quang đã hy sinh tại Tiền Đồn 5 ở Kontum. Tôi nhớ ngay đến trận đánh tại địa danh này qua lời kể của Thiếu Tá Lê Thái Như, lúc chúng tôi bất ngờ gặp nhau tại trại tù số 6 ở Nghĩa Lộ. Thiếu tá Như là người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh trong trận này.
Tôi còn nhớ mang máng Tiền Đồn 5 nằm không xa, nhìn xuống con đường đất nối liền Kontum – Quảng Ngãi, lúc ấy bỏ hoang vì chiến tranh, nhưng không biết ở quãng nào, thuộc địa danh nào, hơn nữa thời gian đã quá lâu, hơn 45 năm rồi, có biết bao biến đổi. Tôi tìm cách liên lạc với một số sĩ quan thâm niên ở Tiểu Khu Kontum, may mắn gặp một anh đồng hương với vợ tôi, trước kia anh là Đại úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa M-48, vì phản đối một khẩu lệnh hành quân của cấp chỉ huy mà anh cho là vô lý, chắc chắn sẽ đưa Chi đoàn của mình vào sa lầy, thảm bại, như trường hợp một chi đoàn bạn, anh bị kỷ luật, cho ra khỏi binh chủng, chuyển về Tiểu Khu Kontum giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn ĐPQ. Anh đã từng đóng quân tại Tiền Đồn 4, Tiền Đồn 5, và giữa tháng 10/1974, đơn vị anh bị địch quân tràn ngập ở Chương Nghĩa, anh bị bắt làm tù binh, khi ấy anh vừa được thăng cấp Thiếu Tá hơn một tháng. Anh ngồi vẽ lại vị trí Tiền Đồn 5 cho tôi, và để bảo đảm chính xác hơn, anh gọi cho một anh trung úy, đại đội trưởng dưới quyền của anh lúc xưa, là người Kontum và cũng đã từng đóng quân một thời gian dài tại Tiền Đồn 5. Trí nhớ anh bạn này rất chính xác.
Tôi liền viết một điện thư khá dài cho Vinh :
“Hai hôm nay, chú đã liên lạc với chú Sơn, chú Khanh (ở cùng Tiểu Đoàn 1/44 với ba cháu) và vài người khác, đã tham dự các trận chiến trong cùng thời gian, cùng và chung quanh địa điểm mà ba cháu đã hy sinh, đặc biệt trong số này có người từng sinh ra, lớn lên và đi lính tại Tiểu Khu Kontum.
Đến hôm nay chú và chú Sơn, chú Khanh đã có được một số chi tiết tương đối chính xác về trường hợp hy sinh của ba cháu.
Ba cháu hy sinh tại Tiền Đồn 5 (khác với Căn Cứ 5 ở Tân Cảnh). Tiền đồn này nằm bên con đường từ Kontum đi Quảng Ngãi (lúc ấy bỏ hoang, không sử dụng từ lâu vì chiến tranh), bây giờ là Quốc Lộ 24.
Tiền Đồn 5 này nằm cách Thị Xã Kontum khoảng 15 km, gần khu vực Kon Xom Luh, giữa 2 địa danh có tên Kon Cha Re và Kon Se Tieu (không tìm thấy tên trên Google Map, có lẽ vì hai địa danh quá nhỏ).
Đặc biệt, tại Kon Xom Luh hiện có nhà thờ Kon Xom Luh.Nếu có dịp đến Kontum, cháu tìm đến nhà thờ này hỏi thăm các vị linh mục, nhờ quí ngài chỉ giúp, hay hỏi thăm người dân địa phương (lớn tuổi) Kon Cha Re và Kon Se Tieu nằm ở đâu.
Riêng ngày mất của ba cháu, chú nghĩ trong khoảng 15 đến 30 Tháng Sáu, 1974, nhưng chú Sơn và chú Khanh đang tìm hiểu từ những bạn bè có tham dự trận đánh ấy, để cho cháu một ngày chính xác hơn.
Tiếc quá, nếu cháu còn giữ ‘giấy báo tử’,lúc ấy được gọi là “Tờ Trình Ủy Khúc”, dành cho người mất tích (Lính hy sinh nhưng không tìm thấy xác đều gọi là mất tích), trong đó có ghi rõ ngày giờ và đặc biệt là tọa độ (địa điểm chính xác nhất) nơi ba cháu hy sinh.
Thời gian đã quá lâu, mọi sự đã thay đổi, các dấu tích chiến tranh và cả xương thịt những người lính hy sinh, chắc cũng không còn. Tuy nhiên tất cả đều để lại trong lòng những người còn sống như các chú và nhất là cháu, những vết thương khó lành cùng với một nỗi hoài niệm khó nguôi.
Các chú xin được thành tâm chia sẻ về sự mất mát và nỗi buồn lớn lao này của cháu và cầu nguyện ơn Trên che chở và giúp cháu tìm lại được những điều mà cháu từng mong ước…”
Vinh nhận được email này của tôi lúc đang trên đường ra phi trường Sydney để rời Úc trở về lại Việt nam. Vinh chỉ kịp gởi cho tôi vài hàng tin nhắn qua Viber:
-Cháu sẽ lên Kontum ngay sau khi về lại Việt nam, cháu sẽ làm theo lời hướng dẫn của chú. Có gì cháu sẽ gọi chú qua Viber.
Trời đã không phụ lòng những con người hiếu thảo, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn giữ được trái tim, đặc biệt đối với một tâm hồn không hề vướng chút bụi bẩn của một xã hội kim tiền, vô cảm, Vinh đã được tất cả mọi người giúp đỡ tận tình, từ các vị nữ tu, đến người lính Thượng miền Nam thuở trước và cả những người lái xe ôm nghèo khổ, tận tình hướng dẫn và giúp Vinh đến Tiền Đồn 5.
Vinh kể:
“Cháu đến chân núi của Tiền Đồn 5 là 11 giờ trưa ngày 28 Tháng Bảy, 2019. Lúc đó trời muốn mưa và mây phủ kín hết ngọn đồi của Tiền Đồn 5. Những ngọn đồi thấp hơn nằm chung quanh thì còn thấy thấp thoáng. Nhiều người dân nơi đó lo lắng cho cháu, khuyên không nên lên vì đường khó đi, nhưng lòng cháu lại cảm thấy rất nôn nóng, muốn đi liền ngay tức khắc.
Với sự giúp đỡ của người dân, hai thanh niên địa phương dùng hai chiếc xe gắn máy mà bánh xe phải ràng dây xích, một chiếc chở cháu, một chiếc chở đồ ăn, thức uống, hoa quả, bắt đầu leo núi.
Sau một tiếng leo núi bằng xe Honda qua nhiều đồi khác nhau, khi đến chân đồi của Tiền Đồn 5 thì không còn đường để xe gắn máy chạy nữa, nên cháu bắt đầu đi bộ, vừa đi vừa phải dùng rựa chặt cây mở đường. Sau 30 phút, cháu đến được đỉnh đồi của Tiền Đồn 5.
Những bao cát dùng làm chiến hào bị rách nát, vài đế giày bốt-đờ-sô vương vãi, những cục pin dẹp nằm chỏng chơ, những cọng kẽm gai phần chôn dưới đất, phần ló lên trên… là những gì cháu nhìn thấy trên khoảng đồi trống của Tiền Đồn 5. Cháu có cảm giác dấu tích trận đánh và âm thanh súng đạn năm nào vẫn còn hiển hiện, phảng phất nơi đây.
Nhìn những gì còn sót lại đó, cháu cảm thấy rất xúc động. Và thật lạ, là từ lúc lên đây sương mù đã phủ kín hết bầu trời, nhưng khi cháu lấy hoa quả bày ra và thắp bó nhang cho ba cùng các chú, các bác đã nằm lại nơi này, thì trời lại bỗng dưng ló nắng”.
Cuối cùng thì Vinh cũng đã đến được đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đã tan cùng tro bụi.
Quỳ giữa đỉnh đồi vắng lặng, bàn tay trái duy nhất cầm chặt bó nhang, Vinh cúi đầu khấn vái hồn thiêng của cha và những người lính miền Nam đã chết cho quê hương và lý tưởng cao đẹp của mình. Bốn mươi lăm năm, đã trải qua biết bao chia lìa, khốn cùng, bi thảm, nhưng Vinh đã vươn lên, vượt qua những thử thách cay nghiệt nhất, để ngẩng cao đầu trong một xã hội mà cả gia đình mình từng là nạn nhân, luôn bị bên thắng cuộc cố tình xô đẩy ra bên lề xã hội, đến bước đường cùng, bởi một thứ hận thù không còn nhân tính. Nhưng cuối cùng, nhờ dòng máu của người cha còn luân lưu trong huyết quản, Vinh đã chiến thắng. Không chỉ thắng được số phận của chính mình, mà cao cả hơn, cũng giống như cha mình và những đồng đội của ông, Vinh đã thắng được lòng người. Cái thắng xem chừng vinh quang và bất diệt nhất.
Vinh đã được mời lên nói chuyện ở các đài truyền hình, tọa đàm trong các buổi tu học tại các cơ sở Phật giáo trước hàng vài ngàn Phật tử, được ví như “Cây Xương Rồng Trên Cát”, nói chuyện trong các hội văn nghệ, văn học. Cuốn tự truyện “Ông Giáo Làng Trên Tầng Gác Mái” của Vinh được độc giả cả nước bình chọn là “Tác phẩm Xuất Sắc Nhất của năm 2018, với nội dung truyền cảm hứng và động lực nhất để sống và để cống hiến”. Vinh nhận được giải thưởng lớn,100 triệu đồng, và đã góp hết vào ngân quỹ của gia đình Hướng Dương.
Trong cuốn tự truyện của mình, Nguyễn Thế Vinh cho biết: “Chính những ngày tháng dạy học cho các trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật… đã làm nảy nở trong tôi ước mơ về một ngôi trường, cũng là mái nhà cho mấy đứa trẻ thiệt thòi ấy chui ra chui vào, vừa học chữ, vừa học làm người. Lũ trẻ và tôi sẽ dũng cảm bước đi trên con đường hướng tới tương lai bằng tinh thần tích cực và độc lập nhất”.
Một nhà phê bình đã viết về cuốn tự truyện của Vinh:
“Cuốn sách này kể cho bạn nghe chuyện đời của một “hạt bụi” ngát hương, hết sức hồn nhiên trong cõi trăm năm đi về. Sức sống của “hạt bụi” ấy có thể khiến những ai đang bị cuộc đời dồn ép hoặc thấy mình sắp bị đời xô ngã sẽ kiên cường đứng vững và chân thật mến yêu cuộc đời”
Một nhạc sĩ tên tuổi đã từng thổ lộ: “Một lời tử tế chưa đủ để nói về Vinh”.
Hầu hết học trò của Vinh đều bảo “Thầy Vinh là cha, là bạn và cũng là vĩ nhân”
Vinh dự trù sẽ tổ chức một buổi tưởng niệm và cầu siêu cho cha và những đồng đội của ông đã hy sinh trên ngọn đồi Tiền Đồn 5, vào dịp cuối năm hay Tết Nguyên Đán với sự đồng tế của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. Tất cả sẽ cùng thắp sáng lại trong tâm hồn một mùa Xuân, mùa của lòng biết ơn và hy vọng.
Vinh cũng nhờ các cơ quan truyền thông, báo chí và đồng đội của cha, giúp tìm cách thông báo đến thân nhân của những chú, bác đã cùng hy sinh với cha Vinh. Xin hãy liên lạc với Vinh để cùng tham dự buổi lễ tưởng niệm đặc biệt này. Người đầu tiên đã nghe được tiếng gọi của Vinh, một thanh niên hiện định cư ở bên Úc , chính là trưởng nam của cố Thiếu Tá Nguyễn Đức Vinh, sĩ quan liên lạc Pháo Binh của Tiểu Đoàn 233/PB cũng đã nằm lại trên Tiền Đồn 5 ngày ấy. Điều may mắn là cậu ta còn giữ được “Tờ Trình Ủy Khúc” trong đó có ghi rõ ngày giờ và địa điểm chính xác nơi cha anh đã hy sinh: ngày 16 tháng 7 năm 1974, tại Tiền Đồn 5, Tọa độ AR 863-994. Những chi tiết mà cháu Nguyễn Thế Vinh cũng đang cần muốn biết. Sau đó Vinh cũng đã liên lạc được với con của Cố Thiếu Tá Dương Đình Chính ở Sài Gòn, và sẽ gặp một thuôc cấp cũ của ba Vinh ở Sông Mao, để có thể liên lạc với gia đình những tử sĩ khác.
Cuộc chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức tưởi – nhưng mãi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người con mới tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở đó. Nhìn hình ảnh người con trai chỉ còn một cánh tay với những nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng tôi lắng xuống. Hồi tưởng lại thời gian cuối cùng của cuộc chiến, tôi bỗng thấy đồng cảm, thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh” (All Quiet On The Western Front), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque, mặc dù câu chuyện đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
Chỉ có một điều khác biệt. Anh Paul Bäumer may mắn hơn chúng tôi, đối phương của anh dù là người không cùng một nước, nhưng chắc chắn không tàn ác và man rợ như kẻ thù đã chiến thắng chúng tôi, những người có cùng dòng giống nhưng không hề có trái tim người.
Phạm Tín An Ninh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác tìm người thân của mình, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ. Dean D thấy khoái chí nhưng giả vờ làm lơ, ra vẻ ngóng tìm người nhà nhưng thực ra đang cố khoe mẽ với đám đông đang bị mê hoặc bởi cái gió hải ngoại. Dean D tận hưởng cái sự xênh xang áo gấm về làng, cái giây phút thấy mình trở nên có giá cao hơn hẳn đồng loại của mình một bậc, phút giây hãnh diện này đánh đổi bằng cả một thời gian dài đằng đẵng cày như trâu ở xứ người. Y còn đang dương dương tự đắc thì người nhà trông thấy kêu gọi ầm ĩ, chưa kịp tay bắt mặt mừng thì y đã kêu toáng lên:
- Nóng quá, ồn quá sao chịu nổi?
Những người xung quanh cũng chẳng ai quan tâm y nói gì, vả laị ai cũng chăm nhìn ở cữa ra xem người nhà mình xuất hiện chưa, ấy thế mà sau lưng y laị có một khứa nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn. Dean D laị kêu lên:
- Trời đất, sao mà mất vệ sinh thế!
Người nhà bèn keó y đi thẳng ra xe, sau khi chạy khoảng bốn tiếng thì tấp vào một quán nước ven đường để nghỉ ngơi và đi vệ sinh. Mọi người kêu bia ra uống, Dean D tợp một ngụm rồi nhận xét:
- Bia ở đây lạt quá, không biết đá lạnh có hợp vệ sinh không nữa?
Mấy người anh em của y thoáng nhíu trán nhưng nhanh chóng lấy laị vẻ bình thản và bâng quơ đùa:
- Anh Dean về đây chơi nhớ cẩn thận, nếu không mấy em chân dài sẽ móc sạch bóp.
- Dễ gì, anh đây đâu phải tay mơ, Dean trả lời
Mà quả thật vậy, ăn được tiền của y quả là không dễ đâu! Dean đi chợ cò kè so giá từng xu, chín đồng rưỡi ráng góp thành mười, làm gì có chuyện cho ai khơi khơi bao giờ!
Về đến nhà, Dean cho thằng cháu đi mua chục két bia về ăn nhậu tưng bừng, tiếng khui bia lốp bóp, tiếng cụng ly leng keng, tiếng cười hô hố, tiếng tranh nhau nói…ầm ĩ cả xóm. Dàn karaoke được mở hết cỡ, những giọng ca giật giải miệt vườn thi nhau tra tấn lỗ nhĩ bà con lối xóm. Men vào thì lời ra, ai ai cũng tranh nhau hát, tranh nhau nói… nhưng hễ Dean tỏ ý muốn hát là lập tức mọi người nhường micro cho Dean liền. Dean cũng là người nói nhiều nhất: Chuyện chính trị, chuyện bóng đá, chuyện tôn giáo, chuyện trên trời dưới đất, chuyện giàu sang xứ mẽo, chuyện lạ có thật… nhưng thật bao nhiêu phần trăm thì chỉ có y mới biết, quả thật người ta nói đâu có sai:” Mạnh vì gạo bạo vì tiền”! Ở cái xóm naỳ thì Dean là mạnh nhất rồi nên nói thao thao bất tuyệt. Thằng Tí trong xóm, vốn là bạn thân từ thuở còn cởi truồng tắm mưa bất chợt hỏihồi ấy Dean còn là cu Đực, sau này sang mẽo mới đổi thành Dean)
- Cu Đực, ở bển mầy làm gì dzậy?
Dean thoáng vẻ không hài lòng vì kiểu thân mật gọi cái tên ngày xưa nhưng vẫn trả lời:
- Tao làm kỹ sư hoá chất.
- Thế bà xã mầy làm gì?
- Vợ tao làm chuyên viên săn sóc sức khoẻ
Nhiều tiếng xuýt xoa thán phục
- Hồi ấy cu Đực cũng như bọn mình, vậy mà giờ thành công quá, giỏi giang quá! thảo nào tiền bạc rủng roẻn, xài mát trời ông địa luôn.
Lần này Dean tỏ vẻ khó chịu khi nghe gọi tên cu Đực, mặt sa sầm xuống, bọn bạn có kẻ lanh trí liền tâng y lên:
- Nó giờ là Dean D nghe tuị bay!
Lập tức y cười khoái chí nhưng giả đò:
- Gọi sao cũng được mà, không quan trọng!
Suốt buổi nhậu Dean cứ chêm vào: Oh my God, Bullshit, oh yeah, perfect… có người hiểu, có người không hiểu nhưng ai ai cũng chăm chăm nâng ly, dô dô trăm phần trăm chứ chẳng hơi đâu mà tìm hiểu tiếng Tây, tiếng u.
Cuộc vui tưng bừng đến tận giấc xế luôn, men đã ngà ngà, Dean lè nhè:
- Honey biết hông? tức chết đi được, tuần rồi anh đắp bộ móng cho con Barbara, móng gì mà khó đắp quá trời, đã vậy làm xong nó chê xấu, không trả tiền. Anh phải tháo bỏ, vừa tốn công vừa mất thời giờ, thế mà nó còn cà chớn hỏi:” Tụi bay làm nails bao lâu rồi? có bằng không?”. Anh phải nhịn nó, vì lúc ấy trong tiệm còn nhiều người khách khác.
Jenny L, vợ Dean cất giọng oang oang:
- Honey, vậy là còn đỡ đấy! em chà chân cho con đen cả tiếng luôn, chân gì mà dơ và thúi hoắc, da thì dày như da trâu… chà xong hết muốn ăn cơm! Ấy vậy mà nó tính quỵt, la lối ầm ĩ, chê bai đủ thứ…kiếm được đồng tiền quả chua cay quá!
Đám bạn có người cười mỉn, có kẻ cười khúc khích. Riêng thằng cu Đẹn thì cười hô hố:
- Không ngờ tụi mẽo cũng cà chớn, cứ tưởng xứ mình mới có ăn quịt!
Cu Đẹn là bạn học từ phổ thông, nó là người nhiều chữ, học cao nhất trong đám bạn. Nó lấy được bằng cử nhân văn chương, mọi cuộc gặp mặt ai cũng khoái nghe nó kể chuyện. Nó kể rất duyên, hóm hỉnh và hài hước, chuyện gì nó cũng biết cả: Đông- tây-kim-cổ…Dĩ nhiên cuộc vui hôm nay cũng không ngoại lệ, mọi người yêu cầu nó kể chuyện nghe chơi. Cu Đẹn uống cạn ly bia rồi thủng thẳng:
“ Năm ấy Tề vương ngồi đọc sách ở bên đình thủy tạ, anh xà ích dắt ngựa đi qua thấy bèn hỏi: “Đaị vương đọc sách gì?” Tề vương đang vui nên muốn hí lộng:” Ta đọc sách ngu tử”. Tay xà ích tán:” Người ngu biết mình ngu là trí, người trí không biết chỗ mình ngu ấy là ngu vậy! trí – ngu tuy giống mà khác, tuy khác mà giống!”. Tề vương cười hứng chí bảo:” Ngươi nói tiếp “. Anh xà ích tám:” Người trí không có tiền cũng thành ngu, người ngu có tiền cũng thành trí. Thời thế mà không có tiền thì thời thế bỏ đi, có tiền cũng có thể tạo ra thời thế. Anh hùng mà không có tiền thì khác gì tiểu nhân, có tiền mà không có đức thì chẳng sao, có đức mà không có tiền thì lấy cức gì ăn…” Tề vương cau mày bảo:” Thôi! đừng nói những gì vượt quá cái bánh xe ngựa của ngươi!”
Cả bọn cười bò lăn bò càng, có người bảo:” May cho anh xà ích, Tề vương chưa nổi giận.”. Bạn bè cũng ngầm thấy cu Đẹn có ý chỉnh cu Đực, Dean gỡ thẹn:
- Cái móng tuy nhỏ nhưng laị lớn, nhờ nó mà người ta mới mua nổi nhà, xe, nuôi con ăn học, gởi tiền về quê mua đất, rồi những chuyến “y cẩm hồi hương”…
Có vài người bất chợt nhìn cái móng của mình, có kẻ còn lấy tay sờ mà tặc lưỡi. Dean nói đúng, nếu không có nghề nails thì sẽ vất vả lắm đấy!
Buổi tối, cả đám kéo vào vũ trường trong thị xã chơi. Dean giày bốt áo thun, cu Đẹn giày đen, thằng Tí và mấy khứa khác chơi đôi giày thể thao. Vừa lọt qua cữa cách âm là cả một không gian khác, đèn led chớp quét loang loáng, âm thanh dập muốn bể tim. Dean làm ra vẻ sành điệu, bảo anh bồi:
- Em trai, cho anh chai sương mù.
Anh bồi nói:
- Ở đây giá chót phải là Chivas anh ơi, không ai uống sương mù cả!
Dean bóp bụng:
- Vậy thì Chivas.
Rượu mang ra, mấy em cave vây quanh ưỡn ẹo ngọt xớt, tự khui rượu rồi mời cả bọn. Phải công nhận mấy em uống như rồng lấy nước, nâng ly liên tục, nghề của mấy em mà, làm không lương, chỉ hưởng tiền boa của khách và ăn chia trên số chai. Để làm giá cho cả bọn, thằng Tí giới thiệu với mấy em:
- Đây là anh Dean, Việt kiều Mẽo mới về chơi.
Mấy em cave lập tức nâng ly mừng anh Dean, mấy em rành sáu câu ba cái vụ này quá mà, bởi thế càng ra sức tâng bốc Dean để kiếm tiền boa, một em tên Kim chả chớt:
- Mấy ảnh ở bển về toàn là dân kỹ sư, bác sĩ không hà. Mấy ảnh chơi sộp lắm, năm rồi có anh ga lăng cho em một chiếc xe future đời mới luôn!
Kim trang điểm giống hệt mấy em hàn Quốc, Dean thấy khoái, kéo laị định hôn. Kim õng ẹo:
- Anh ở bển về chắc hổng biết luật chơi ở vũ trường?
Dean bèn lấy tờ hai mươi đô nhét vào khe ngực để trễ tràng của Kim, cô ta hôn cái chụt lên má Dean. Cả bọn nhảy tưng tưng, quất hết hai chai Chivas, một giờ sáng gọi taxi về. Hôm sau tỉnh rượu, Dean tiếc đứt ruột, bụng bảo dạ:” Mất toi một tuần lương cho một đêm”. Đã thế vợ còn tru tréo:
- Ông đi bia ôm chơi bời, coi chừng dính sida.
Thế rồi cô ta bỏ cơm nhà, ra chợ ăn quà. Dean theo năn nỉ gãy lưỡi, tụi thằng Tí, cu Đẹn, con Mén… cười:
- Tưởng sao, té ra hổng phải hàng xịn.
Cu Đẹn còn văn vẻ, bệnh nghề nghiệp mà:
- Nhác trông ngỡ tượng tô vàng
Nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa
Thế là mấy ngày kế nghỉ nhậu, ngày thứ ba mới gầy độ laị, lần này thằng Mùi tham gia. Nó mới về từ cao nguyên, mang theo hũ rượu cần chính gốc của người Ba Na. Ban đầu Dean ngaị, thấy mọi người hút chung mấy cái vòi nên chê dơ. Tụi bạn khích tướng:
- Mầy hút thử đi, ngon lắm! vi trùng nào sống nổi với lượng cồn này!
Dean hút thử một hơi, chép chép miệng khen:
- Tuy không sang trọng và mắc tiền như rượu Tây nhưng thơm và ngon, cái quý nữa là không có hóa chất.
Thằng Mùi góp vui:
- Nghe nói ở bển tân tiến và hiện đaị lắm phải không mậy? phi thuyền của nó bay là là sát mặt đất sao hoả.
Cả bọn ừ à, Dean cũng chưa nói gì thì nó tiếp:
- Nói thì nói vậy chứ cũng cách mặt đất một gang tay. Tụi Nga cũng giỏi lắm, tàu ngầm nó lặn sát đáy biển, cũng chỉ cách một gang tay. Các nhà khoa học giỏi thật nhưng không nhằm nhò gì so với các bà mẹ của họ.
Nhiều người nhao nhao:
- Bộ các bà mẹ của họ cũng chế được phi thuyền, tàu ngầm sao?
Thằng Mùi đủng đỉnh một tí rồi mới bảo:
- Các bà mẹ của họ tạo ra họ cũng chỉ cách rốn một gang tay!
Bàn nhậu cười ngả nghiêng, cứ thế những cuộc nhậu kéo dài suốt hai tuần liền.
Những ngày gần tết, hội ruột rà yêu nước tổ chức hội nghị trên thành, địa phương cử người đến nhà Dean D.
- Anh hãy ủng hộ địa phương một ít tài chánh để xây dựng quê hương, địa phương sẽ cử anh lên thành dự hội nghị yêu nước.
Dean đồng ý đóng một số tiền và lên thành phó hội, sau khi nhiều tay có máu mặt đăng đàn phát biểu. Những tay cơ hội làm ăn cũng lên ba hoa kế hoạch này nọ, khi gần kết thúc, ban tổ chức cho mời Dean đaị diện tỉnh nhà phát biểu:
- Chúng tôi xin tri ân triều đình, các ban ngành đoàn thể đã tạo điều kiện cho anh em chúng tôi về xây dựng tương lai. Chúng tôi vô vàn cảm kích sự lãnh đạo sáng suốt tài của triều đình. Suốt bao năm dài tha hương chúng tôi luôn được các cấp theo dõi, quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thật không sao nói hết lòng biết ơn của chúng tôi…
Báo chí đưa tin, ti vi phát sóng ồn ào. Dean thấy mình trên ti vi thì hãnh diện lắm, vẻ mặt nhơn nhơn, cuộc nhậu nào cũng khoe:
- Mấy anh em có xem ti vi tối hôm hăm ba tháng chạp hông?
Bạn nhậu có kẻ cười khì, người cười mím chi, riêng thằng Mùi thì huỵch toẹt
- Mầy được lên ti vi chứ gì? mầy là thành viên hội ruột rà yêu nước gì đó, ai mà hổng biết! mầy phát biểu như pháo chuột nổ lẹt đẹt hôm đưa ông táo dzià trời.
Dean giận xám mặt nhưng không biết ăn nói làm sao nên nín thinh
Dean ở chơi đến tháng thứ tư mới bay về laị. Xóm giềng thắc mắc:
- Bộ thất nghiệp hay sao ở lâu vậy? người khác về có hai tuần là vội vàng đi rồi cơ mà!
Trong xóm có kẻ ra vẻ thông thái:
- Thằng Đực làm nghề tự do, thích thì làm không thích thì thôi, có ràng buộc gì đâu mà sợ.
Dean bay về laị Mẽo, mọi người thở phào:
- Thằng Đực về laị mẽo, thế là bớt một giọng ca karaoke, nghe đâu sang năm nó laị về! ý quên, giờ nó là thằng Dean.
TIỂU LỤC THẦN PHONG
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Ai cũng có chuyện tình buồn vui để kể, phận mình thì teo tốp lại chưa lần biết đường vào yêu cho nên mình cứ mãi...yếu xìu và khập khểnh trong nhiều lần ....yêu trộm. Như vậy có thể gọi là yêu không ta?
Kể ra sáu bó cũng gần
Chưa yêu, chưa hận, chưa lần tương tư
Thế nào mới gọi là "Yêu"?
Làm sao để biết con tim rộn ràng?
Nghĩ thôi đã thấy bàng hoàng
Thôi thì cứ thế và rồi....thế thôi.
Vấn đề thứ nhất: mình cứ mãi yếu xìu. Bạn nên đi khám bác sỉ
Vấn đề thứ hai : chưa lần biết đường vào yêu.? Hay là bạn thử chuyển hệ xem sao .
Đây không phải là ý kiến của mình mà của ông lang mù ở cuối làng quê của một vùng núi Tà Lơn..
The Following 3 Users Say Thank You to laongoandong For This Useful Post:
Vấn đề thứ nhất: mình cứ mãi yếu xìu. Bạn nên đi khám bác sỉ
Vấn đề thứ hai : chưa lần biết đường vào yêu.? Hay là bạn thử chuyển hệ xem sao .
Đây không phải là ý kiến của mình mà của ông lang mù ở cuối làng quê của một vùng núi Tà Lơn..
:haf ppy:
The Following 2 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
"Kế hoạch trăm năm không gì hơn là trồng người" (của tên Đại Việt Gian HCM )
Mụ cô cha hắn chứ trồng người!
Té ra trồng người là chôn sống người!
Con Gái Tôi Đâu? - Ngô Viết Trọng
VC THẢM SÁT 6,000+ ĐỒNG BÀO TẾT MẬU THÂN 1968 - VC THẢM SÁT DÂN LÀNH VÔ TỘI TẠI KHE ĐÁ MÀI, HUẾ DỊP TẾT MẬU THÂN 1968
Con Gái Tôi Đâu? hay Vết Hằn Mùa Xuân
để nhớ lại Mùa Xuân năm nào Công Sản đã gieo rắc đau thương trên người dân vô tội.
Dì Sáu đang giúp bà Thái lượm những hạt cứt chuột, những hạt sâu cùng những thứ khác lẫn lộn trong mấy thúng nếp thì Liên về. Cô gái với khuôn mặt bầu bĩnh tươi như hoa, dựng chiếc xe đạp trước sân, hớn hở bước vào nhà nói như khoe khoang:
- Chào dì qua chơi! Mạ với dì thấy chiếc xe đạp của con chưa?
Hai người đàn bà đều ngừng tay nhìn ra. Một chiếc xe đạp đàn bà mới toanh láng coóng, sườn sơn màu tím óng ánh, ghi đông, vành, tăm đều sáng choang.
- Trời! Chiếc xe của công chúa có khác! Cho dì mượn đi phố một bữa đi!
Bà Thái ngắm nghía chiếc xe, mặt bà cũng tươi rói, hết nhìn Liên lại nhìn dì Sáu hài lòng, hãnh diện:
- Mất của tôi gần ba chục thúng lúa đấy! Rứa là cô ưng chi tôi cũng thỏa mãn cho cả rồi. Vô thay quần áo đi mà ra phụ mạ làm sạch sẽ ba cái nếp để lo bánh trái cho rồi! Tết ni đình chiến chắc mấy thằng anh mi cũng về. Tổ cha mi hai ngày nữa là lên mười tám rồi, phải siêng siêng lên cho mạ nhờ một tí chứ!
Liên cười qua con mắt, nũng nịu nhìn mẹ:
- Thì con lo học chứ có lười nhác đâu nào! Mạ lo chuẩn bị quà thưởng khi con đậu Tú Tài cuối niên khóa đó!
- Thì đã thưởng trước chiếc xe đạp rồi cô! Cô liệu hồn để trượt vỏ chuối là chết với tôi đó chứ đừng nói!
Dì Sáu cười chung hòa niềm vui:
- Thì thưởng cho hắn một thằng dôn cao ráo đẹp trai, cháu có chịu không?
Cô gái vẫn mặt tươi như hoa cười khúc khích:
- Con không cần tới một thằng dôn cao ráo đẹp trai đâu dì! Con chỉ cần một anh chồng xấu ỉn thôi.
Cả ba người cùng cười ròn rã. Dì Sáu hỏi:
- Mụ nội mi nói cái chi lạ đời rứa! Răng không ưng chồng đẹp mà lại ưng chồng xấu nói cho dì nghe thử coi!
Liên lại cười khúc khích:
- Dì không nghe người ta nói “củi nè dễ nấu chồng xấu dễ sai” đó sao? Con dại gì mà lấy chồng đẹp!
Dì Sáu cười nghiêng ngửa:
- Thì ra con nhỏ tinh ranh tới rứa là cùng! Cho hắn bấp một thằng chồng hay đặp vợ cho biết mặt!
Bà Thái cũng cười ròn rã:
- Tổ cha mi nói rứa có chó mà dám ưng mi! Coi chừng ở quá đó nghe con!
- Ở quá con cũng không sợ. Ở với ba với mạ lo chi!
Liên vừa nói vừa nhí nhảnh đi vào phòng của mình. Dì Sáu nhìn theo cười:
- Hắn tuổi Tân Mão phải không chị? Mới nhỏ chút xíu đó mà! Hèn chi lớp mình mau tra cũng phải.
- Có thư đi thư lại rồi đó dì! Thấy cái thằng cũng hiền lành dễ thương!
- Chị không la hắn à?
- La mần chi! Trước mình răng thì chừ hắn rứa! Nhưng mình cũng phải ngó chừng chừng cho hắn chứ! Tôi chỉ ớn ớn mấy thằng lường gạt thôi. Nói cho cam quả, con ni cũng ngộ thiệt. Từ ngày đẻ hắn ra trong nhà cứ ăn mần nên phơi phới. Học hành thì chuyên đứng nhất đứng nhì, năm mô cũng có phần thưởng. Cha hắn cưng lắm, muốn chi được nấy mà!
- Hắn dễ thương quá đi chứ! Thằng mô mà gặp hắn thiệt là có phước!
Hai người đang vui vẻ bàn tán thì Liên đã thay xong quần áo, chạy vụt ra phụng phịu đưa cả hai tay đấm thùm thụp vào lưng bà Thái.
- Ồ, cái con! Mi mần cái chi rứa?
- Mạ tầm bậy lắm! Mạ đọc chùng mấy cái thư của con hết trơn rồi phải không? Trong phòng con ngoài mạ ra ai vô được?
Cả ba người lại cùng cười ròn rã. Bà Thái nhìn con gái âu yếm:
- Thì mạ phải kiểm soát chứ lỡ gặp thằng mô ba láp hắn dụ dỗ con mạ dắt đi mất mạ biết mần răng? Nói rứa chứ con của mạ đứa mô mà dụ dỗ được!
- Lần sau cấm mạ không được coi chùng thư riêng của con nữa đó!
Dì Sáu nhìn cái cảnh hạnh phúc tràn trề của hai mẹ con mà thèm khát. Chồng dì, ông Hữu, tập kết ra Bắc biệt tăm đã hơn mười năm rồi. Con Lý, đứa con gái của dì và ông Hữu kém Liên một tuổi, học hành chưa tới đâu hết phải bỏ ngang. Sau này dì cũng có thêm một thằng nhỏ nữa giờ đã lên sáu, không rõ cha nó là ai. Cuộc sống của mấy mẹ con dì chưa lúc nào được thoải mái cho lắm. Bà Thái là chị con ông bác của dì vốn rất thương dì nên vẫn hay giúp đỡ dì nhiều mặt. Hai chị em qua lại với nhau khá tâm đắc. Dì nhìn hai mẹ con bà Thái rồi bất giác thở dài:
- Con gái chỉ ở với cha mẹ được một thời. Mai mốt là con người ta rồi đó.
Lời nói của dì Sáu như là một cái đánh động nhẹ vào tâm tư bà Thái. Bà Thái quay lại nhìn người em họ rồi lại nhìn Liên. Thình lình bà ôm lấy Liên hôn lên tóc, lên má, lên cổ nàng tới tấp. Nước mắt bà trào ra ràn rụa trước sự ngơ ngác của dì Sáu. Giọng bà thổn thức nấc lên:
- Mai mốt con đi lấy chồng rồi mạ ở với ai đây?
Cặp mắt nai của Liên cũng mở lớn tròn xoe long lanh nước. Nàng cũng ôm chầm lấy mẹ rồi sau đó gục mặt vào vai mẹ. Bà Thái lại nghẹn ngào:
- Con khoan đi lấy chồng đã nghe! Con đi lấy chồng rồi thì mạ ở với ai đây?
Dì Sáu sững sờ rưng rưng nước mắt lặng người chốc lát trước hoạt cảnh ấy. Sau đó dì làm tỉnh lên tiếng:
- Cái chị ni vô duyên thiệt! Con gái lớn ai không lấy chồng? Mà đã có chi mô nà? Gả hay không đều còn do mình mà! Hắn đi lấy chồng thì chị ở với anh Thái chứ ở với ai nữa!
Một chốc sau hai mẹ con buông nhau ra, mắt người nào cũng đẫm lệ. Dì Sáu vươn vai đứng dậy cười:
- Ngồi ngó hai người tôi cũng mệt. Thôi, hai mạ con làm với nhau đi, tôi về!
*****
Ông Thái trước đây đã từng làm Đại Diện xã. Ông là người kiến thức rộng, có đạo đức,làm việc gì cũng có lý có tình nên rất được lòng người. Bây giờ ông đã thôi việc nhưng mọi người, kể cả lớp có chức sắc trong xã lúc nào cũng tỏ ra trọng vọng kính mến ông. Những việc làm lớn nhỏ liên can đến chuyện an ninh thôn xã, phát triển văn hóa, quân cấp ruộng đất, cúng tế hàng năm… những người gánh vác công việc lúc nào cũng thỉnh hỏi ý kiến ông. Những mối bất hòa, những vụ xung đột gia đình hay xóm giềng với nhau, dù không còn làm việc, hễ ông đứng ra dàn xếp thì thế nào cũng yên.
Cúng Giao Thừa xong, ông Thái toan đi ngủ bỗng nhiên ông cảm thấy có gì hơi khác trong tiếng pháo nổ như mọi năm. Ông lắng tai và ngạc nhiên nghe những tiếng nổ lạ có thể không phải là tiếng pháo. Không lẽ lại có bắn nhau? Cái tin hưu chiến đã được loan đi rộng rãi cho đồng bào yên tâm ăn tết mà! Ông áy náy không thể nào ngủ được. Đến khi nghe thêm nhiều tiếng nổ lạ một vài nơi nữa, ông Thái mới đoan quyết đấy là tiếng súng. Ông liền tìm cách liên lạc với xã để biết tình hình.
Sau khi ra ủy ban xã, ông Thái liền nhắn về nhà cho biết tình hình đang xấu lắm, ông chưa thể trở về liền được. Nếu có ai tới thăm hỏi ông cứ bảo là ông đi thăm viếng ai trên phố.
Sáng Mồng Một Tết thì cả xã nhốn nháo về tin Cộng Sản đã kéo về khắp nơi. Thế là sau đó chẳng ai còn bụng dạ xuất hành chúc tết họ hàng chung quanh. Mọi người đều lăng xăng lo cất giấu hoặc thủ tiêu những thứ gì trong nhà có liên can đến binh lính và chính quyền miền Nam như bức hình chụp, giấy tờ, quần áo giày mũ… Và Cộng Sản đã kéo về làng thật. Ngoại trừ những căn nhà ven quốc lộ 1, nhà nào cũng có vài ba anh bộ đội đến trú đóng. Bà Thái đang hồi hộp nhìn ra đường thì thấy bốn người lính Cộng Sản đi vào nhà bà. Ba người trẻ mang súng dài tỉnh bơ đến thẳng thềm hiên nhà lớn, cởi ba lô và súng ra ngồi xuống nghỉ. Có lẽ họ đang mệt. Những nhà theo kiểu cổ, trừ khi có cúng giỗ tiệc tùng, ít khi người ta mở cửa nhà lớn. Mọi người trong nhà vẫn vô ra bằng cửa nhà lều. Người thứ tư, một người trung niên mang súng ngắn, tỏ vẻ đã hiểu biết thói tục ở đây, bước tới cửa nhà lều gọi:
- Anh chị Thái ơi, em là Trí đây, anh chị có nhớ em không?
Qua giây phút lo sợ, ngỡ ngàng, bà Thái mừng rỡ bước ra chào hỏi người em họ của chồng. Ông Trí là em con ông cậu ruột của ông Thái, tập kết ra Bắc năm 1954. Sự có mặt của một người bà con trong toán người xa lạ mà xưa nay gia đình bà vẫn coi như là thù địch làm bà Thái đỡ lo hơn nhiều. Bà niềm nỡ săn đón:
- Trời ơi, không ngờ còn gặp lại được chú Trí! Chú khỏe mạnh không? Có vợ con rồi chứ chú? Anh Thái vẫn nhắc đến chú hoài! Sáng ni anh Thái lên phố chúc tết mấy người quen không biết răng tới chừ chưa thấy về!
- Tình hình lộn xộn thế mà anh không ở nhà à? Chị có biết bây giờ anh đi đâu không? Nguy hiểm lắm đó nghe!
- Thôi, ông đi mô rồi ông cũng lo về. Chừ mời chú và mấy anh em vô nhà nghỉ ngơi. Chắc mấy chú cũng đói bụng rồi, tôi dọn cơm cho mấy chú ăn nghe!
Ông Trí vui vẻ tự nhiên bước vào ngồi xuống cái giường lèo:
- Để họ nghỉ ngoài đó được rồi. Còn cơm nước lo chi chị! Bộ đội bác Hồ đến dân vui, đi dân nhớ, ở dân thương, đến đâu nhân dân cũng lo cho đầy đủ cả làm sao mà đói! Em tới đây mục đích chính là thăm anh chị. Sau nữa là xin cho mấy anh em ở tạm vài hôm. Rồi tụi em cũng phải lo đi tiếp thu những chỗ khác. Anh em đàng hoàng lắm, không có phá phách như bọn lính ngụy đâu! Chị đừng lo lắng chi cả!
- Thôi, chốc nữa nói chuyện tiếp. Chừ chú nói mấy anh em rửa tay để ăn cơm, tôi đi dọn ra đây!
- Cứ thủng thẳng đã chị, à, mấy cháu đi đâu mà chẳng thấy cháu nào hết?
- Khi đêm tụi nó ham chơi thức khuya quá chừ còn ngủ đó chú!
Cơm dọn ra, một mâm thịt chả cá canh phủ phê. Ông Trí cùng mấy chú bộ đội ăn uống rất thiệt tình. Họ vừa ăn vừa huênh hoang nói về những bước hành quân kỳ diệu của họ. Những món ăn khoái khẩu làm cho thực khách càng nói cười vui vẻ cởi mở thêm. Với bà Thái, mấy chú bộ đội cứ một điều thưa mẹ hai điều thưa mẹ rất thân mật. Bầu không khí lo lắng nghi kỵ trong nhà cũng dần loãng đi. Chốc sau, bà Thái vào phòng kêu chị em Liên và Thảng ra chào ông chú họ và mấy anh bộ đội. Cả hai đều đã thức dậy từ sớm nhưng thấy người lạ vào nhà nên cố nằm nín trong phòng. Thấy mẹ gọi, Liên rụt rè đẩy em đi trước.
- Thưa chú! Chào mấy chú bộ đội!
- Ối chao! Mấy cháu của chú ngoan thế này à!
Lập tức, ông Trí bước lại ôm lấy thằng Thảng mà hôn hít tới tấp. Thằng nhỏ từ khi lên mười tuổi đã xa hẳn kiểu biểu lộ tình cảm nồng nàn thắm thiết đó, đâm ra ngượng ngập, lúng túng, thụ động. Liên trố mắt ngạc nhiên rồi cũng lúng túng thối lui một bước. Liên sợ ông Trí cũng hôn nàng như hôn Thảng. Bà Thái cũng ngạc nhiên cảm động vì cử chỉ của người em họ chồng. Bà mừng vì như thế, những người trong gia đình bà, ông Thái và hai đứa con đi lính chắc không đến nỗi nào. Bà có chút ân hận vì lâu nay nghe chồng mà bà đã hiểu lầm về người Cộng Sản. Tình cảm họ chan chứa mặn nồng như thế mà bảo họ vô tình thì đúng là đặt điều! Mấy chú bộ đội hình như chẳng quan tâm tới chuyện đó. Họ chỉ cười chào lại Liên và Thảng rồi tiếp tục ăn.
Ông Trí vừa ăn vừa nói:
- Anh chị có hai cháu dễ thương quá! Tương lai của đất nước đấy! Bác Hồ nói “kế hoạch trăm năm không gì hơn là trồng người”, đào tạo nuôi dưỡng ở lứa tuổi này thì không chê vào đâu được.
Bà Thái sung sướng hãnh diện cười với hai con:
- Các con nghe chú nói đó, phải gắng học thêm lên nữa!
Bữa ăn gần xong, một anh bộ đội nhìn chiếc xe đạp của Liên rồi khen:
- Chiếc xe trông hết sẩy!
Mọi người đều nhìn theo và thay nhau khen. Liên nghe như vậy vẻ sung sướng hãnh diện lộ ra mặt. Một anh bộ đội hỏi:
- Chiếc xe này của ai mà sang quá vậy mẹ?
Bà Thái hãnh diện trả lời:
- Xe sắm cho cháu Liên đi học đó. Ở đây lên tới trường Đồng Khánh xa lắm mấy chú!
- Dạ, chúng con cũng có nghe nói đến trường Đồng Khánh Huế nữ sinh đẹp lắm. Nghe nói ở đó cũng có nhiều nữ sinh tham gia mấy đội quyết tử của ta chống ngụy quyền gắt gao lắm cơ!
Ông Trí nhìn Liên hỏi:
- Cháu có thấy hoạt động của mấy đội quyết tử ấy không? Cháu có ủng hộ hay tham gia với họ lần nào chưa?
Liên ngơ ngác ngây thơ trả lời:
- Làm gì có! Cháu chưa bao giờ thấy đội quyết tử nào hoạt động ở trường Đồng Khánh cả.
Ông Trí vội nói:
- Hoạt động mật, người ta không phổ biến đâu!
Một anh bộ đội ngập ngừng trở lại chuyện chiếc xe đạp:
- Được đi chiếc xe như thế chắc thích lắm nhỉ! Cô Liên cho chúng tôi mượn tập đi thử chốc lát được không?
Câu nói bất ngờ làm cho Liên tắt mất vẻ cười. Nàng bối rối đưa mắt nhìn mẹ. Bà Thái vốn biết tính con mình rất cưng quí xe. Bình thường, Liên ít khi cho ai mượn xe huống bây giờ xe mới, mà lại đòi tập nữa mới khó chứ! Tuy thông cảm với con gái nhưng bà cũng nghĩ tới những khó khăn hiện tại của mình. Sợ con làm mất lòng mấy chú bộ đội, bà cười giả lả:
- Tập chốc lát cũng được, nhưng cẩn thận giùm một chút kẻo cháu nó nóng ruột, xe mới sắm chưa đi.
Bà Thái nói thế rồi nhìn ông Trí chờ đợi một câu nói ngăn cản hay một lời dặn nào đó. Nhưng ông Trí chưa nói gì thì mấy chú bộ đội đã hồ hởi nhanh nhẹn dắt xe ra sân. Liên nhăn mặt kéo Thảng ra theo ngồi coi. Ông Trí vẫn ngồi uống nước ăn mứt ở bàn ăn.
Sau khi đã dọn dẹp mâm chén xong, bà Thái đến ngồi đối diện với ông Trí:
- Chú Trí cưới vợ lâu chưa? Được mấy cháu rồi?
- Em cưới vợ năm 1957, vợ em người Sơn Tây, đã được ba cháu gái, đứa lớn nhất mới 11 tuổi.
- Rứa chú có đem theo vô đây không?
- Giờ thì chưa, nhưng chậm lắm là cuối năm nay. Giải phóng xong miền Nam em phải đem vô chứ.
- Nì, chị em tôi hỏi thiệt nghe, như tôi có thằng Long thằng Đạt đi lính quốc gia có can chi không?
- Thì chị biết mấy cháu ở đâu kêu về là xong. Cách mạng khoan hồng lắm, bác Hồ và Đảng nhân ái lắm chị, chị đừng lo chi cả.
- Như anh Thái trước đây có làm Đại Diện xã nhưng nghỉ lâu rồi có bị tội lệ chi với cách mạng không chú?
- Không sao đâu, chị biết anh ở đâu cứ kêu về là yên chí chứ lo gì!
- Chú bảo đảm cho anh ấy được chứ!
- Được quá đi chứ chị! Anh ấy là anh của em mà! Cái tình nghĩa của phe dân chủ mình nó thắm thiết sâu đậm lắm chị à! Có em đây chị cứ yên chí mà gọi anh về. Bác và Đảng bao giờ cũng thương dân như con đỏ chứ đâu có vô tình vô nghĩa như bọn đế quốc chỉ biết bóc lột, đàn áp, giết chóc mà ngại! Chị phải mọi cách kéo anh về càng sớm càng tốt. Mười đời không rời cánh tay, em lo cho anh ấy lắm. Bây giờ em phải đi họp một chốc. Hi vọng khi em trở lại thì gặp anh ở nhà.
Bà Thái càng ân hận về những hiểu lầm lâu nay của mình. Thế mà bảo con tố cha, vợ tố chồng, thậm chí còn nói đến chuyện chôn sống người nữa, toàn đặt điều hết!
Ông Trí ra dặn dò mấy chú bộ đội mấy lời gì đó rồi đi.
Ông Trí vừa đi khỏi, Liên liền vào nhà với vẻ bực bội, nói với mẹ:
- Mạ nói họ trả xe lại giùm con đi! Họ tập té lên té xuống trầy trợt hết mạ ơi! Xe mới lấy về chưa kịp đi thì gặp như thế thiệt rầu thúi ruột.
Bà Thái giải thích với Liên:
- Họ cũng như khách, người ta tốt với mình mình phải tốt lại! Đừng làm mất lòng họ không hay mô! Cha con đang ở thế kẹt lắm. Họ ở đậu vài bữa rồi họ đi thôi con ơi.
Liên cười méo mó:
- Chợt chạt móp méo nhiều rồi mạ! Khi kia để tết xong rồi lấy về cho rồi!
- Đừng nói nữa con, cầu cho cha con và mấy anh con yên lành là được rồi. Con đậu tú tài xong mạ mua cho chiếc khác. Chừ con ra kêu em vô ăn uống mà ngủ cho sớm.
Nói xong, bà Thái đi thắp một lượt tất cả các bát nhang. Sau đó, bà dọn ra giữa bức phản một mâm bánh thịt và mấy dĩa mứt, lấy lồng bàn đậy lại. Khi trời đã khá chiều, mấy chú bộ đội vẫn thay nhau tập xe như tranh thủ thời gian. Bà Thái tươi cười ra sân nói với họ:
- Mấy chú tập xong đói bụng cứ vô giở lồng bàn có sẵn đồ ăn đó, cứ tự nhiên coi như người trong nhà, đừng ngại chi hết.
- Dạ, chúng con cám ơn mẹ!
*****
Một hiện tượng mà người dân không thể nào hiểu nổi là bộ đội Cộng Sản đóng khắp trong xã thế mà trên quốc lộ 1 xuyên qua xã, lính Mỹ dùng xe di chuyển qua lại đều đều vẫn tuyệt nhiên không có một cuộc đụng độ xảy ra. Rõ ràng là quân hai bên đều trông thấy nhau cả mà! Không biết cái tình trạng này còn kéo dài tới bao lâu nữa?
Bà Thái mỗi ngày mỗi nôn nóng lo sợ thêm. Ông Thái vẫn biền biệt không nghe tin tức. Mấy ký thịt heo, mấy thẩu dưa món, bốn năm con gà choi và bốn ổ trứng gà đã đi trọn rồi. Ban đầu bà cũng tưởng họ ở đậu vài hôm là cùng, nào ngờ cả tuần rồi vẫn không có chi thay đổi. Ông Trí ngày nào cũng đi họp một hai lần. Thỉnh thoảng cũng có vài người đi công tác đâu đó. Mấy chú bộ đội trẻ cứ rảnh rỗi lại thay nhau hành hạ chiếc xe đạp của Liên. Lúc này Liên cũng phó mặc ra sao thì ra, không cần để tâm tới nữa. Những ngày sau này ông Trí luôn luôn thúc giục bà Thái tìm cách kiếm chồng về. “Nếu anh ấy không chịu về, tôi không bảo đảm được”, ông Trí nói.
Rồi một buổi sáng bà Thái thấy toán bộ đội có vẻ nhốn nháo. Hẳn có chuyện gì xảy ra? Họ hấp tấp sửa soạn hành trang. Sau đó ông Trí với hai người vội vã mang cả đồ cá nhân ra đi. Chỉ có chú bộ đội Minh con người trông nghiêm nghị, ít nói ít cười nhất ở lại. Trước khi đi, ông Trí cũng dặn kỹ người trong nhà từ giờ phút này đừng đi đâu hết. Bữa cơm trưa rồi bữa cơm tối bà Thái đều mời Minh cùng ngồi với gia đình nhưng hôm nay thấy anh ta chẳng thiết tha chi đến chuyện ăn uống. Có lẽ anh ta đang có vấn đề căng thẳng trong đầu. Thấy Minh chỉ một mình, bà Thái tò mò muốn gợi chuyện nhưng không thể nào cậy môi anh ta được. Anh ta cứ chăm chú hướng mắt ra đường. Tới chạng vạng vẫn chưa thấy một ai về.
Mãi tới khi thấy mấy bóng đen xăm xăm bước vào ngõ, bà Thái kêu lên:
- À, mấy chú đã về đó rồi!
Nhưng không phải. Hai người đang tiến vào sân cũng mặc đồ bộ đội nhưng đều là người lạ. Họ tiến thẳng tới trước mặt bà Thái nói giọng nghiêm nghị:
- Lệnh của ủy ban, mời ông Thái sang trường học xã họp ngay bây giờ!
Bà Thái lo lắng trả lời:
- Dạ ông Thái nhà tôi đi chúc tết rồi kẹt mô đó tới nay chưa về đến. Có chú Minh ở đây lâu nay biết rõ đó.
- Nếu ông Thái đi khỏi, xin cho cô Liên đi họp thế vậy!
Một trong hai người quay lại nói với tên Minh:
- Đồng chí cũng thu xếp lên đường. Anh em ai còn sót gì mang cho họ luôn!
Bà Thái ngạc nhiên sao không mời mình đi họp thế chồng mà lại mời Liên? Mà những người này sao lại biết tên của Liên?
- Dạ cháu nó còn dại biết chi mà họp với hành! Tha cho cháu có được không?
- Bà hiểu cho đây là lệnh của ủy ban! Xin mời cô Liên ra ngay cho. Chúng tôi không có thì giờ nhiều!
- Dạ thôi được, để tôi đi họp thế cho cháu.
- Không được! ủy ban chỉ mời cô Liên, không mời bà!
Bà Thái đang lúng túng thì ông Trí từ ngoài đi vào. Bà Thái mừng quá đến đón ông lại:
- May quá, có chú về. Mấy anh này mời cháu Liên đi họp, tôi xin đi thế mấy anh không chịu. Nhờ chú nói giùm một tiếng.
- Không được đâu! Ai có việc nấy. Người ta mời ai thì đi nấy, chết chóc chi đâu mà sợ. Tôi cũng đang có việc của tôi đây.
Bà Thái nghe cái giọng của người em họ chồng không còn ngọt ngào lễ phép với mình như những ngày trước đây thì lo lắm:
- Rứa thôi để tôi cùng đi với cháu nghe chú.
Không biết ông Trí có nghe lời bà Thái không. Ông không trả lời mà chỉ lúi húi tìm cái gì đó tại chỗ ông nằm mấy bữa nay. Anh bộ đội truyền lệnh dứt khoát:
- Cô Liên đi một mình được rồi, mời cô ra mau. Còn bà, đừng bước ra khỏi nhà!
Liên mặc bộ đồ bộ màu tím mới may lững thững đi ra. Bà Thái cầm tay con nhưng không nói gì. Từ khi nghe kêu tên mình tới giờ Liên không hề nói một lời. Khi ấy ông Trí có lẽ đã làm xong việc mình, bước lại nói với bà Thái:
- Để nó đi kẻo người ta chờ kìa. Nó là con chị mà cũng là cháu tôi, tôi cũng biết lo cho nó chứ. Nó qua trường học nghe năm điều ba chuyện rồi về có gì mà bịn rịn như ra Hà Nội không bằng!
Bà Thái đứng nhìn bóng dáng mảnh mai của đứa con gái yêu đang theo mấy người bộ đội ra cửa. Bà rưng rưng nước mắt rồi bỗng chạy vụt vào nhà. Chốc sau bà quay trở ra, chạy theo những người đang đi.
- Chú Trí! Chú Trí ơi!
Ông Trí đang đi quay mặt lui:
- Gì đó nữa? Lôi thôi mãi!
Bà Thái cầm một cái áo len và một gói hạt dưa trao cho ông Trí:
- Nhờ chú đưa cái áo cho cháu Liên mặc thêm kẻo sương xuống lạnh và gói hạt dưa ni để nó cúp đỡ buồn.
- Chị làm như đưa tiễn con lên tàu. Tôi chịu thua chị. Thôi nghe.
Bà Thái có cái cảm tưởng đưa con lên tàu thật. Trường học chỉ cách nhà bà không tới năm trăm thước mà ngỡ như cách trở quan san. Bà nhìn theo bước chân đứa con gái. Hình như Liên cũng cố tình bước nhín nhín vì sợ chóng hết quãng đường. Khi những bóng người đã khuất hẳn trong màn đêm bà Thái mới trở vào ngồi thừ ra trước thềm cửa. Ông Thái biệt tin cả chục ngày bà không lo lắng bằng việc đứa con gái đang đi họp ở trường học. Khi bà vào nhà thì thấy thằng Thảng đang nằm chèo queo ngủ trên chiếc giường lèo. Bà chụp mấy con muỗi đang bu cắn con rồi ghé ngồi xuống phần giường còn trống dưới chân nó, mỏi mệt dựa nghiêng đầu vào thanh lèo giường, chờ con gái về.
*****
Bà Thái bỗng gật đầu một cái rồi tỉnh thức. Thời gian này hay mất ngủ, mệt người, bà đã ngủ gục một giấc khá dài. Bà đứng dậy nhìn đồng hồ: 3 giờ khuya. Bà Thái hoảng hốt chạy lại đánh thức thằng Thảng:
- Dậy con ơi ! Đi với mạ qua coi thử chứ giờ chừ mà con Liên chưa về, họp hành chi lạ rứa! Mạ nóng ruột quá!
Thằng Thảng bừng mắt ngồi dậy nhưng ngại ngùng:
- Đi giờ này hắn bắn chết! Mạ không thấy mấy người chết rồi đó à? Chắc là chị Liên qua ngủ lại nhà dì Sáu chứ gì!
Bà Thái bực bội:
- Tiếc giấc ngủ thì ngủ tiếp đi! Mi không thương hắn thì tau đi tìm một mình.
Bà Thái bưng cây đèn bóng thắp dầu nhỏ bước ra khỏi nhà. Thằng Thảng lật đật chạy theo mẹ. Bưng đèn theo chỉ có mục đích chứng tỏ sự ngay thẳng không mờ ám trong việc đi đêm chứ thật ra lúc đó dù trăng mờ cũng thấy đường được. Khi nhìn được khu vực trường học, bà Thái ngạc nhiên không thấy đèn đuốc chi cả. Bà nôn nóng bước thật nhanh. Ngọn đèn trên tay tắt mất nhưng bà cũng không ngần ngại, càng bước mau hơn. Bấy lâu nay vẫn có một số bộ đội, cán bộ làm việc ở đây, sao bây giờ chẳng thấy ai canh gác ngăn cản chi cả? Tới gần, hai mẹ con thấy có nhiều ghế bàn để ngổn ngang trước sân trường nhưng tuyệt nhiên không có một bóng người.
- Đi qua nhà dì Sáu ngay!
Nhà dì Sáu cách trường học chừng 100 thước. Hai mẹ con lại lật đật tới nhà dì Sáu, đấm cửa thình thịch:
- Dì Sáu ơi! Dì Sáu ơi! Con Liên có ngủ lại nhà dì không?
Dì Sáu nghe tiếng vội vàng nhảy dậy xô cái cửa cho hai mẹ con vào, không kịp tìm diêm bật đèn, dì nói liền:
- Con Liên không về nhà à, tội nghiệp chưa? Rứa thì họ đem đi rồi, đem đi mô đó không biết. Khi khoảng 1 giờ khuya họ dắt đi hết không còn một người. Hèn chi em có nghe một ông mô đó nói lớn “không bắt được lão thì cũng phải làm cho lão đứt ruột nát gan ra …”. Dám họ nói anh Thái lắm! Em mới vô nằm được một chút chứ mấy!
Nghe đến đây bà Thái liền nằm lăn xuống nền nhà mà kêu khóc:
- Trời ơi! Con tôi nhỏ dại tội tình chi mà đem đi mô rứa hỡi trời!
Thằng Thảng sửng sờ đứng ngây người không phản ứng. Dì Sáu thì hoảng hốt nhào tới ôm bà Thái đỡ dậy và khuyên:
- Bình tĩnh chị ơi, con Liên còn nhỏ dại vô tội họ không làm chi hắn mô mà sợ. Chắc ngày mai họ cũng thả về thôi.
Nhưng bà Thái vẫn tiếp tục lăn lộn khóc lóc:
- Liên ơi là Liên! Chừ mạ biết con ở mô mà tìm…
Dì Sáu biết lòng thương của người chị họ mình đối với đứa con gái hơn ai hết. Dì cứ ngồi ốm lấy người chị mà an ủi dỗ dành. Dì chẳng buồn đi tìm hộp diêm để châm đèn nữa, dì không muốn bà Thái thấy trên mắt mình cũng có hai ngấn lệ.
*****
Khi tình hình đã khá yên, ông Thái mới trở về nhà. Nhưng ông khựng lại khi thấy thằng Thảng ra đón ông không có một nụ cười.
- Mạ mô rồi? Chị Liên mô rồi?
- Chị Liên họ bắt đem đi rồi. Còn mạ khóc từ khi qua nhà dì Sáu tới giờ. Dì Sáu và con mới đưa mạ về hồi sáng. Mạ hiện đang nằm khóc trong nhà.
Mặt ông Thái chuyển sang tái ngắt. Ông đã quá hiểu về những con người Cộng Sản. Ông đau đớn nghĩ tới đứa con gái thơ dại của mình. Thôi, thế là hết. Xưa nay, mỗi khi Cộng Sản đã rớ tới ai thì kẻ đó không mất xác cũng mất hồn. Trên đường về nhà, ông đã nghe tin nhiều người có máu mặt ở thôn xã đã bị chúng bắt đem theo trong khi rút lui. Nhưng ông không hề tưởng tượng rằng đứa con gái của ông cũng chung số phận ấy. Ông đi như chạy vào nhà.
*****
Cả mấy tháng sau trong xã hoàn toàn chưa ai được nghe chính xác tin tức về số phận những người bị bắt. Có tin đồn là một số bị giết và một số lại đi theo Cộng Sản. Gia đình ông Thái vẫn hi vọng Liên ngây thơ vô tội chắc không đến nỗi bị hại. Bà Thái không lúc nào quên nghĩ đến đứa con gái mình. Ngày nào bà cũng thắp hương khấn vái cầu nguyện ông bà giúp đỡ phù hộ cho con mình trở về. Gần như đêm nào bà cũng có khóc. Bà ân hận vì mình không can đảm giữ Liên lại đừng cho đi họp hay ít nhất cũng cương quyết theo chân Liên đến chỗ họp. Không lý người ta dám bắn mình lúc đó? Bà ân hận vì đã quá tin tưởng vào những lời phỉnh gạt của người cán bộ em họ chồng mình. Ngày nào bà cũng vào lau chùi trong phòng Liên và không cho ai làm thay đổi một cái gì hết. Đến đôi tấc, bộ áo quần Liên thay lúc ra đi bà vẫn để chỗ cũ, không đem đi giặt. Lúc này bà hay ngủ tại giường của Liên.
Rồi tin dữ cũng chính thức đến với gia đình ông Thái. Khoảng nửa năm sau, khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phát hiện một số hầm chôn người tập thể do lính bác Hồ thực hiện tại quận Phú Thứ, người ta cho khai quật để cải táng. Trong số nạn nhân, người ta đã chính xác nhận ra Liên. Khi gia đình nhận được tin báo, bà Thái ngất xỉu đi mấy phút. Bà không thể tưởng tượng nổi. Hồi còn trẻ, bà đã nghe mấy người từng chứng kiến kể lại vài vụ chôn sống. Người thì bị đánh cho ngất xỉu rồi đẩy xuống hố mà dập đất lên, đó là lúc người ta muốn giải quyết nhanh. Người thì dùng sức mạnh ép đứng xuống một cái lỗ sâu mà dập đất lên ngang bụng, ngang ngực, hay ngang cổ tùy ý thích của cán bộ lãnh đạo. Những người bị chôn sẽ năn nỉ khóc lóc van xin cho đến khi nào không còn nói được. Phần thân thể bên dưới của người đó sẽ tê dại nhanh chóng dưới sức ép của đất, mạch máu không còn lưu thông được, sau cùng đều chết. Đây là cách giết mà vừa trả thù, vừa thưởng thức. Một cách khác nữa rùng rợn hơn nhiều, gọi là xác chết đội mồ. Người ta đào một cái lỗ cạn, dùng sức đẩy nạn nhân còn đang khỏe mạnh xuống rồi dập phủ kín một lớp đất rất mỏng. Nạn nhân sẽ ọ ọ lên mấy tiếng giống như bò rống, chỗ đất mới đắp nứt nứt ra rồi cái đầu người phủ đầy đất thò lên tưởng như xác chết đội mồ. Những người chung quanh cứ cười nói thỏa thích chờ cho nạn nhân hồi sức được phần nào rồi áp lại dập đất lần khác. Đến khi nào nạn nhân lã người chịu nằm yên dưới lớp đất phủ là xong. Nghe nói không có nạn nhân nào ngoi dậy được lần thứ ba. Ngày trước nghe kể như thế nhưng bà đâu có tin! Bây giờ thì những nạn nhân lại có nhiều người bà từng gần gũi, quen biết, có luôn cả người thân yêu nhất đời của bà nữa! Bà tưởng tượng ra những nỗi đau đớn quằn quại của đứa con gái mình mà rùng mình thon thót. Bất giác bà nhớ tới câu mà theo ông Trí là của bác Hồ, ba mẹ con bà đã nghe trong dịp tết vừa rồi “kế hoạch trăm năm không gì hơn là trồng người”. Con người cả đời hiền lành không biết chửi bới ai một câu bỗng nghiến răng rít lên:
- Mụ cô cha hắn chứ trồng người! Té ra trồng người là chôn sống người!
*****
Sau khi cải táng cho con, bà Thái ngã bệnh kéo dài cả năm.
Khi lành bệnh, tính khí bà trở nên thất thường. Nhiều khi bà ngồi cả buổi để nhìn lên bàn thờ người con gái. Hình như đôi mắt yếu kém của bà vẫn nhìn thấu suốt qua tấm vải đỏ phủ trên khung ảnh mang gương mặt ngây thơ bầu bĩnh tươi như hoa của cô gái. Những giọt lệ cứ bò trên đôi má nhăn nheo của bà. Nhiều khi đang làm việc gì bà bỗng ngưng lại, thở dài: Bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế hoạch trăm năm không gì hơn là chôn sống người!
Từ ngày mất Liên, lòng bà Thái cũng mất luôn mùa xuân, mất vĩnh viễn. Có mùa xuân nào nữa mang lại niềm vui cho bà đâu? Càng về già cái tính thất thường của bà càng tăng. Lắm lúc bà quên cả mọi người chung quanh cũng như mọi việc. Nhưng lạ một cái bà vẫn hay nhắc một câu nói cũ và vẫn không lẫn lộn một chữ nào: “bác Hồ nhân ái lắm, bác thương dân như con đỏ, kế koạch trăm năm không gì hơn là chôn sống người!”.
Ngô Viết Trọng
Lượm lặt từ các nguồn của Blog 16
Sau cuộc chiến, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng tổng số nạn nhân ở Huế vào khoảng 7,600 như sau:
Bị thương và tàn tật vì bom đạn : 1.900
Thường dân bị chết vì bom đạn : 844
Nhóm mồ tập thể thứ nhất ngay sau cuộc chiến : 1.173
Nhóm mồ tập thể thứ nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969 : 809
Nhóm mồ tập thể thứ ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969 ) : 428
Nhóm mồ tập thể thứ tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969 : 300
Ước lượng những mồ tìm rải rác chung quanh thành phố Huế : 200
Số người vẫn còn mất tích : 1.946
Tổng số nạn nhân của cộng sản ở Huế: 7.600
Chú thích của tác giả – tài liệu trên đây lấy từ
- SEATO: South East Asia Organization.
- PAVN: People’s Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South...
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 6 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trong cuộc chiến Việt Nam, không phải chỉ có những đơn vị chủ lực: Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động Quân, Không & Hải Quân..., tham gia chống trả cuộc xâm lăng của Cộng sản miền Bắc. Có nhiều cá nhân, nhiều đơn vị vô danh đã âm thầm đóng góp xương máu của mình vào cuộc chiến ngăn chận bon Cộng Sản xâm lược... Những Anh Hùng Vô Danh!
Tình Báo Trong Chiến Tranh - Điệp Viên Giỏi Nhất của Việt Nam Cộng Hòa
(Tài liệu được phổ biến bởi BBC)
Phan Tấn Ngưu
Trong hai ngày 20 và 21 tháng 10 năm 2008, Trung Tâm Việt Nam thuộc Đại Học Công Nghệ Texas, cùng Trung Tâm Nghiên Cứu Tình báo thuộc CIA, đã tổ chức hội thảo mang chủ đề:
“Tình báo trong chiến tranh Việt Nam”
- Tường trình của BBC...
... Nhiều chuyên viên đang và từng làm trong ngành tình báo của Mỹ và Nga đến nói chuyện về kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến.
Có bảy buổi thuyết trình với bảy chủ đề lớn như: CIA ở Việt Nam, Chương trình Phượng Hoàng, Công nghệ và Tình báo, Cuộc chiến bí mật ở Lào, Hoạt động tình báo Nga và Việt Nam…
Một trong các diễn giả, Merle Pribbenow, đem đến hội thảo bài thuyết trình: “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam.”
Merle Pribbenow, cựu nhân viên CIA và chuyên gia tiếng Việt, từng phục vụ ở Sài Gòn từ 1970 đến 1975. Sau khi rời khỏi CIA năm 1995, ông dành thời gian để dịch các sách lịch sử của Việt Nam và viết về cuộc chiến. Bộ lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam được ông dịch sang tiếng Anh, và được NXB Đại học Kansas ấn hành năm 2002.
Trong bài thuyết trình ở hội thảo, Pribbenow mô tả ba nhân vật hoạt động cho ba cơ quan tình báo khác nhau: CIA, Phòng Tình Báo Chiến Lược của Trung Ương Cục Miền Nam, và Tình báo Quân đội Liên Xô.
Được sự cho phép của tác giả, BBC xin giới thiệu hai phần trong bài thuyết trình, nói về Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) và Võ Văn Ba (người được gọi là điệp viên số một của CIA ở ViệtNam).
- Ngưng trích.
Vì chủ đề viết về Điệp Viên ở Tây Ninh, nên chúng tôi không đề cập đến đoạn nói về các Điệp Viên nằm trong văn phòng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà chỉ viết theo đề tài chính mà thôi.
- Trích tiếp:
I. PHẦN THUYẾT TRÌNH CỦA MERLE PRIBBENOW
Trong chiến tranh Việt Nam, Quân đội Mỹ sử dụng nhiều tình báo trong cuộc chiến Việt Nam (undefined).
Tiếp theo phần một loạt bài về các điệp viên ít được biết đến trong cuộc chiến Việt Nam, BBC giới thiệu nhân vật Võ Văn Ba, người được gọi là điệp viên “giỏi nhất của CIA ở Việt Nam”.
(Tư liệu dựa trên bài thuyết trình “Những điệp viên vô danh nổi tiếng nhất trong cuộc chiến Việt Nam" của ông Merle Pribbenow).
Bài này đã đọc tại hội thảo “Tình báo trong Chiến tranh Việt Nam”, ở Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texas (undefined).
Đọc phần một loạt bài tại đây:
Orrin De.Forest, một nhân viên CIA phục vụ sáu năm ở Việt Nam, nhắc đến con người này với mật danh “Reaper” trong cuốn sách “Slow Burn: The Rise and Bitter Fall of American Intelligence in Vietnam.” Một chuyên viên khác của CIA, John Sullivan, nói ông ta là “điệp viên giỏi nhất mà chúng ta từng có ở Việt Nam.” Còn trong cuốn tiểu sử về sếp CIA ở Sài Gòn Ted Shackley, tác giả David Corn dẫn ra một sự đánh giá thời hậu chiến của CIA rằng điệp viên này là “nguồn tin đáng tin cậy nhất về ý định của cộng sản” ở Việt Nam.
Frank Snepp, một nhà phân tích tình báo có đôi lần gặp con người này, gọi ông ta là “điệp viên hàng đầu của chúng ta” ở Việt Nam. Văn phòng của CIA ở Sài Gòn thì đơn giản gọi ông này là “nguồn tin Tây Ninh”. Sau 1975, những người cộng sản mô tả nhân vật này là “điệp viên nguy hiểm trung thành với CIA” và nói CIA xem ông ta là “điệp viên có giá nhất tại Đông Dương” của CIA.
Con người này là ai?
Tên của người này là Võ Văn Ba. Theo các ghi chép của phía cộng sản, nhân vật này, sinh năm 1923, là một đảng viên Cộng sản phụ trách tuyển mộ đảng viên mới ở khu vực Tòa thánh Cao Đài và thành phố Tây Ninh.
Có những ghi nhận khác nhau về cách làm thế nào và nhờ ai mà điệp viên này được tuyển mộ cho CIA. Orrin DeForest nói chú của ông Ba, ban đầu theo Việt Minh nhưng sau trở thành sĩ quan phục vụ trong ngành An Ninh Quân Đội của miền Nam, đã thu dụng người cháu. David Corn và John Sullivan viết rằng chú của Ba, người mà họ chỉ nói là một sĩ quan miền Nam, đã tuyển Ba làm chỉ điểm cho Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Trước khi CIA vào cuộc, có vẻ Ba làm việc một thời gian cho quân đội Mỹ. Theo John Sullivan, một người trong CIA nói Ba từng làm cho tình báo quân đội Mỹ.
Không lâu sau khi đến tỉnh Tây Ninh năm 1969, sĩ quan CIA đầu tiên phụ trách Ba đã nhanh chóng chuyển điệp vụ mà lâu nay tiến hành khá nghiệp dư trở thành một hoạt động tình báo chuyên nghiệp, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của CIA.
Hoạt động
Từ nay ông Ba được yêu cầu báo cáo về những mục tiêu chiến lược, các kế hoạch hành động mang tính chất toàn quốc, chứ không còn là những mục tiêu chiến thuật cấp thấp. Ông Ba ở trong vị trí lợi thế để lấy được những thông tin chiến lược vì trong suốt giai đoạn này, trụ sở chính của Trung Ương Cục Miền Nam đặt rất gần chỗ ông, có lúc bên trong tỉnh Tây Ninh, có lúc ở tỉnh Bình Long kế cận. Các báo cáo của người này được chuyển qua các kênh thông tin của CIA, và chỉ một số ít người biết về sự tồn tại của Ba.
Quân Mỹ sử dụng thông tin tình báo để tiến hành các cuộc tấn công.
Để bảo đảm bí mật, chỉ một sĩ quan Cảnh Sát Đặc Biệt miền Nam và một nhân viên người Việt ở văn phòng CIA ở Tây Ninh được phép gặp mặt Ba ở Tây Ninh. Chỉ thỉnh thoảng Ba mới gặp nhân viên CIA người Mỹ và cũng chỉ gặp ở địa điểm mật tại Sài Gòn.
Thông tin mà ông Ba cung cấp thường xuyên được sử dụng trong các đánh giá của tình báo Mỹ về kế hoạch của phe cộng sản. Ngoài ra, mặc dù Ba chuyên môn theo dõi các khía cạnh chính trị chứ không phải quân sự, nhưng thỉnh thoảng ông cũng báo trước các cuộc tấn công ở khu vực Tây Ninh.
Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi về sự trung thành của ông Ba đối với CIA. Mấy lần kiểm tra ông bằng máy thử nói dối đều có kết quả không làm CIA hài lòng. Năm 1971, hai năm sau khi CIA tuyển mộ Ba, họ phát hiện rằng Ba vẫn ngầm liên lạc và báo cáo cho tình báo quân đội Việt Nam Cộng Hòa. CIA ngay lập tức liên lạc và yêu cầu quân đội Miền Nam ngừng mọi giao thiệp với Ba. Một số sĩ quan CIA cũng đặt câu hỏi làm sao Ba lại không bị Việt Cộng phát hiện mặc dù các điệp viên cộng sản đã xâm nhập vào toàn bộ các tổ chức tình báo của miền Nam, những nơi biết về sự tồn tại của con người này. Nhưng rốt cuộc, sự chính xác trong các báo cáo của Ba làm tan biến mọi hồ nghi, và giới tình báo miền Nam và Mỹ xem Ba là tài sản quý giá của họ.
Những người cộng sản cũng ngày một nhận ra là họ có kẻ phản bội trong hàng ngũ. Những thiệt hại ở khu vực Tây Ninh năm 1969, những dấu hiệu là đối phương biết trước ý định tấn công, khiến những người cộng sản nghi ngờ trong nội bộ của họ có điệp viên. Một nữ cán bộ được cử điều tra tại Tây Ninh, nơi Ba có nhiệm vụ tuyển mộ và tổ chức chi bộ đảng. Nhưng nhà nữ điều tra này lại bị an ninh miền Nam bắt được khi bà đi vào địa giới do Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát, và bà bị giam cho đến hết cuộc chiến. Không có tư liệu cho biết liệu có phải ông Ba đã báo cho an ninh miền Nam bắt người này hay không.
Cuộc truy tìm nội gián trở nên gấp rút tới mức, theo một loạt các bài báo đăng trên báo chí Việt Nam năm 2004, một trong những điệp viên cao cấp của cộng sản trong chính quyền miền Nam, Nguyễn Văn Tá (tức Ba Quốc), được giao nhiệm vụ săn lùng nội gián vào năm 1972. Ông Ba Quốc đoán rằng hồ sơ mà ông muốn có thể nằm trong một tủ khóa ở Nha điệp báo (ban K) thuộc Phủ Đặc ủy trung ương tình báo. Ông vào được nơi này và định mở khóa, nhưng lại có người vào bất thình lình, khiến ông đành bỏ dở. Hai năm sau, các hoạt động của chính ông Ba Quốc bị phát hiện và ông phải trốn vào căn cứ cách mạng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đoạn Kết
Hồ sơ mật về ông Võ Văn Ba được an toàn cho đến ngày Sài Gòn sụp đổ hôm 30-4-1975. Khi quân đội cộng sản chiếm văn phòng Phủ Đặc ủy trung ương tình báo ở Sài Gòn. Viễn Chi, Cục Trưởng Cục Tình Báo của Bộ Công an Bắc Việt, được nói là đã tìm thấy hồ sơ về Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc Bình, Tổng giám đốc cảnh sát quốcgia.
Cho đến khi cuộc chiến gần kết thúc, ông Ba tiếp tục có những báo cáo giá trị cho CIA. Thế nhưng đến tháng một năm 1975, khi Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Bắc Việt ra Nghị Quyết tổng tấn công để “dứt điểm” Miền Nam Việt Nam, Võ Văn Ba đã không báo động trước cho CIA về Nghị Quyết nầy. Đây không phải lỗi của Ba mà là do Cộng sản nghi là có người phản bội trong hàng ngũ của họ, thành ra giới lãnh đạo Trung Ương Cục Miền Nam đã quyết định không phổ biến Nghị Quyết mới cho cấp dưới.
Vào giữa tháng Tư 1975, ông Ba cho CIA một loạt báo cáo cuối cùng mô tả chung chung kế hoạch tấn công Sài Gòn của Bắc Việt. Những báo cáo này được xem trọng đến mức chúng được đưa vào bản phúc trình hàng năm của đại sứ Mỹ Martin trước một ủy ban của Quốc hội Mỹ về việc sơ tán khỏi Sài Gòn. Nhưng vào lúc Ba chuyển những báo cáo này thì số phận của miền Nam đã được định đoạt. Thực tế, số phận của chính ông Ba cũng được định đoạt, mặc dù lúc này ông chưa biết.
Điệp viên Võ Văn Ba bị bắt đúng ngày 1-5-1975
Khi Sài Gòn sắp sụp đổ, CIA đề nghị đưa Ba và gia đình sang Mỹ. Nhưng ông này lại từ chối, nói là muốn ở Việt Nam thay vì khởi nghiệp từ đầu ở xứ người trong lúc tuổi đã cao. CIA hứa họ sẽ làm mọi cách để ngăn không cho hồ sơ về ông Ba rơi vào tay đối phương. Tuy vậy, lúc đó quân đội cộng sản đã bắt được và tra hỏi một người mà có lẽ biết hoạt động của ông Ba rõ hơn ai hết.
Theo các ghi chép hậu chiến của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Phong (hay Nguyễn Sĩ Phong) là một người di cư miền Bắc 33 tuổi làm việc cho văn phòng CIA ở Tây Ninh. Ông Phong là người liên lạc của Ba ở CIA kể từ 1969, ngay sau khi CIA tuyển mộ Ba. Sau nhiều năm làm việc trực tiếp với Ba, sau này ông Phong rời khỏi Tây Ninh và làm ở văn phòng CIA ở Ban Mê Thuột.
Ngày 10-3-1975, lực lượng cộng sản nhanh chóng chiếm được Ban Mê Thuột. Ông Phong và gia đình chạy đến nhà của Paul Struharik, đại diện của USAID và là nhân viên người Mỹ duy nhất còn ở lại trong tỉnh. Nhưng ngôi nhà lập tức bị bao vây và mọi người trong đó bị bắt. Ông Phong thú nhận ông đã làm việc cho CIA và khai ra tên của Võ Văn Ba. Ngày 30-4-1975, quân cộng sản chiếm thành phố Tây Ninh và bắt được Phan Tấn Ngưu, sĩ quan miền Nam phụ trách trường hợp ông Ba. Bản thân ông Ba bị bắt ngày 01- 5-1975.
Phía Việt Nam nói ông Ba tự sát ngày 8-6-1975 trong lúc đang bị giam trong trại của Bộ Công an. Sự thật về cái chết của Võ Văn Ba – có phải đó là tự sát hay là một điều gì khác- có lẽ sẽ không bao giờ được biết.
Đoạn kết khác
Còn có thêm một đoạn kết khác cho câu chuyện về điệp viên Tây Ninh. Vào năm 1980, trong cao trào thuyền nhân, Paul Struharik, đại diện của USAID ở Buôn Mê Thuột và là người có nhà bị bao vây hồi tháng Ba 1975, nhận được lá thư gửi về địa chỉ nhà ông ở Mỹ. Lá thư được gửi từ Malaysia, và người viết là Nguyễn Văn Phong.
Phong nói ông đã trốn được khỏi trại giam Bắc Việt bằng cách nhảy khỏi xe trong lúc chuyển tù. Ông nói sau khi trốn thoát, ông tìm thấy vợ con và cả nhà sắp ra đi trên con thuyền với những người tị nạn vừa đến được bờ biển Malaysia. Theo Phong viết thì vì thuyền của ông vẫn còn đi biển được, phía Malaysia muốn đẩy họ đi tiếp, nhưng Phong nói ông thuyết phục được người ta gửi lá thư này về Mỹ. Phong nhờ Struharik giúp đỡ.
Câu chuyện của ông Phong nghe khó tin vì̀ làm sao một người tù quan trọng như ông có thể trốn thoát, lại mang theo được cả vợ con. Tuy vậy người Mỹ biết rằng trong đời này cũng thỉnh thoảng gặp trường hợp phép lạ, thành ra họ vẫn gửi tin nhắn yêu cầu nhân viên chức trách để ý khi thuyền của ông Phong đến được trại tị nạn.
Khoảng hơn một tuần sau, một người Việt Nam lênh đênh trên biển Đông được một chiếc tàu đi ngang cứu được. Người này nói ông ta có mặt trên con thuyền của ông Phong. Ông nói con thuyền đó đã chìm trên đường tới Indonesia, và mọi người trên thuyền, kể cả ông Phong và gia đình, đã chết.
(theo BBC) . Hết.
II. TƯỜNG TRÌNH CỦA NGƯỜI TRONG CUỘC: Phan Tấn Ngưu
Ngay sau buổi thuyết trình từ Đại Học Công Nghệ về, Merle Pribbenow tìm mọi cách để liên lạc với chúng tôi, vì ông ta cho rằng bài thuyết trình vừa qua, có những điểm không giải thích được cũng như còn những chi tiết mà ông không được biết trong việc xây dựng cũng như điều khiển công tác này, nhất là cách nào đã bảo vệ an toàn cho công tác trong nhiều năm.
Trong chuyến công tác của chúng tôi tại Hoa Thịnh Đốn vào đầu năm 2010, Ông Merle Pribbenow có tìm gặp và cùng nhau đi ăn phở trong khu thương mại Eden. Gặp nhau, để ông yêu cầu là tôi sẽ viết lại những diễn tiến công tác, từ lúc chưa trở thành một điệp viên có bí số X..., cũng như tất cả những chi tiết liên quan đến việc điều hành công tác này, mà cho mãi đến 30-4-1975 hãy còn an toàn, dù bọn Việt Cộng luôn nghi ngờ và kiểm soát gắt gao trong hàng ngũ của chúng!
Trở lại thuở ban đầu. . . . . . . . . .
Khoảng giữa năm 1970, tôi được Giám Đốc Nha CSQG Vùng III chọn về làm Trưởng Phòng Cảnh Sát Đặc Biêt Ty CSQG Tây Ninh thay thế cho Ông Lê Quý Thông bị tử thương khi đi hành quân vào tháng 5 năm 1970. Khi nghe tin "được" đi Tây Ninh, cảm thấy ớn da gà, vì nơi đây đầy những địa danh với những chiến trận khốc liệt. Ớn thì ớn, nhưng cũng phải xách gói lên đường, với bao lời khuyên bảo, khích lệ cũng như lời hứa giúp đở tận tình của Đại Tá Đào Quan Hiển. Tôi hãy còn nhớ lời nhắn nhủ của Ông: “Tôi không cần biết cậu có tài hay không, tôi chỉ cần cậu sự siêng năng và không quản ngại khó khăn ....”
Những ngày đầu đến địa phương mới, gần như là những ngày bị mất ngủ, không chỉ với bao công việc phải giải quyết hàng ngày mà phải xem lại từng hồ sơ của những cảm tình viên, mật báo viên mà nhất là những tình báo viên còn đang hoạt động.
Trong đống hồ sơ đó, tôi không thể không lưu tâm đến công tác X.54 (bí số xử dụng trong những năm 1969-1970) và tình báo viên có tên là Võ Văn Ba (tức Năm Huỳnh), hiện cư ngụ tại vùng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh. Sinh sống bằng nghề ruộng rẫy, thường xuyên ra vào khu vực xã Ninh Thạnh, Hiệp Ninh và Suối Đá cho mãi đến gần chân Núi Bà Đen phía Bắc tỉnh Tây Ninh (đường ra vào của bọn cán bộ Cục R)
Xem lại từng chi tiết về nhân vật này, được biết sinh quán tại Mộc Hóa tỉnh Kiến Tường và vì chiến cuộc nổi trôi đã đến lập nghiệp tại vùng Long Hoa, quận Phú Khương, tỉnh Tây Ninh. Trong gia đình của Võ Văn Ba ở Kiến Tường, có người chú đã hoạt động cho Việt Minh và cùng với Ba gia nhập đảng cộng sản từ những năm 1945.
Cho đến khoảng 1967, do sự móc nối của một nhân viên hoạt vụ, trước kia cũng là một cán bộ cộng sản, hoạt động vùng xã Hảo Đước (TN) sau về đầu thú, lập công và được tuyển dụng làm nhân viên Công An từ những năm 1962 (do Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, quyết định tuyển chọn), đã tuyển mộ Ba làm Mật Báo viên.
Từ những năm 1967 đến 1970, Võ Văn Ba thỉnh thoảng báo cáo những hoạt động có tính cách địa phương như dưới hình thức lượm lặt, gặp gỡ với bọn cán bộ Việt Cộng trong lúc đi làm rẫy trong vùng bất an ninh mà Quốc Gia chưa kiểm soát được. Những báo cáo của Ba có vẻ chính xác mà chúng ta có thể kiểm chứng được ở từng địa phương và từng thời điểm.
Nhưng có một vài báo cáo mà tôi không thể không lưu tâm:
1. Đó là cuộc Tổng công Kích Tết Mậu Thân năm 1968. Cả hai phía VNCH và Cộng Sản đã ký kết Hiệp Ước ngừng bắn, để cho người dân được vui Xuân đón Tết, có hiệu lực từ ngày Mồng Một tháng Giêng Tết. Nhưng ngày 25 tháng Chạp, Võ Văn Ba đã báo cáo là cộng sản đang chuẩn bị cuộc tổng tấn công toàn diện trên khắp miền Nam, từ thành phố cho đến thôn quê. Trong báo cáo này, Ba cho biết đã được bọn Việt Cộng đi họp ở phía Bắc núi Bà (Chiến khu D) về thuật lại, là được lệnh Trung Ương phải thực hiện cuộc tổng công kích bất ngờ này để cướp cho bằng được miền Nam. Và báo cáo này được chuyển về Tổng Nha CSQG và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ nội trong sáng ngày 26 tháng Chạp ta.
Trong những bài trước đây khi viết về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, chúng tôi có đề cập đến lệnh của Ông, yêu cầu các đơn vị CSQG trên toàn quốc phải cấm trại 100% và ra lệnh phải lo đào hầm trú ẩn chung quanh các đơn vị, trong khi anh em quân nhân đang lần lượt được thay phiên đi phép về thăm nhà...và “ăn Tết”.
2. Trung Ương Cục (TƯC) ra lệnh lui binh để tránh bị tổn thất khi Quân Lực VNCH tấn công qua đất Campuchia từ cuối năm 1969 cho đến 1970. Một số đơn vị phải cố thủ ở vài mật khu quan trọng, còn hầu hết rút về phía Nam Lào. Bọn Việt Cộng đoán chắc thế nào Quân Đội VNCH cũng đánh sang Campuchia để tiêu diệt cho bằng được bọn Trung Ương Cục đang ẩn náo nơi đây.
Đây là 2 báo cáo tiêu biểu trong rất nhiều báo cáo bình thường khác, tôi cảm thấy Võ Văn Ba không phải là một “Mật Báo Viên” bình thường, mà bên cạnh Ba còn có ai hoặc tổ chức nào, hoặc cá nhân của Ba là ai mới có được những tin tức như vậy.
Những thắc mắc của tôi được cố vấn Mỹ lúc đó là Bernard D’ambrossio cũng đồng quan tâm. Sau khi thảo luận, chúng tôi quyết định cần có cuộc gặp với Ba ít nhất trong 3 ngày và địa điểm là tại Sàigòn. Lúc đó là khảng giữa năm 1971.
Mỗi lần hẹn để gặp với Võ Văn Ba, chúng tôi phải chuẩn bị từ lúc đi cho đến lúc về, vì lúc đó Ba đã là một mật báo viên “đáng tin cậy”. Điều quan trọng là trong gia đình, Ba phải giải thích cho vợ và 2 đứa con, một trai và một gái, sự vắng mặt của mình.
Chuẩn bị cho mỗi chuyến đi, không kỳ nào giống kỳ nào. Nhưng chuyến đi đó, là lần đầu tiên sau khi tôi đến phục vụ tại Tây Ninh, chúng tôi yêu cầu Ba giả vờ đi phám bệnh tại bệnh viện tỉnh (nhưng không được gặp bất cứ bác sĩ nào), sau đó, chỉ lách qua một cánh cửa, lẻn ra phòng kín phía sau, leo nằm trên chiếc băng ca, với tấm vải che toàn thân, mặt và được 4 anh em Cảnh Sát Đặc Biệt khiêng cho vào xe cứu thương và đưa ra phi trường Tây Ninh West (Tỉnh lỵ) có phi cơ chờ sẵn và đưa về Sàigòn (4 nhân viên CSĐB này cũng không biết là ai đang nằm trên đó). Riêng chúng tôi, cùng với cán bộ điều khiền, lái xe đi đường bộ và hẹn gặp nhau tại Hotel X.Y.
Ngoại trừ khi ở trong phòng khách sạn ( chúng tôi ở phòng bên cạnh), khi đi ra ngoài, đi ăn tiệm, nghe nhạc v.v... Võ Văn Ba đều phải hóa trang tùy theo địa điểm sẽ tới: khi mang tóc giả, khi mang râu v.v..., nhưng thường phải mang kính đen, nếu ban ngày.
Kỳ gặp đó, có cả Frank Snepp, chuyên viên phân tích của tòa đại sứ Mỹ, tham dự, và thông dịch viên lúc đó là Ông Nguyễn Sĩ Phong cùng với một người Mỹ đến để thu âm mà không tham gia cuộc thảo luận.
Kết quả, chúng tôi được biết:
- Ông Ba là một Trung Ương Ủy Viên, đang giữ nhiệm vụ tuyển mộ cán bộ và đảng viên mới để phụ giúp ông kiểm soát mọi hoạt động trong vùng Tòa Thánh Tây Ninh cũng như cung cấp nhân sự cho các đơn vị khác từ cấp Quận, Tỉnh và Trung Ương Cục (TƯC) v.v...
- Thi hành mọi chỉ thị của TƯC, trong việc phá hoại tại địa phương như đặt chất nổ, rãi truyền đơn. Ông Ba chỉ ra lệnh cho những Chi Bộ khác thực hiện mà không được tham gia trực tiếp các công tác này.
- Bám sát và yểm trợ mọi hoạt động của Chi Bộ Tòa Thánh để ám sát những chức sắc cao cấp mà bọn chúng cho là do chính quyền Sài-gòn dựng lên, như quý ông Cao Hoài Sang, Trương Hữu Đức, Lê Thiện Phước, Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Nhã (sau này giữ chức Thượng Chánh Phối Sư), mà nhất là Cựu Trung Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành. (xin mở ngoặc thêm chỗ này: Với chức Thượng Chánh Phối Sư, sau 30 tháng 4/1975, Ông Nguyễn Văn Nhã bị bọn Cộng Sản bắt giam ở khu vực núi Bà 10 năm, cho đến năm 1985 mới được thả)
Chúng tôi đã tường trình trong một bài viết trước đây trên Phượng Hoàng về cái chết của Trung Tướng Nguyễn Văn Thành. Chúng đã ám sát ngay phía sau phòng ngủ, trong nội ô Tòa Thánh, vì chúng cho rằng những người này là người của CIA, gây khó khăn cho bọn TƯC trong việc khống chế Đạo Cao Đài. (Qua những tin tức khác nhận được, không phải Trung Ương Cục chỉ thị cho Riêng X.92 mà Huyện Ủy Tòa Thánh của Việt cộng cũng được chỉ thị tương tợ, vì chúng tôi có được một Tình Báo viên hoạt động trong Huyện Ủy này). Trung Tướng Cao Đài Nguyễn Văn Thành bị giết vào ngày 22 tháng 11 năm 1972 (16 tháng 10 Âm Lịch)
- Dù đang dịnh cư tại Tây Ninh, nhưng Võ Văn Ba vẫn được bọn Trung Ương Cục bí mật liên lạc để chỉ thị công tác cũng như mời tham dự các cuộc họp ở phía Bắc Núi, nơi cứ địa của Mặt Trận Giải Phóng. Điều nên biết thêm, mỗi lần đi họp như vậy, có cả các cấp Ủy, như Tỉnh, Huyện, Xã... Võ Văn Ba được sắp xếp cho ngồi phía trước, ở một vị trí được che kín (những người ngồi phía sau không thấy được).
Theo hồ sơ tuyển mộ của ngành Đặc Biệt Tỉnh Tây Ninh, sau một thời gian ngắn khi đến Tây Ninh lập nghiệp, Võ Văn Ba đang đứng trước ngả ba đường: bọn Việt Cộng vẫn cho người đến để móc nối và thường xuyên đe đọa, nếu Ba từ chối hoặc phản bội, bọn chúng sẽ tố cáo Ba trước kia hoạt động cho Cộng Sản ở Kiến Tường, với cấp đảng là... thuộc tổ chức ..v.v... Đó là lý do mà Ba phải nhờ một người chú họ, giới thiệu cho Ty Cảnh Sát và được tuyển mộ làm “nhân viên ngoại vi”.
Ngành Đặc Biệt Tây Ninh tuyển mộ được 3 nhân viên ngoại vi và cả 3 người này đều đã đem lại thành quả, như sau:
a. Anh Đ. V. N.: Sau này trở thành công tác X.45, đã phá vở ổ Việt cộng ở Làng Cô Nhi Long Thành năm 1973 sau cuộc bố ráp do sự phối hợp của E. Công Tác (BTL) và ngành Đặc Biệt Tỉnh Gia Định.
b. Anh Ng. T.T: sau này trở thành công tác Y.80, đã phá vở tổ chức Y.4 của Việt Cộng và bắt được chủ nhà hàng Thanh Bạch, tọa lạc trên đường Lê Lợi, gần bệnh viện Sài-gòn năm 1974. Sau năm 1975, anh T. bị bắt và bị di tù tận ngoài Bắc với tôi và được thả sau hơn 10 năm.
c. và Võ Văn Ba ...
Khi nhận làm nhân viên ngoại vi, chỉ là hình thức một cái nón che thân, vì Ba biết không thể nào thoát được sự bám sát và đe dọa của Việt cộng, nhưng nếu Quốc Gia biết được cũng phải bị bắt.
Từ hình thức mượn cách để che thân, dần dần Ba thấy được cái dã tâm của Việt Cộng từ ngày chúng du nhập vào Việt Nam. Trong những dịp có thời giờ tiếp xúc với Ba, anh thường than thở, kiểm điểm lại những gì mình đã làm khi theo bọn chúng từ ở vùng quê Kiến Tường cho đến sau này, chỉ là cướp của, giết người, kể cả những người dân vô tội. Muốn cho dân sợ để theo, để "ủng hộ" cách mạng, chỉ có cách là phải "giết"! Cuối cùng, anh than rằng: "Chỉ những người không lương thiện, không có cái tâm, mới theo tụi nó".
Khi anh đã nghĩ như vậy, mới nảy sinh ra một việc mà chúng tôi phải giải quyết. Anh có người con trai, tên Võ T.D, đậu Tú Tài I năm 1971, nhưng rớt Tú Tài II liền 2 năm sau đó, trong khi đã hết hạn hoản dịch vì lý do học vấn, vì lứa tuổi đang thuộc về “tài nguyên của trường Bộ Binh Thủ Đức”. Nếu cho con gia nhập trường Thủ Đức, chắc chắn anh sẽ bị hạ tầng công tác, đương nhiên việc hợp tác với Quốc gia sẽ không còn hữu hiệu nữa, đôi khi còn gặp rắc rối sau này. Ngược lại, nếu anh cho con theo Việt Cộng, điều mà anh không bao giờ muốn vì anh đã trải qua gần hết cuộc đời cho chúng.
Sau đó chúng tôi về gặp Đại Tá Huỳnh Thới Tây, Phụ Tá Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh CSQG để trình bày sự việc.
Chỉ hơn 1 tuần sau, tôi được gọi về gặp Ông, để nhận giấy hoản dịch tiếp cho VT.D. Khi đó tôi mới biết, Đại Tá Tây lên gặp Thiếu Tướng Tư Lệnh, và với sự yêu cầu của BTL/CSQG, Nha Động Viên (mà Giám Đốc lúc bấy giờ là Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm), đã ký giấy hoản dịch này.
Những thắc mắc về nhân vật này dần dần được giải tỏa. Và cũng từ đó, việc bảo vệ an toàn cho công tác phải được quan tâm hơn nữa.
Liền sau đó, chúng tôi đã đổi bí số công tác, từ X.54 (năm 1970), thành X.69 với bí danh là Rạng Đông (năm 1972), cho đến 1974 được đổi thành X.92 với bí danh là Bảo Quốc. Từ nay chúng tôi chỉ dùng bí số X.92 để viết về công tác này, giúp cho người đọc hiểu dễ dàng hơn.
Tiếp theo đây, chúng tôi trình bày một số chi tiết trong việc điều hành Công Tác X.92, cũng là kết quả thỏa thuận với Võ Văn Ba trong chuyến đi đó cũng như những lần gặp gỡ sau đó:
1. HỆ THỐNG GIAO LIÊN
Với loại công tác như X.92, việc an toàn luôn là nhiệm vụ hàng đầu không thể sơ xuất bất cứ lý đo gì. Trong việc liên lạc, chúng tôi đã xử dụng:
a. Hệ thống máy liên lạc: Đó là loại phone không có dây (như loại Walkie Talkie bây giờ). Máy chỉ mở trong những giờ giấc đã ấn định và không được chuyện trò hơn 1 phút. Trong một phút đó, chỉ để biết sẽ phải làm gì, như đến nhận thư ở hộp thư số..., đến nhà an toàn số ..., hoặc sẽ đi công tác trong mấy ngày....
b. Hộp thơ chết: Có tất cả 3 hộp thư chết, hai đặt trong còng nội ô Tòa Thánh và 1 đặt bên ngoài, gần Tỉnh lỵ.
c. Hộp thơ lưu động: Phương tiện vận chuyện thông dụng của dân Tây Ninh là xe lôi. Xe lôi có nhiều thứ, nhất là các loại xe: Honda, Suzuki, Yamaha. v.v.. Chiếc xe này được gắn số ẩn tế, hay nói đúng hơn là số giả. Mỗi lần anh tài xế (là nhân viên Đặc Nhiệm) có lệnh đi công tác, là phải lo đổi số xe khác và phải lo gắn cái nóc xe để sẽ có 2 nữ hành khách là 2 học sinh, xách 2 cái cập giống nhau, sẽ đón xe tại những ngả đường khác nhau. Khi đến đoạn đường nào đó sẽ lần lượt xuống xe, kẻ trước người sau, sau khi đã đổi cập cho nhau. Loại lưu động này chúng tôi thường xử dụng, sau mỗi lần X.92 đi công tác hoặc đi họp ở T.Ư.C về, viết báo cáo xong và bấm máy liên lạc 1,2,3. Trên đường trở về, khi đến đoạn đường nào đó, Cán Bộ Điều Khiển ra nhận, bọc kín cập sách lại và mang vào văn phòng để lấy tài liệu hoặc báo cáo...
d. Nhà an toàn: Đương nhiên, nhu cầu này chỉ là một đề tài mà bất cứ người trong ngành đều được biết và đều phải làm. Riêng với X.92 chúng tôi có 2 cái, ở vùng Long Hoa và ở gần tỉnh lỵ.
2. NHỮNG THÔNG DỊCH VIÊN
Cố vấn Cảnh Sát Đặc Biệt tại Tây Ninh có ít nhất là 3 hay 4 thông dịch viên Việt Nam, vì công tác ở Tây Ninh khá nhiều, không chỉ ở cấp Tỉnh mà ở các Quận cũng có những Tình Báo Viên hoặc Mật Báo Viên. Riêng công tác X.92 chỉ có một thông dịch viên, không kiêm nhiệm bất cứ công tác nào khác, mà chúng tôi và cố vấn Mỹ đồng ý với những điều kiện như sau:
- Không phải là người của Tây Ninh
- Không có bà con thân thuộc, là người đang sinh sống tại Tây Ninh.
Suốt hơn 4 năm phục vụ ở Tây Ninh, tôi được gần gũi với 3 thông dịch viên (cho riêng công tác X.92)
- Nguyễn Sĩ Phong
- Nguyễn Cao Quang
- Nguyễn Thanh Trang
Trường hợp Nguyễn Sĩ Phong (không phải Nguyễn văn Phong) đã đến Tây Ninh trước tôi, khoảng năm 1969. Phong người miền Bắc, nhỏ con, tương đối nhanh nhẹn thi hành những công tác được giao phó, nhất là dịch những báo cáo của X.92 sau mỗi lần đi họp ở Trung Ương Cục về, có khi phải thức cả đêm, vì ngoài báo cáo viết tay, còn có cả tài liệu của Trung Ương Đảng phổ biến xuống (đôi khi vài ba chục trang giấy)
Đến năm 1972, Phong có quen với một phụ nữ là dân đang sinh sống với gia đình ở Tây Ninh và định lập gia đình với người này. Trong những ngày đầu, khi Phong cùng đi chơi, ăn uống với phụ nữ này, chúng tôi đã được báo cáo và đã cho bí mật điều tra về họ. Rất may, gia đình này thuộc loại tốt, có thể tin cậy được. Tuy nhiên, khi thảo luận với cố vấn Mỹ, phía Mỹ yêu cầu tôi giữ kín quyết định để họ sắp xếp cho yên, vì nếu bị bất mãn, Phong có thể “hy sinh” X.92 dưới bất cứ hình thức nào mà anh ta có thể làm được.
Cuối cùng, chúng tôi được dự một bữa tiệc để tiễn Phong đi phục vụ tại Tổng lãnh sự vùng II (Văn Phòng Cố Vấn CIA), nghĩa là được thăng chức! (từ cấp Tỉnh lên cấp Vùng).
Từ đó, công tác X.92 vẫn được tiếp tục an toàn cho đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, đích thân tôi và Trưởng G. Công Tác mang tất cả những hồ sơ tình báo (từ hồ sơ tuyển mộ, hồ sơ công tác v.v... mang vào sân của Trung Tâm Thẩm Vấn để đốt và vất tro xuống giếng).
Đến 9 giờ tối ngày 30 tháng 4, tôi và vợ tôi (Đại Úy Cảnh Sát), bị bắt bên trong tòa Thánh Cao Đài và bị giam vào xà lim từ đó. Thời gian sau, vợ tôi bị đưa lên trại tù Cây Cầy, trong khu rừng “Chiến Khu D”, còn tôi bị đưa ra Bắc, đến 1988 chuyển về Nam và được thả ngày 29 tháng 4 năm 1992
Khi đang bị giam ở xà lim Tỉnh, khoảng ngày 4 hay 5 tháng 5/ 1975, tôi được gọi lên gặp cán bộ của bộ Nội Vụ VC tại văn phòng của Trưởng Ty Công An VC tỉnh Tây Ninh. Điều đầu tiên hắn ta hỏi là tôi có nhớ gì về tên Võ Văn Ba và tại sao tôi ra lệnh đốt tất cả hồ sơ của G. Công Tác v.v...?
Tôi chỉ trả lời, việc đốt chỉ là nguyên tắc khi thấy tình hình không được an toàn, hoặc nếu chính phủ VNCH ra lệnh di tản, chúng tôi cũng phải đốt trước khi đi. Kể từ đó, gần như ngày nào tôi cũng phải lên “làm việc” với tên cán bộ này và đến lúc đó, tôi được biết Võ Văn Ba cũng đã bị bắt sau tôi một vài ngày.
Theo phần thuyết trình của Merle Pribbenow, tôi mới biết Nguyễn Sĩ Phong cũng đã bị bắt tại Ban Mê Thuột vào tháng 3 năm 1975, cho tới ngày tôi gặp được Merle Pribbenow tại Hoa Thịnh Đốn vào đầu năm 2010, cùng những tin tức về cái chết của Nguyễn Sĩ Phong vào năm 1980.
Sau đó các anh Quang và Trang tiếp nối cho đến ngày 23 tháng 4 năm 1975 thì chuyển hết về Vùng III Biên Hòa.
Cần nói thêm về các cố vấn Mỹ. Khoảng năm 1974, tất cả các cố vấn Mỹ ở các Tỉnh đều phải rút hết về các Vùng. Khi có công tác hay trao đổi việc gì, sẽ hẹn gặp nhau mà không còn ở lại địa phương như trước kia. Riêng tại Tây Ninh, các cố vấn này, kể cả anh Nguyễn Thanh Trang, phải ở lại Tây Ninh cho đến ngày 23 tháng 4 năm 1975 mới rút đi và người cố vấn sau cùng đó là John R. Stockwell (hiện đang sống ở TB Texas).
Trong bài này, các Cố Vấn không phải là đề tài chính, nên tôi chỉ sơ qua về Mr John R. Stockwell.
Khi qua tới Hoa Kỳ năm 1995, tôi mới biết cấp bậc của John. R. Stockwell là Đại Tá. Khi rời Tây Ninh về Vùng III Biên Hòa, làm Chỉ Huy Trưởng công tác di tản các Cố Vấn cũng như các lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng III trở về Hoa kỳ, vì Hoa kỳ đã bỏ Việt Nam! Trước khi rời Tây Ninh, vào sáng ngày 23 tháng 4 năm 1975, R. Stockwell có đến gặp tôi tại văn phòng và yêu cầu tôi cùng bà xã rời Việt Nam ngay hôm đó, vì phi cơ đang chờ vợ chồng tôi tại phi trường Tỉnh Lỵ. Nhưng tôi có 2 lý do để từ chối đề nghị này:
- Tôi còn 2 đứa con đang gởi Ông Bà ngoại chúng ở Long An, (vì từ những năm 1973 đến 1975, Tây Ninh thường bị pháo kích, bất kể ngày đêm), nên tôi không thể nào bỏ chúng lại mà đi, dù chưa nói cho vợ tôi biết, nhưng tôi biết chắc vợ tôi cũng sẽ có quyết định như vậy.
- Tôi không thể bỏ anh em đã gần 5 năm trời cùng chết sống với tôi trong nhiều công tác khó nhọc, không hề đắn đo, lo sợ sự nguy hiểm trước mắt.
Tôi chỉ nói lời cám ơn và chấp nhận số phận nếu đất nước có ra sao thì ra! R. Stockwell đứng im lặng một chút, sau đó đến xiết tay tôi và “Say Goodbye!”. Khi qua Mỹ năm 1995, tôi có liên lạc với một số người làm việc ở văn phòng cố vấn Hoa Kỳ khi xưa và tôi mới biết anh ta đã bất mãn khi Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam. Anh đã viết sách, nhưng không được xuất bản bởi lệnh của CIA ! (Có thể kiểm chứng qua những Youtube trong những cuộc thảo luận về “Những Cuộc Chiến Do CIA Tạo Ra Trên Thế Giới).
3. HOẠT ĐỘNG
Không kể những báo cáo tin tức về công tác, về tình hình trong khu vực trách nhiệm, về những chỉ thị của bọn Trung Ương Cục (TƯC)..., chúng tôi đã kịp báo về Khối Đặc biệt trong thời gian ngắn nhất. Có những tin tức cấp bách, chỉ trong vòng một hay hai giờ đồng hồ là có phi cơ từ Sàigòn xuống chuyển về Khối (có khi tôi hoặc Cán Bộ điều khiển đính thân mang đi), còn phần cố vấn Hoa Kỳ, cũng nhận bản sao của báo cáo đó để chuyển cho Tòa Đại Sứ. Trong số đó, nếu có những tin tức liên quan đến địa phương, tôi đến báo trực tiếp cho Tỉnh Trưởng để liệu cách đối phó.
Tin chiến thuật gần như X.92 đã đáp ứng hầu hết mọi nhu cầu cho địa phương cũng như cho khắp các vùng lãnh thổ khác của miền Nam. Tuy nhiên những công tác có tính lịch sử, tôi xin được trình bày chi tiết đôi chút.
a. Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa”
Khi cũng cố lại lực lượng sau thất bại thảm hại trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Cộng Quân quyết định giải quyết cuộc chiến bằng quân sự, hơn là bằng Hội nghị 4 Bên. Song song đó, phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ đã và đang bành trướng mạnh, ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định của Quốc Hội cho sự tiếp tục yểm trợ miền Nam, như lời hứa của các vị Tổng Thống...
Vào tháng 12 năm 1971, X.92 được lệnh vào họp khẩn cấp tại khu vực rừng rậm mà TƯC đang trú đóng. Trong cuộc họp đó, X.92 được chỉ thị phải về họp gấp các Chi Bộ để phổ biến lệnh của Bộ Chính Trị là phải đánh chiếm cho bằng được Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh thuộc Quận Phú Khương, để mặc cả với chính phủ VNCH trên bàn Hội Nghị tại Ba Lê. Bên ngoài thì xử dụng quân sự đánh vào, bên trong X.92 phải xách động tín đồ biểu tình, phản đối, yêu cầu chính phủ VNCH ngưng xử dụng vũ khí, sợ làm hư hại Tòa Thánh và làm chết tìn đồ.
Khi báo cáo này được đưa về Sàigòn, qua sự trình bày của Tỉnh Trưởng Tây Ninh, Đại Tá Lê Văn Thiện, lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, phải bảo vệ Tây Ninh và Tòa Thánh Cao Đài bằng mọi giá.
Từ đó, có những cuộc họp liên tục với quý vị: Tư Lệnh Quân Đoàn, Tư Lệnh Sư Đoàn 25, Tỉnh Trưởng cũng như các đơn vị trực thuộc trong tỉnh Tây Ninh. Vài hôm sau, các đơn vị Công Binh, Pháo binh ...được lệnh đào giao thông hào toàn khu vực phí Bắc, để VC không xử dụng xe thiết giáp được. Giao thông hào chạy dài từ căn cứ Trảng Lớn, qua phía Bắc Tỉnh Lỵ đến giáp ranh với Quốc Lộ 22 (khu vực Ngã Ba Giang Tân).
Vì thời gian sau này, bọn VC đã xử dụng xe thiết giáp để chuyển quân cũng như để tấn công các vị trí của VNCH, nên việc đào giao thông hào chỉ là cái vỏ bọc ngoài, là hình thức, còn thật sự là lắp đặt các hệ thống mìn đủ các loại. Vào ban đêm, phi cơ từ Biên Hòa hoặc Sài-gòn thay phiên bay thám sát vùng phía Bắc Tỉnh lỵ, kể cả phần núi Bà Đen, cách tình lỵ 12 cây số.
Trong khi đó, trong khu rừng phía Bắc, đơn vị Biệt Kích 81 vẫn ngày đêm bám sát mọi hoạt động của các đơn vị Việt Cộng, kể cả phần ranh giới với Kampuchia phía Tây Nam, bên kia bờ sông Vàm Cỏ Đông.
Đến khoảng đầu tháng 4 năm 1972, lúc 2 giờ sáng, những tiếng nỗ đồng loạt vang rền, kể cả tiếng pháo kích của địch quân, dọc suốt phía Bắc vào Tỉnh lỵ. Vì mấy chiếc pháo đặt ở khá xa, nên chỉ rơi vào một ít khu vực của dân phía ngoài tỉnh, tổn thất không đáng kể.
Lúc đó chúng tôi đang ở hầm Chỉ Huy của Tỉnh Trưởng, Đại Tá Lê Văn Thiện, đang thay phiên nhau theo dõi báo cáo của các đơn vị dọc tuyến phòng thủ cũng như ở các Quận gọi về. Các nơi cho biết, địch quân chỉ xử dụng bộ binh mà không thấy xe thiết giáp, nên khi bọn chúng đến gần các giao thông hào, anh em tại các đơn vị chỉ việc “bấm mìn” ...
Có lẽ, vì các phi cơ thay phiên nhau bay liên tục, nên bọn VC không dám chuyển quân bằng xe, kể cả thiết giáp, vì ở Tây Ninh, đa số là rừng cao su, dễ bị phi cơ phát giác.
Khoảng gần 5 giờ khuya hôm đó, tiếng súng thưa dần và im bặt trước khi trời sáng. Sáng hôm sau, các đơn vị báo về, dọc giao thông hào phía Bắc, đầy vết máu của VC và còn một số xác chưa kịp mang đi...
Chỉ 3 hay 4 hôm sau, trận chiến ở Lộc Ninh đã nổ ra, quốc lộ 13 đã bị cắt hoàn toàn và An Lộc đã bị cô lập...
Có lẽ, sự chuẩn bị cho Tây Ninh quá kỹ, dựa theo tin tức của X.92, nên đã cứu được Tây Ninh và Tòa Thánh Cao Đài, thay vì Bình Long phải gánh chịu trong vài ngày sau đó....
Trong những lần gặp và thảo luận với Frank Snepp sau đó, chúng tôi có đồng kết luận về trận chiến Mùa Hè 1972 tại khu vực miền Nam:
1. Qua tin tức của X.92 lúc ban đầu, Cộng quân sẽ đánh Tây Ninh bằng mọi giá, chỉ là tin “phịa”, trong khi chúng đang dồn mọi nỗ lực để đánh An Lộc. Đó là lý do mà chỉ trong một thời gian ngắn, An Lộc đã bị cô lập hoàn toàn. Cho đến khi giải tỏa, Quân ta đã phải tốn khá nhiều để tái chiếm, nhất là Lực Lượng Biệt Cách Dù 81.
2. Vì sự chuẩn bị cho Tây Ninh quá kỹ, trong khi Cộng quân chỉ có thể tập trung ở phía Bắc, cách Tỉnh lỵ hơn 10 Km, trong vùng Chiến Khu D, chạy dài đến biên giới Kampuchia, nên bộ binh VC khi tấn công vào đã bị tổn thất khá nặng với hệ thống giao thông hào mới đào chằng chịt, đầy mìn bẫy. Đó là lý do mà chúng đành phải rút trở lên hướng Đông Bắc để đánh vào Bình Long như đã xảy ra.
b. Hiệp Định Paris 1973
“Hòa Đàm Ba-Lê” vẫn đang tiếp diễn tại Paris, với 4 bên: VNCH, Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng và Hoa Kỳ. Đến giữa tháng 10 năm 1972, sau khi tham dự cuộc họp với T.Ư.C về, X.92 gọi máy khẩn cấp và hẹn hôm sau sẽ sắp xếp cho “Xe Lưu Động” chạy theo lộ trình a, b, c...
Khi nhận và mở cặp sách ra, trong đó có một Nghị Quyết của Bộ Chính Trị ở Hà Nội (bản sao) và một báo cáo chi tiết để thi hành của T.Ư.C, cho biết Hiệp Ước Ba-Lê sẽ được ký kết vào ngày 30 tháng 10 năm 1972, trong đó, có một điều khoản rất quan trọng là Hoa Kỳ và VNCH đã chấp nhận sự hiện hữu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong phần lãnh thổ phía Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Phần chỉ thị của T.Ư.C là các nơi phải dốc toàn lực để “giành dân lấn đất” từ ngày 27 tháng 10 năm 1972 và phần “giành giựt” này sẽ được Hiệp Định hợp thức hóa sau đó vào ngày 30.
Tôi liên lạc ngay với cố vấn Hoa Kỳ và yêu cầu cho một phi cơ để mang tài liệu về Bộ Tư Lệnh. Song song đó, tôi đã gọi máy SA.100 cho Đại Tá Trưởng Khối Đặc Biệt để trình bày sự việc và hẹn 2 tiếng sau, tôi sẽ mang báo cáo về Khối. Phía cố vấn Hoa Kỳ, tôi copy cho một bản sao để chuyển về Tòa Đại Sứ Sài-gòn cùng một chuyến phi cơ.
Khi lên gặp Đại Tá Trưởng Khối Đặc Biệt, tôi trình bày thêm những sự kiên liên quan đến chuyến đi họp trong vùng chiến khu D của X.92 mà bọn TƯC đã chỉ thị là phải đi họp đúng ngày giờ và không được vắng mặt, vì bất cứ lý do gì....
Trước khi ra phi trường TSN trở về Tây Ninh, tôi chỉ nghe Đại Tá Trưởng Khối bảo: “Việt cộng chỉ là một bọn ăn cướp và tụi Mỹ là tụi xỏ lá...”!
Đến ngày 30 tháng 10, không thấy chính phủ chỉ thị hay thông báo gì về việc ký kết Hiệp Định và phía VNCH lúc nào cũng phải chuẩn bị những sự tấn công có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu...
Khoảng 10 ngày trước mùa Giáng Sinh năm 1972, tất cả hệ thống thông tin, như tivi, radio khắp miền Nam đều báo tin Mỹ đã đem B.52 ra dội bom ở ngay Hà Nội để làm áp lực bọn cộng sản Bắc Việt và bọn Giải Phóng phải rút khỏi miền Nam, đó là điều kiện tiên quyết mà Hội Nghi Paris đưa ra theo yêu cầu của Chính Phủ VNCH.
Sau vụ dội B52 ở Hà Nội, trong lần gặp Đại Tá Trưởng Khối vài ngày sau đó, ông chỉ cho tôi biết là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi đọc được báo cáo từ Bộ Tư Lệnh CSQG, do Tư Lệnh Nguyễn Khắc Bình trao tay, đã mời Đại Sứ Hoa Kỳ đến để “hạch hỏi” những sự việc liên quan cũng như tại sao Hoa Kỳ lại “qua mặt” VNCH? Lời dọa cuối cùng của Tổng Thống VNCH là sẽ triệu hồi phái đoàn của VNCH tại hòa đàm Ba-Lê về nước.
Sự “đi đêm” của Hoa Kỳ với Bắc Việt không đạt được kết quả, vì bị VNCH phản đối quyết liệt, nên Hoa kỳ đành phải đem B.52 ra Hà Nội và cuối cùng Bắc Việt chấp nhận điều kiện của VNCH và cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1973 hòa đàm mới được ký kết.
Tuy nhiên, những bài học của chúng ta đối với bọn Cộng Sản ít ai quên, nên trước ngày ký kết Hiệp Định đó, không riêng gì ở Tây Ninh mà tất cả các tỉnh khác, kể cả Sài-gòn đều nhận được lệnh là phải chuẩn bị đối phó trong cuộc chiến mới gọi là “giành dân- lấn đất” ngay ngày Hiệp Định có hiệu lực.
Vào hơn nửa đêm 26 rạng 27 tháng 1 năm 1973, tiếng súng đã nổ khắp nơi. Có vài Tỉnh, vài địa phương phải kéo dài đến 3 hay 4 hôm sau mới chấm dứt.
Kiểm điểm lại, bọn Việt cộng đánh tới đâu là nhận lấy thất bại tới đó, chẵng những không giành được dân, không lấn được đất mà các đơn vị, các tổ chức của chúng càng bị co cụm hơn trước kia.
c. Nghị Quyết 24 Bộ Chính Trị tháng 1/1975
Cuộc chiến Việt Nam, có hay không có Hiệp Định Ba-Lê, cũng tiếp diễn như mọi ngày. Nó chỉ là cái cớ cho Hoa Kỳ bắt đầu rút các đơn vị về nước, trước sự quan tâm của thế giới và làm thỏa lòng bọn phản chiến ngày càng gây bao khó khăn cho chính phủ.
Đến đầu năm 1975, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, người chiến Sĩ VNCH đã phải đối đầu với sự thiếu thốn trăm bề, kể cả đạn dược, và ít ai có thể nghĩ đã kéo dài qua đến năm 1975!
Sau cuộc rút bỏ ở miền Trung vào tháng 3, X.92 phải đi họp liên tục ở TƯC, để nhận những chỉ thị trong việc yêu cầu những cơ sở địa phương đánh vào các kho nhiên liệu, các đơn vị nhỏ như cấp xã, quận v.v..., trong khi đó các đơn vị chính quy sẽ xử dụng tối đa pháo binh và xe thiết giáp để tấn công những mục tiêu chiến lược mà chúng cảm thấy cần thiết. Chúng cho rằng đã đến lúc phải dứt điểm bằng quân sự. Chúng chỉ ra chỉ thị tổng quát mà không có một kế hoạch cụ thể để thi hành. X.92 chỉ báo cáo mà không đưa ra được một yêu cầu nào để thực hiện.
Đến tháng 4/1975, X.92 mang về toàn bộ nghị quyết 24 của Bộ Chính Trị và TƯC biến thành Nghị Quyết 12. Chính hai nghị quyết này, khi được đưa đến tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Ông đã triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia nhiều lần để tìm cách đối phó.
Sau này tôi mới biết ít nhiều về phản ứng của Tổng Thống Thiệu, vì nhân chứng sống, là Tổng Thư Ký trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, là Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia.
Trong Nghị Quyết 24 (hay 12 của TƯC) đã phân tích tình trạng thiếu thốn của VNCH đủ mọi mặt, trong đó bọn Cộng Sản đã đưa ra một kế hoạch tăng cường quân sự để bao vây Sài-gòn sau khi chúng đã “được cho không” vùng đất phía Bắc của Vùng I và II hai tháng trước đó.
Người lính chiến phải tiết kiệm từng viên đạn, từng lít xăng v.v..., kèm theo là sự đe dọa, ép buộc của phía Hoa Kỳ, để yêu cầu Tổng Thống Thiệu từ chức. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng vẫn trả lời là VNCH sẽ đánh cho đến “viên đạn sau cùng”.
Trước thực trạng này, bọn cộng sản Hà Nội đã tìm mọi cách đi đêm với Hoa Kỳ để tìm người thay thế cho bằng được TT. Nguyễn Văn Thiệu, sau khi đã cho Hoa Kỳ nhận món quà mà cả nước đang mong đợi: trao trả tù binh do Bắc việt giam giữ theo tinh thần Hiệp Định Ba-Lê đã ký kết.
Cuối cùng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, sau khi gánh chịu áp lực tứ bề, đã phải từ chức, giao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương và ... cho đến trưa 30 tháng 4/1975, Ông Dương Văn Minh đã giao đất nước cho Cộng Sản.
Những gì xảy ra tiếp theo đó, hoàn toàn ngoài những gì mà tôi biết được qua 2 Nghị Quyết đó, cũng như những nhân vật lãnh đạo tiếp nối cũng không được đề cập đến.
d. Nhân vật Út Tặng
Trong phần trên, Merle Pribbenow có đề cập đến sự nghi ngờ của bọn chúng về các cơ sở đang hoạt động, vì những gì chúng định làm mình đã biết trước, gây cho chúng những tổn thất không nhỏ. Sau đó chúng cho người ra điều tra.
Đến cuối năm 1971, qua một công tác xâm nhập khác, phạm vi hoạt động trong Quận Phú Khương, tên Ba Dừa, bí thư và tên Tư Tịnh, Chủ Tịch Huyện, (chúng gọi là Huyện Ủy Tòa Thánh), đã chỉ thị cho một nữ cán bộ hợp pháp ra sinh sống trong khu vực chợ Long Hoa (gần nhà X.92), giả dạng dân buôn bán hàng rong và tìm cách theo dõi X.92.
Qua báo cáo, tôi được biết y thị này là một cựu tù nhân chính trị, tên là Nguyễn Thị Xe, bí danh là Út Tặng. Trước đây đã bị Cảnh Sát Đặc Biệt bắt và Ủy Ban An Ninh Tỉnh quyết định cho an trí 3 năm. Y thị được thả năm 1971 và tái hoạt động ngay sau đó.
Do công tác yêu cầu, hàng ngày Út Tặng đạp xe đạp, chở rau cải, trái cây v.v... ra chợ bán, đến trưa đi lòng vòng theo dõi tình hình và tối về đi báo cáo hoặc thi hành những chỉ thị nào khác.
Sau cuộc gặp gỡ với X.92 tại nhà an toàn, X.92 cho biết y thị rất hăng say và rất nguy hiểm đối với các cơ sở hợp pháp. Dù là cấp Quận, nhưng trong vài lần họp ở mật khu, X.92 thấy có sự tham gia của y thị.
Chỉ 2 ngày sau, chúng tôi đã bí mật bắt cóc Út Tặng ngay trên đường từ Xã Ninh Thạnh đi ra chợ Long Hoa và biệt giam từ đó. Hôm sau, tôi báo về Khối Đặc Biệt và được lệnh chúng tôi phải mang về cơ quan D.6 giữ y thị cho đến ngày 30 tháng 4/1975.
Việc bắt giữ Út Tặng, chúng tôi hoàn toàn không cho X.92 biết, để X.92 luôn phải đề phòng trong mọi công tác và cũng để X.92 không phải lo âu về sự an toàn của mình. Khoảng hơn 1 năm sau, X.92 mới được TƯC cho biết là Út Tặng đã bị bắt mất tích, nhưng không được cho biết thêm chi tiết nào khác. Bọn chúng có nhờ X.92 dò xem Út Tặng hiện bị giam giữ ở đâu và còn sống hay đã chết.
e. Công tác “ngoại vi”
Sở dĩ gọi là ngoại vi, vì các công tác này do chúng tôi thực hiện theo sự yêu cầu của bọn Cộng sản, từ cấp TƯC, Tỉnh Ủy ... và Huyện Ủy chỉ thị cho X.92 phải làm:
- Rãi truyền đơn: Thường bọn chúng chỉ thị cho X.92 phải tìm cách rãi truyền đơn lên án các chức sắc trong Hội Thánh Cao Đài vì đa số các vị này tìm cách loại những thanh niên trốn quân dịch vào ẩn trốn trong Nội Ô. Tuy nhiên, trong số thanh niên trốn quân dịch này, cũng có vài người do mình tổ chức để theo dõi bọn cộng sản có thể trà trộn để phá hoại.
Mỗi lần rãi truyền đơn, thường là vào những ngày Lễ Vía trong Đạo, nên anh em Cảnh Sát Đặc Biệt phải mặc Đạo Phục với áo dài trắng hiện diện khắp các cơ quan trong Nội Ô. Trong khi đó, người rãi truyền đơn cũng là một nhân viên Cảnh Sát, chỉ rãi theo một lộ trình đã được ấn định (nhưng đi bằng xe gắn máy để chạy trốn cho nhanh). Sau đó, có một số anh em “đạo hữu” đi nhặt tất cả những truyền đơn này, mang về Bộ Chỉ Huy tỉnh để báo cáo lên Tỉnh, Khu và Bộ Tư Lệnh.
- Đặt chất nổ: Ở Tây Ninh, các tổ chức Nhân Dân Tự Vệ được tổ chức canh gác rất chặt chẽ trên những nẽo đường dẫn về Tỉnh Lỵ, nhất là khu vực giáp ranh giữa Tòa Thánh và Tỉnh lỵ (Xã Hiệp Ninh và Thái hiệp Thạnh), cách nhau 7 Km.
Trong các trạm gác đó, bọn cộng sản chỉ thị cho X.92 phải phá sập bằng được trạm ranh Xã Hiệp Ninh và trạm ở ngả ba Giang Tân. Hai trạm này đã gây trở ngại cho chúng khi muốn xâm nhập vào vùng trong, nhất là chúng không dám di chuyển vào ban đêm.
Sau khi trình bày sự việc với Tỉnh Trưởng và với Cố Vấn Hoa Kỳ, Tỉnh đồng ý cho đánh chất nổ, nhưng tránh gây thương tích cho dân cũng như anh em Nhân Dân Tự Vệ ở đó. Phần còn lại, Cố Vấn Hoa Kỳ sẽ lo mọi chi phí để xây lại các trạm này, tiền sẽ đưa trực tiếp cho Tỉnh trưởng mà không qua trung gian của bất cứ Ty Sở nào trong Tỉnh.
Cái khó mà vui nhất là anh em Cảnh Sát phải đến rủ rê mấy tay Nhân Dân Tự Vệ đi nhậu ở một quán nào gần đó và phải xử dụng loại mìn hoặc chất nố của tụi Việt Cộng mà mình tịch thu được trong các cuộc hành quân trước đó.
Sau khi đặt chất nổ xong, Tỉnh Trưởng làm giấy khiển trách những người có trách nhiệm, từ cấp Ấp, cấp Xã cho đến cập Quận....
4. SỐ PHẬN
a. Truy tìm kẻ nội gián: Trong phần thuyết trình của Merle Pribbenow, có đề cập đến việc truy tìm kẻ nội gián trong chính quyền miền Nam mà bọn Cộng Sản đã xử dụng tên Nguyễn Văn Tá (bí danh Ba Quốc), tên nội tuyến trong Phủ Đặc Ủy.
Sau khi tìm hiểu với những người liên quan, được biết tên Ba Quốc chỉ là “tép riu” trong PĐU, làm gì có quyền đi từ phòng này sang phòng khác để tìm cách xâm nhập, mở khóa tủ v.v... Khi bị lộ và phải chạy trốn, Ba Quốc phải báo cáo để lập công hầu bọn cộng sản còn tiếp tục cho mấy đoạn giao thông hào hoặc một khu rừng nào đó để vun thân.
Cũng có nguồn tin cho rằng khi bọn Cộng Sản chiếm được văn phòng của Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình ở Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, phải nói rõ là phải sau ngày 30 tháng 4 mà không phải là 29 tháng 4/1975, tên Viễn Chi, Cục Trưởng Tình Báo của Bộ Công An Bắc Việt, đã tìm thấy hồ sơ của Võ Văn Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc Bình. Đây là sự “bịa chuyện cho vui”.
Trong việc bảo mật hồ sơ, từ của các Cảm Tình Viên, Mật Báo Viên cho đến Tình Báo Viên, chỉ có các địa phương tuyển mộ mới giữ những hồ sơ này, với đầy đủ lý lịch và các mẫu ĐV(từ ĐV.1 đến ĐV.16). Kế đến là E.Điều Hành Khối Đặc Biệt, nhưng chỉ giữ các Mẫu ĐV với Bí Số của các nguồn tin cùng với bản sao các Báo Cáo định kỳ cũng như bất thường, mà không giữ hồ sơ tuyển mộ. Trong các báo cáo, nguồn tin chỉ ghi và ký tên bằng bí số đã được cho.
Điều Hành là cơ quan phối hợp, theo dõi, phối kiểm mọi hoạt động của các nguồn tin tình báo trên toàn quốc, để:
- Tránh sự lợi dụng và đánh lừa tin tức vì mục đích cá nhân. Có thể một người đang cộng tác với 2 hay 3 cơ quan khác nhau, sẽ sanh ra những hệ luy khó kiểm soát và đánh giá sai lệch của các cơ quan anh ninh.
- Tránh những tin ngụy tạo có thể gây nguy hiểm khi mang ra khai thác,
- Tránh những nguồn tin “hai mang”, có thể gây đỗ vỡ công tác và bị đối phương phát giác, vô hiệu hóa.
Như vậy, trong văn phòng của Tư Lệnh CSQG, dù ở BTL hay ở Phủ Đặc Ủy, kể cả trong văn phòng của Trưởng Khối Đặc Biệt, làm gì có hồ sơ của Võ Văn Ba mà tìm thấy?? (chỉ có hồ sơ cùa X.92 - Bí danh là Bảo Quốc mà thôi)
Riêng tại Tỉnh Tây Ninh, như phần trên tôi đã trình bày, tôi đã đốt tất cả hồ sơ của các nguồn tin này trước khi rời Bộ Chỉ Huy và đến 9 giờ tối bị bắt trong Nội Ô Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.
b. Số phận của Võ Văn Ba: Trong lần gặp sau cùng, khoảng giữa tháng 3 năm 1975, trước tình hình rất khó khăn của chính phủ lúc bấy giờ, Cố Vấn J. R Stockwell có hỏi ý kiến và đề nghị đưa X.92 cùng vợ con đi qua Hoa Kỳ. X.92 suy nghĩ hồi lâu, và quyết định:
- Vì đã lớn tuồi nên thấy khó khăn khi đến “lập nghiệp” ở một xứ như Hoa Kỳ.
- X.92 sẽ trở lại đời sống của người dân bình thường. Nếu bọn cộng sản có chiếm được miền Nam và giao cho chức vụ nào đó, X.92 cũng sẽ từ chối, vì đã hiểu quá nhiều về bọn chúng. Trong đó X.92 cũng không quên đề cập đến 2 đứa con, tuyệt đối không hợp tác với cộng sản.
- Cuối cùng, X.92 tuyên bố một câu mà đến giờ này tôi hãy còn nhớ, cũng như hãy còn bị “ám ảnh” dù đã hơn 40 năm qua: “Nếu tụi cộng sản chiếm được miền Nam, tôi sẽ tự tử!”.
Nhớ điều này, tôi không lấy gì làm lạ, khi qua định cư năm 1995, được biết X.92 đã chết trong lúc bị giam tại trại tạm giam của Bộ Công An ở Sài-gòn, mà lý do tụi cộng sản cho biết là X.92 đã tự tử!
Với tôi, X.92 đã tự tử thật sự. Trong ngục tù Cộng sản, để giết một tên nguy hiểm như X.92, mà chỉ bị giam có 1 tháng thì hơi “rộng lượng”!
Vâng, tự tử hay bị bức tử trong lúc bị giam là điều thường hay xảy ra trong chế độ vô nhân!
III. PHẦN KẾT
Sau khi gặp Merle Pribbenow vào đầu năm 2010 tại Virginia, tôi rất khó xử, vì tôi cảm thấy khó có thể thỏa mãn yêu cầu. Bên cạnh đó, ngoài Pribbenow còn một người bạn của Ông, là người Mỹ cũng đến gặp và cũng yêu cầu tôi nên giúp vì ông đang viết một cuốn sách về chiến tranh Việt Nam.
Tôi cho là khó xử, vì ngoài X.92 làm việc trực tiếp với chúng tôi, còn biết bao người trong cuộc khác mà hiện còn sinh sống tại Việt Nam, nhất là trong vùng tỉnh Tây Ninh. Xem lại phần trên, trong việc điều hành công tác, từ hệ thống giao liên, nhà an toàn, hộp thư sống, hộp thư chết .v.v..., phải cần rất nhiều người mới có thể làm được. Tài liệu có trễ nãi, sách có ra chậm, vẫn là chuyện nhỏ so với sự tồn vong của những người “lính không có số quân” này.
Trong hơn 20 năm sống ở hải ngoại, những anh chị em làm việc với tôi khi xưa, tôi không bao giờ dám quên. Tôi nhớ từng người, từng khuôn mặt buồn vui sau mỗi lần đi công tác về, đặc biệt là những người bạn, những người em, những đứa cháu không có tên trong “danh sách lãnh lương của chính phủ VNCH”.
Suốt bao năm qua, tôi cũng đã âm thầm bằng điều kiện hạn hẹp của cá nhân, tôi cũng ráng giúp vui cho “những người không có trong danh sách” này mà không dám liệt kê để báo cáo trong mỗi độ Xuân về, Tết đến, vì báo cáo phải có tên họ, địa chỉ v.v...
Qua cái chết của X.92, cũng như những bài học đã trãi qua trong suốt bao năm phục vụ trước 1975, tôi cảm nghĩ:
* Chỉ có những ai thấu hiểu được Cộng Sản mới dám hy sinh để đối đầu, kể cả mạng sống của chính mình!
Phan Tấn Ngưu
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Đôi nét về bia Con Cọp, Bia 33, bia La-de nức tiếng Sài Gòn trước 1975
Trước năm 1975, người miền Nam ít khi nói đến từ bia, mà nói là la-de nhưng viết thì là la-ve. Rủ nhau đi làm ít la-de, nhâm nhi la-de, mời anh nâng ly… Khúc đường Phạm Ngũ Lão – Bùi Viện bây giờ là phố Tây ba lô, trước năm 1975 vốn là khu ăn nhậu sầm uất, chiều chiều bàn ghế bày ra đầy vỉa hè, khách bình dân hay trung lưu vẫn tạt vào. Món nhậu bình dân khoái khẩu của người Sài Gòn lúc đó là uống la-de Con Cọp nhắm với tôm khô củ kiệu (bây giờ thì cả la-de Con Cọp không còn và món tôm khô củ kiệu cũng dần mai một trên bàn nhậu). Giống như Honda được gọi cho xe máy, la-de cũng được gọi cho bia nhưng từ đâu mà lại có chữ la-de?
La-de từ đâu anh tới ?
Giả thuyết thứ nhất cho rằng xuất phát từ cụm từ beer Lager, Lager là một dòng bia nhẹ kiểu Đức, nên người ta nói chệch từ lager thành la-de.
Giả thuyết thứ hai liên quan đến sự ra đời của hãng bia BGI làm ra bia Con Cọp. Lần ngược thời gian, năm 1875 hãng BGI được thành lập tại Sài Gòn bởi một sĩ quan hàng hải giải ngũ có tên Victor Larue. Tên BGI là viết tắt của Brasseries Glacières d’Indochine (hãng bia và nước đá Đông Dương, đến năm 1954 không còn Đông Dương nữa nên chữ “In” đổi lại là Internationales – Quốc tế), lúc đầu chủ yếu làm nước đá, sau mấy năm mới sản xuất bia và nước giải khát.
Sản phẩm bia Con Cọp bên cạnh hình con cọp trên nhãn, hai bên có hai chữ Pháp là Biere Larue, Larue chính là tên ông chủ hãng, phát âm theo tiếng Việt là la-ruy-ê đọc liền nhau, dân Việt đọc chệch đi thành la-de, rồi lâu dần bỏ luôn chữ bia, gọi la-de thôi và la-de cũng dần trở thành cách hiểu để nói về bia của người miền Nam.
Tùy mỗi người tin, còn bản thân tôi tin rằng chữ la-de xuất phát từ giả thuyết thứ hai.
Con Cọp làm trùm
Ngoài hai loại bia Bière Royale và Bière Hommel (loại nhẹ), hãng BGI sản xuất chính hai loại bia khác nổi tiếng hơn.
Loại thứ nhất là bia xuất khẩu, gọi là bia 33 Export, cái tên 33 đơn giản là do nó đựng trong chai có dung tích 0,33 lít. Bia này có độ cồn cao hơn nên vị uống đậm hơn. Trên nhãn bia ghi chữ bia theo nhiều ngôn ngữ khác nhau: Bière (tiếng Pháp), Beer (tiếng Anh), Bier (tiếng Đức), Bir (tiếng Indonesia), Birra (tiếng Ý)…
Loại thứ hai phổ biến nhất là bia Con Cọp, đựng trong chai có dung tích 0,66 lít nhưng không hiểu sao ở vỏ chai chỉ ghi dung tích là 0,61 lít. Đây là loại bia phổ biến được đông đảo người tiêu dùng đón nhận, từ người lao động bình dân cho đến trí thức hay đại gia, từ nhà hàng đến quán cóc lề đường đều có hình ảnh của bia Con Cọp. Binh lính và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa cũng rất ưa chuộng bia Con Cọp nhưng giá mua cao, nên Chính phủ đã ký hợp đồng với BGI sản xuất bia với nhãn riêng để bán lại cho quân đội, cảnh sát và viên chức, giá rẻ hơn, gọi là bia Quân Tiếp Vụ.
Năm 1965, quân Mỹ đổ vào miền Nam, năm 1966 Mỹ xây dựng căn cứ Long Bình làm kho hậu cần khổng lồ phục vụ quân đội. Dân Tam Hiệp, Biên Hòa đua nhau mở cửa hàng ăn uống phục vụ nhu cầu lính Mỹ, trong đó có bán bia Con Cọp. Họ phát hiện ra lính Mỹ có bia lon riêng do quân đội cung cấp (phát hay bán rẻ gì đó) nhưng lính Mỹ chê, họ nói là chua và nhạt nên không thèm uống, mà đi mua bia Con Cọp uống. Điều này đủ thấy khẩu vị của bia Con Cọp cuốn hút ra sao từ ta đến Tây.
Chiến thắng thuộc về kẻ thừa kế
Sau năm 1975, BGI bị quốc hữu hóa và hãng mẹ BGI tiếp tục dùng nhãn hiệu này trên toàn thế giới, trong khi đó loại bia tại Việt Nam được Nhà máy bia Sài Gòn (tức BGI cũ) sản xuất ra theo công thức của bia 33 không được mang nhãn hiệu 33 vì đây là nhãn hiệu đã đăng ký toàn cầu, nên đổi là 333, chỉ thêm số 3 vào cho khác đi.
Đến năm 1991, BGI mới quay lại Việt Nam nhưng không giành lại thời huy hoàng, dù cho những tháng đầu tiên đã khiến bia Sài Gòn không bán nổi một két và sau cùng BGI phải bán lại cho Foster của Úc. Lý giải thất bại của BGI, đó là bia Con Cọp đã trở lại với chất lượng kém hơn xưa. Có hai nguyên nhân chưa hề được xác nhận chính thức: Thứ nhất, BGI đã sử dụng công nghệ mới hiện đại, ủ men nhanh hơn nên mùi vị khác trước. Trong khi bia Sài Gòn vẫn dùng công nghệ cũ, lạc hậu của BGI trước đây nên vẫn giữ nguyên được chất lượng quen thuộc.
Thứ hai, lúc đầu BGI rất muốn liên doanh với bia Sài Gòn để sản xuất tại nhà máy cũ ở Sài Gòn nhưng không được, đành phải về Tiền Giang. Một bí quyết then chốt trong sản xuất bia Con Cọp trước đây chính là nguồn nước, ở Tiền Giang không có nguồn nước ngầm giống của nhà máy ở Sài Gòn nên chất lượng cũng không bằng. Điều này cũng tương tự rượu Bắc Hà nổi tiếng ở Lào Cai, khi người làm rượu ở Bắc Hà đi nơi khác làm rượu, cũng con người đó, công thức đó, nguyên liệu đó nhưng rượu không ngon vì dùng nguồn nước khác… Thế nên kẻ thừa kế của bia Con Cọp lại đánh bại được chính chủ. Nhãn hiệu Con Cọp nổi tiếng năm xưa không còn nhưng hương vị của nó vẫn ở lại cùng các “bợm bia”.
Năm 1973, hãng BGI tung ra một nhãn hiệu mới, cũng chai 0,66 lít có hình con cọp nhưng hai bên có vẽ thêm hình ảnh dây leo và một trái tròn tròn khía vuông mà người ta thấy giống như trái thơm, nên người ta gọi là bia Con Cọp Trái Thơm. Điểm đặc biệt là bia này bỏ chung với các chai bia Con Cọp khác, cứ một két thì có một chai, có khi có 2-3 chai. Thiên hạ đồn đây là loại bia đặc biệt, ngon hơn loại thường nên tặng kèm theo một két để khuyến mãi khách hàng mua sỉ. Thành thử từ đó người ta hay mua cả két bia để được lấy chai “trái thơm”, trong bàn nhậu, bậc trưởng thượng, chủ xị… được ưu tiên uống chai này. Trong phân chia chất lượng bia của BGI thì bia Con Cọp Trái Thơm đứng đầu, sau đó tới bia Con Cọp thường và đứng chót sổ, bị chê nhiều nhất là bia Quân Tiếp Vụ.
Sự thực bia Con Cọp Trái Thơm có phải là loại bia ngon nhất ?
TS luật Phan Văn Song, từng là trưởng phòng tiếp thị rồi giám đốc BGI từ năm 1973 đến 1976 tại Việt Nam, đã bác bỏ điều này. Ông nói: “Nấu hai loại bia đã tóe phở, hộc xì dầu. BGI đâu có hưỡn nấu ba, bốn loại còn vô chai vô cộ, đổi kíp đổi người. Phức tạp lắm. Nội cách đổi vỏ chai cho hạp với rượu cũng đủ hao tiền. Nhưng cắt nghĩa hổng ai tin”.
Vậy vì sao BGI lại tung ra nhãn bia chai Trái Thơm? Nguyên nhân này cũng được tiết lộ từ người trong cuộc: Năm 1973, BGI muốn thay đổi nhãn bia mới, để đỡ tốn tiền thuê họa sĩ thiết kế ở pháp như mọi khi, ông Song giao cho họa sĩ quảng cáo trong công ty vẽ. Cũng là nhãn Con Cọp cũ nhưng vẽ thêm hoa houblons (còn gọi là hốt bố – là loại hoa tạo ra vị đắng của bia), khổ nỗi họa sĩ chưa từng nhìn thấy hoa houblons tươi bao giờ, chỉ thấy hoa khô trong hãng nên từ đó tưởng tượng vẽ ra. Cả khâu duyệt cũng trót lọt vì dân marketing ngồi văn phòng có ai biết hoa houblons tươi thế nào. Đem qua nhà máy thủy tinh Khánh Hội đặt in trên 100.000 vỏ chai xong mang về nhà máy Chợ Lớn, mấy kỹ sư trong xưởng bia mới cười rần rần vì vẽ sai, thế là thôi không in tiếp nữa. 100.000 chai đã lỡ in sai không lẽ bỏ, thế là số chai này được phân công bỏ chen vào các két bia mỗi két một chai để phân tán ra.
Từ đâu dẫn đến diễn biến về bia Trái Thơm đặc biệt khiến thiên hạ lùng mua để uống? Cũng từ các Hoa kiều làm công việc phân phối bia của BGI mà ra. Người Hoa rất nhanh nhạy với các cơ hội làm ăn, họ chụp lấy sự kiện này để “bỏ nhỏ” với các đại lý: Bia Trái Thơm là loại đặc biệt, mỗi két chỉ có một chai nhưng nếu “nị” lấy hàng nhiều, chịu chi thêm thì “ngộ” sẽ thêm mỗi két vài chai, thậm chí muốn có cả một két toàn Trái Thơm cũng có… Quy tắc mỗi két một chai bị phá tan nhưng bộ sậu lãnh đạo ở BGI lờ đi, mặc cho nhóm nhân viên phân phối thao túng. Ai đời từ một sai sót kỹ thuật vớ vẩn như vậy lại được biến thành một sự kiện khiến nhãn hàng gây chú ý với người tiêu dùng miễn phí và khiến doanh số bán tăng vọt thì họa có… điên mới đi giải thích, đính chính (!). Nói như vậy, không lẽ cả mấy vạn “bợm bia” không phân biệt được bia ngon, bia dở? Thật ra những ai hiểu về tâm lý học và marketing sẽ biết rằng cùng một sản phẩm nhưng nếu cho vào chai lọ, bao bì thật đẹp, bán giá cao… người ta sẽ cảm thấy nó ngon và tốt hơn cũng sản phẩm đó cho vào bao bì xấu hoặc giá rẻ. Đó cũng là lý do bia Quân Tiếp Vụ ngày xưa bị chê trong khi nó cũng “y chang” hai loại kia, chẳng qua là đặt sỉ giá rẻ mà thôi.
Theo PHẠM TRƯỜNG GIANG
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 6 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
.................... .................... .................... ..
Suốt buổi nhậu Dean cứ chêm vào: Oh my God, Bullshit, oh yeah, perfect… có người hiểu, có người không hiểu nhưng ai ai cũng chăm chăm nâng ly, dô dô trăm phần trăm chứ chẳng hơi đâu mà tìm hiểu tiếng Tây, tiếng u.
.................... .................... .................... .
1 Việt kiều Mỹ về thăm quê hương trong lúc đang huyên trò chuyện với bạn bè, anh ta ra vẽ là đã quên bớt tiếng Việt (cho giống người Mỹ chứ sau)
-Oh, cái này.....uh...cái đó....uh....cái đó nói tiếng Việt làm sao mình quên rùi
-Không sao, cứ nói tiếng Anh đi, tụi mình cũng biết tiếng Anh mà
-(Anh Việt Kiều ấp úng)...Tiếng Anh....tiếng anh hả.....uh....uh....t iếng Anh thì mình chưa....học tới
The Following 4 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Cứ gần giáp năm thì trong bụng buồn buồn, nhất là nửa đêm ngủ hổng được mà nghe gió rít từng cơn càng não nuột, những ngày lễ lạc chộn rộn như vầy tôi thường nằm nhà loay hoay với nỗi buồn không tên của mình, coi phim hay đọc sách để quên buồn.
Tình cờ thấy bộ phim với tựa đề “Hamburger Hill” do Mỹ sản xuất năm 1987 của đạo diễn John Irvin liên quan tới chiến tranh Việt Nam, tôi tò mò bấm vào coi, phim ngắn thôi nhưng đã làm tôi nín thở theo dõi cuộc chiến đấu quyết liệt của quân đội Mỹ, trong một trận đánh trên ngọn đồi 937 gần biên giới Việt Lào năm 1969.
Thời chiến tranh tôi còn vô tâm quá với lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng sau khi tàn cuộc chiến thấy có nhiều điều trái tai gai mắt trong chế độ mới, khiến tôi quan tâm đến xã hội, sự dấn thân có lẽ bắt đầu từ giai đoạn cả nước ăn khoai sắn thay cơm, rồi miền Nam của tôi trãi qua bao biến động dưới bàn tay phù thủy tàn độc của cái gọi là XHCN, trả giá cho việc ăn cơm quốc gia mà không chịu thờ ma CS là những năm tháng tù đày, tôi không phàn nàn về cuộc chơi “nhất chín nhì bù” của mình, coi như một tai nạn xảy đến cho gia đình mà kết cuộc khá bi thảm, một người chết hai người bị thương nặng...
Sau này tôi lại chú ý đến những câu chuyện thời sự hơn là coi phim bộ như thói thường của mấy người già mới qua Mỹ, nên sách vở, phim ảnh hay bất cứ cái gì liên quan tới Việt Nam thì tôi ghé mắt vào, như phim tài liệu Việt Nam Việt Nam của Charlton Heston với những thước phim có giá trị trung thực về cuộc thảm sát ở Huế năm 68 , dĩ nhiên là nó khác với cách nhìn thiên kiến của phim The Viet Nam War của Ken Burns và Lynn Novick nghiêng về chiến công của phe CS và phong trào phản chiến ở Mỹ bùng nổ trong giai đoạn đó, mà không ghi nhận sự chiến đấu anh dũng để bảo vệ miền Nam của quân đội VNCH, bộ phim đã gây nhiều tranh cải và tôi không muốn nhắc lại.
Nhưng thời may có ông đạo diễn Fred Koster, (người đã làm phim Ride The Thunder )thấy bộ phim The VietNam War không công bằng nên ông và một nhóm thân hữu nhất định làm bộ phim The VietNam War though our eyes để trả lại sự thật cho lịch sử, trả lại danh dự cho người lính VNCH bởi họ đã chiến đấu vì chính nghĩa của miền Nam VN, bộ phim đang được thực hiện và hy vọng chúng ta sẽ được xem trong thời gian gần đây.
Tôi tin vào phim ảnh dựa trên những tình tiết có thật nói lên sự tàn khốc của chiến tranh đẫm máu, nhưng bên cạnh đó còn có bàn tay phù thủy của đạo diễn để dẫn dắt khán giả theo cái nhìn khác mà họ muốn, nhưng với phim ảnh của các nước XHCN thì không tin nổi vì sự giả tạo và tuyên truyền trơ trẻn lố bịch, xạo hết chỗ nói là vậy.
Xem những bộ phim liên quan tới chiến tranh VN, nhìn chung những gương mặt người lính Mỹ thời đó còn rất trẻ như hầu hết các chiến binh trong quân đội của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, dù cuộc chiến đấu dưới bất cứ danh nghĩa nào thì cũng đồng nghĩa với sự hy sinh tuổi trẻ của mình vào nơi lửa đạn chết chóc. Hơn 58.000 lính Mỹ đã chết tại ViệtNam. Tôi tin người Mỹ tham gia chiến đấu vì một thế giới tự do, tôi xúc động mỗi lần nghĩ tới họ và kinh tởm khi nghe phía Cộng Sản gọi họ là “đế quốc Mỹ xâm lược”, khi sự thật lúc CS cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, giang sơn lãnh thổ thời đó vẫn còn nguyên vẹn nhưng sau 45 năm cầm quyền thì bọn chúng đã bầm nát đất nước và ngày nay lại âm mưu dâng quê cha đất tổ cho kẻ thù Trung Cộng. Thật đau đớn và căm hận biết bao nhiêu.
Bộ phim làm tôi bần thần nhớ về quá khứ, về những câu chuyện đáng buồn đã qua, về những mất mát không thể nào nguôi ngoai trong ký ức một thời tang tóc. Cuộc chiến đã qua đi lâu rồi nhưng mùi khói súng vẫn khen khét ngập ngụa trong cuộc sống mỗi ngày mà người dân ViệtNam đang phải chịu đựng trong sự phẩn uất, mùi tanh tưởi của bạo quyền trấn áp những kẻ bất đồng chính kiến, mùi tiền và mùi máu của tập đoàn tham nhũng ăn trên xác của đồng loại khốn khổ. Chủ nghĩa Cộng Sản là đại họa của dân tộc, thế giới đã quá mệt mỏi với tên đồ tể gian ác này, các cường quốc đã và đang cố gắng để tiêu diệt nó, nhưng tiếc thay đất nước mình lại dung chứa cái thứ rác rưởi bốc mùi này suốt mấy chục năm qua, sự cam chịu nhẫn nhục cho đến khi nào đây?
Chúng tôi, những người ty nạn CS đang sống yên ấm ở xứ người, được hưởng sự Tự Do và bình đẳng như người dân bản xứ nhưng từ trong sâu thẳm của trái tim mình vẫn luôn hướng về quê Mẹ với bao xót xa uất nghẹn, vết thương của người thua cuộc vẫn còn đau âm ỉ trong lòng mỗi khi nhớ về ngày tang tóc của đất nước.
Có lần tôi dự một buổi hội ngộ của cựu tù nhân trại Vĩnh Phú, xúc động bồi hồi khi nghe các anh nhắc lại những năm tháng kinh hoàng, gian khổ đói lạnh bệnh tật trong nhà giam lớn nhất trên núi rừng Việt Bắc, chuyện những người vợ người mẹ chịu thương chịu khó vượt suối băng đèo lặn lội thăm nuôi chồng con ròng rã mỏi mòn năm này qua năm khác, để rồi có một ngày nghe tin anh ấy mãi mãi không về..Còn nỗi đau nào kinh khủng hơn thế nữa? Giọng anh bạn tôi như nghẹn lại khi nhắc về toa tàu đầy phân bò tanh hôi mà họ đã nhốt các anh trong đó khi chuyển trại từ Nam ra Bắc “ Tụi nó coi chúng tôi như súc vật..” và có rất nhiều cái chết thương tâm của những con người bị đối xử không khác gì một con vật trong cái nơi mà CS gọi là trại cải tạo, mai mỉa thay.
Năm hết Tết đến, chạnh lòng gợi nhớ đến khăn sô cho Huế trong thảm sát Mậu Thân mấy mươi năm trước, lại nhói đau khi nghe tin tức bên nhà với khăn tang trắng làng Đồng Tâm Hà Nội, với cảnh màn trời chiếu đất của dân oan Thủ Thiêm, Lộc Hưng Sài gòn.
Đất nước có còn nơi nào bình yên dưới bàn tay quỷ đỏ?
Mấy ngày Tết, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào có đông dân Việt thì họ túm tụm lại tổ chức lễ hội rình rang cho đở nhớ quê hương, cũng chợ búa tấp nập, cũng bánh chưng xanh, xâu pháo đỏ, với hoa mai hoa đào rộn ràng màu sắc, nhà nào còn giữ lại phong tục VN thì chuẩn bị hương đăng trà quả đón Giao Thừa, tưởng như nàng Xuân đang đứng trước cổng nhà cho ấm lòng người xa xứ, mặc dù nước Mỹ đang là mùa đông lạnh lẽo tuyết rơi.
Thật ra mấy ngày này cũng muốn được an nhiên như chàng lãng tử
Nhưng sao bụng dạ cứ bồn chồn, Xuân này con không về Bên nhà ăn Tết vui gì nỗi Má ơi. nếu có lời khấn nguyện thành tâm trong đêm trừ tịch thì con chỉ cầu cho Việt Nam sớm thoát khỏi chế độ Cộng Sản tàn ác để dân mình an lạc, Tự Do,đất nước được sống trong hòa bình thịnh vượng.
Trần Ngọc Ánh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trước khi vào bài, tôi kể quý vị nghe một chuyện. Ngày trước, ở làng tôi, có một cô gái, nói là lên tỉnh làm công, thỉnh thoảng về làng, nom vẫn còn chân quê lắm. Một lần, có một anh trai cùng làng lên tỉnh tìm gái làng chơi, trớ trêu thế nào mà gọi đúng cô gái cùng làng của mình. Thời gian đầu về làng, anh ta còn kín miệng, dấu chuyện, cô gái ấy mỗi lần trở về, đoán chưa bị lộ nên vẫn làm vẻ ngây thơ, rụt rè, chất phác. Một lần anh trai làng uống rượu cùng bạn bè, rượu vào lời ra, phun ra cả chuyện cô gái ấy “làm gái” trên tỉnh. Hôm cô gái về làng, thấy mọi người nhìn mình bằng ánh mắt lạ, còn có vài cặp mắt khinh bỉ nữa, cô hiểu là cả làng biết mình làm “gái” rồi, cô không còn giữ kẽ nữa, đột nhiên hóa thành cô gái tỉnh, ăn nói vung vít, đi đứng nghênh ngang, trút bỏ bộ bà ba chân quê mà khoác vào cái áo khêu gợi và còn tỏ ý: “tao làm đĩ đấy, đứa nào làm gì tao…”, tác phong này lạ lẫm với người làng vốn có đời sống còn chân chất lắm. Nhiều vị, nhất là những vị trưởng thượng, đạo cao đức dày của làng tỏ ý khinh ra mặt…Bỗng nhiên cô trở nên hào phóng, hỏi các vị này có cần giúp đỡ cái gì cho làng không? Rồi xòe ra cho họ ít tiền… lạ một cái là thái độ của làng đối với cô hoàn toàn thay đổi. Họ xum xoe, cung kính, chèo kéo, hãnh diện được quen biết cô… Từ đấy, tôi hiểu là đồng tiền có sức mạnh vạn năng, đổi trắng thành đen, biến tròn thành méo… từ “đĩ” thành “bà”. Bây giờ trở lại với câu hỏi “Làn Ranh Quốc Cộng - Có Còn Không?”.
Những năm đầu ty nạn cộng sản trên đất người, “làn ranh” này đậm nét, rõ ràng lắm. Sau nhiều năm dài tăm tối, đổi mới hay là chết, cộng sản buộc phải bang giao với Mỹ. Nhất là từ lúc cộng sản tung ra nghị quyết 36, lũng đoạn cộng đồng người Việt Hải Ngoại. Từ ấy, đã có những kẻ từng ôm cờ quốc gia trong mọi sinh hoạt, từng hô hào không đội trời chung với cộng sản như PD như DTL…đã trở cờ phản bội. Hầu hết là những kẻ đã có danh nhưng nay lò mò về Việt Nam kiếm lợi và kiếm cả gái nữa…
Gần đây nhất có những đứa bên Mỹ mà danh cũng tươm tất, phận lại khá giả, cũng có thời cao giọng chống cộng kinh lắm, như thằng Hùng hèn, Sơn nổ…thế mà chúng nó không những đã khấu đầu, trở cờ, lạy cộng mà lại còn ca tụng cộng hơn cả những thằng cộng sản thứ thiệt nữa, đúng là thờ cộng hơn cộng. Cũng có dấy lên những phong trào đả kích, chống đối bọn này nhưng khí thế chẳng thể nào bằng lúc trước được. Làn Ranh Quốc Cộng, nay chắc cũng nhạt ít nhiều.
Giờ đây lại có những kẻ vô danh tiểu tốt nhưng lại làm ăn thành đạt, loại này chắc chắn không phải là public figure, không phải là người của công chúng, nên thôi đành viết tắt tên cho đỡ phiền phức. Người mà tôi muốn nói ở đây là mợ HP, chủ nhân một tiệm bán đồ trang sức ở vùng Hoa Đô. Mợ này cũng có đóng góp, giúp đỡ cho các Hội Đoàn, cho TPB, tuy ít hơn nhiều so với những Mạnh Thường Quân dấu tên khác, nhưng cũng được trọng vọng lắm. Tôi có gặp và tiếp xúc với Mợ này đôi lần, nói chuyện thì thấy, ăn không nên miếng, nói không nên lời, câu bất thành câu, cú bất thành cú, từ ngữ thì dùng loạn cào cào, nghèo từ mà lại thích dùng từ đao to búa lớn, nói câu chuyện thì đầu chẳng ra đầu, đuôi chẳng đuôi, có lúc câu sau chửi bố câu trước chứng tỏ loại người có trình độ học vấn thấp thế mà chẳng biết làm thế nào, hay nhờ ai làm thơ dùm, mà Mợ cũng có tước Nhà Thơ lại còn là Hội Viên của Làng Văn, cái Làng thường tự hào là tổ chức VNCH duy nhất còn lại. Chính vì là hội viên của cái Làng Văn ấy nên tôi mới mất thời giờ viết về Mợ.
Số là Mợ bỏ tiền ra, bỏ rất nhiều tiền để hòa hợp hòa giải, giao lưu với cs trong nước. Mợ lén về nước, tổ chức ca múa linh đình, hát xướng tưng bừng mừng đẻng mừng xuân. Mục đích ban đầu của Mợ là mua danh, cứ mua danh cái đã rồi hạ hồi tính, bởi vì chắc chắn là Mợ tiến hành trong bí mật, những người bạn thân, cả người thân của Mợ, còn không biết Mợ về Việt Nam nữa mà, nhưng xui cho Mợ là cái trò giao lưu này bại lộ. Bây giờ thì Mợ lộng giả thành chân, nghênh ngang, công khai phổ biến cái trò giao lưu hòa hợp hòa giải với cs trong nước, gởi emai khắp chốn, post lên web, bỏ vào facebook khoe khoang nhặng xị. Không những thế, mợ còn in cả vạn DVD, cho không biếu không những ông đi qua bà đi lại giữa chợ. Một thứ tuyên truyền mừng đẻng mừng xuân “cực kỳ” thâm độc.
Ôi thì người ta có tiền, người ta làm cái gì thì kệ người ta, nhưng buồn quá, như thế thì Làn Ranh Quốc Cộng đã bị xóa tan rồi à, không những thế mà nó lại còn nghênh ngang thách thức, chúng mày làm được cái gì tao. Rồi khi chúng mày tổ chức sinh hoạt cái gì đó, lại khúm núm mò đến tao xin vài trăm, thí cho chúng mày vài trăm thì buộc phải xum xoe bợ đỡ và phải câm như hến. Nghĩ đến kịch bản này, sao quặn thắt cả ruột gan….buồn quá. Thế mà không phải thế. Tin mới nhất mà tôi vừa nhận được:
1/ Tổ Chức VNS VNCH, nơi mà Mợ luồn sâu tới vị trí thứ nhì đã xóa hẳn tên Mợ trong tổ chức từ ngày 16/12/2019 vì họ đã đoán được cái trò lươn lẹo, khuất tất và nhiều dấu hiệu đáng ngờ của Mợ. Tổ chức này đã ra thông báo, không còn bất cứ liên hệ nào với Mợ nữa.
2/ Làng Văn đã khai trừ Mợ.
3/ Hội Đồng Hương những người của Thành Phố bị giặc Hồ chiếm tên đã phải tốn một lần tiền nữa để in ấn lại toàn bộ các poster chỉ vì loại bỏ phần quảng cáo cho Tiệm bán đồ trang sức của Mợ (nghĩa là không thèm nhận tài trợ của Mợ).
4/ Một nhân vật ở vị trí hàng đầu của Cộng Đồng Hoa Đô cũng bày tỏ ý kiến “đây là một tiền lệ thật xấu” “không thể chấp nhận được” nhưng mới chỉ ở phạm vi trao đổi riêng tư.
Cứ như là “có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”, tôi lại lạc quan: “Làn Ranh Quốc Cộng” chưa nhòa.
Đến đây, các bạn đã hiểu tại sao tôi lại kể câu chuyện “Gái Đĩ” ở trên chưa? Vâng, Mợ này đi giao lưu hòa hợp hòa giải với cs trong nước (như đi làm đĩ), mợ biết rõ là cộng đồng, nơi mợ ta sinh sống sẽ không chấp nhận (khinh bỉ) thế nên mới lén lén lút lút. Trời bất dung gian, hành vi của Mợ bị lộ. Mợ bèn lộng giả thành chân, công khai thách thức, tao giao lưu đấy, chúng mày làm gì tao. Cần gì, ra đây, tao cho vài trăm, cầm tiền rồi thì nhớ ngậm miệng nghe. Chuyện cứ như “con đĩ” ở trên, nhưng các hội đoàn, các chức sắc Hoa Đô có hành xử như các vị Trưởng Thượng của làng tôi hay không?
Cầu Chúa, cầu Phật là không.
Lão Móc
Feb 12, 2020
-----
Pc: Chúng tôi có Poster và nhiều hình ảnh chứng minh Mợ HP giao lưu với cs trong nước. Poster thì lấy trên web của Nhà Hát Thành Phố “HCM” còn hình ảnh “người thật việc thật trên sân khấu TP HCM” chúng tôi không rõ là tác giả có giữ bản quyền hay không nên chưa tiện phổ biến. Chỉ gởi kèm đường link để quý vị tự tìm hiểu.
Đường link https://www.facebook.com/VOHMusicOne...type=3&theater
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Một quán cà phê Sài Gòn xưa.
Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi.
Muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy.
Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.
Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.
Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân…
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.
Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức) – đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly.
Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?
Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.
Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường.
Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ.
Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi – nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – Hình như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất… Đa La.
Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.
Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si.
Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.
Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý.
Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của sinh viên, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống sinh viên cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng.
Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Garcia Lorca.
Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.
Lương Thái Sỹ – An Dân
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tháng Hai là tháng đặc bìệt trong năm chỉ có 28 ngày, nhưng tháng Hai năm nay 2020 lại có 29 ngày. Cho nên những người được sinh vào ngày 29 tháng Hai năm nay, phải đợi đến năm 2024 mới được ăn mừng sinh nhật vì người viết nghe các bạn bè có sinh nhật trong ngày 29 tháng hai nói thế, không biết có đúng không?
Tại sao thế? Có người nói cứ 4 năm thì hiện tượng tháng hai có 29 ngày được xảy ra khi lấy con số của năm đó chia được cho 4. Năm nay là năm 2020 có thể chia được cho 4. Năm 2013, 2014, 2015 không thể chia được cho 4. Mãi đến năm 2024 mới chia được cho 4. Một bài toán giản dị như thế nhưng người viết không biết về phương diện thiên văn, niên lịch đã giải thích như thế nào là hợp lý. Xin các vị cao minh chỉ giáo. Xin đa tạ.
Người viết xin chúc mừng Sinh Nhật Vui Vẻ đến quý vị nào có sinh nhật trong ngày 29 tháng Hai đặc biệt này nhé. “Hooray”!
Tháng Hai lại có sinh nhật của vị Tổng Thống Mỹ Washington, năm nay nhằm ngày 17 tháng Hai và chính phủ Mỹ đã chọn ngày này làm ngày quốc lễ President’s Day luôn để ghi nhớ công ơn của các vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Học sinh các trưòng công lập và nhân viên các công sở đuợc nghĩ học, nghỉ làm trong ngày thứ hai 17 tháng Hai này. Khi còn đi làm trong các trường công lập tại Portland, người viết rất thích những ngày quốc lễ như thế để được nghĩ ở nhà ngủ nướng. Vui quá! Ai đi làm mà không mong có ngày được nghĩ ở nhà thoải mái có ăn lưong, phải không bạn?
Nhưng trong tháng Hai lại có một ngày dù không phải là ngày quốc lễ nhưng lại được đa số quần chúng trên thế giới đón chào trọng thể, nhất là những người đang yêu nhau và những tiệm bán hoa, bán kẹo chocolate, bán thiệp. Không nói ra mà ai cũng biết đó là ngày Valentine’s Day, 14 tháng Hai, Ngày Lễ Tình Yêu, nếu dịch sang tiếng Việt.
Đã qua rồi thời kỳ thơ mộng của Tình yêu, nhưng người viết cũng xin được gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến những kẻ “tôi còn yêu, tôi cứ yêu, tôi còn yêu mãi mãi, tôi còn yêu dài dài” cho cuộc đời thêm tươi đẹp nhé.
Về lịch sữ ngày Lễ Tình Yêu này chắc chắn đã có người nói rồi trong trang báo này hay nơi báo khác. Người viết chỉ đi sưu tầm những điều lý thú mới nhất về ngày lễ đặc biệt này để chia sẻ với các bạn cho vui mà thôi.
ĐIỀU LÝ THÚ VỀ LỄ TÌNH YÊU
73% người mua hoa trong ngày 14 tháng 2 là đàn ông , 27% là phụ nữ
15% phụ nữ mua hoa gởi cho chính bản thân họ trong ngày lễ tình yêu
3% số người tặng quà cho pets ( con vật nuôi yêu thích)
Khoảng 1 tỷ thiệp Valentine được gởi đi mỗi năm, nhiều thứ hai chỉ đứng sau thiệp Giáng Sinh.
Giáo viên nhận được thiệp Valentine nhiều nhất, tiếp đó là trẻ em, mẹ, vợ, người yêu và thú nuôi yêu thích. 85% người mua thiệp Valentine là phụ nữ.
Món quà Valentine giá trị nhất của mọi thời đại là tháp Taj Mahal ở Ấn Độ do hoàng đế Mughal Emperor Shahjahan xây để tặng cho vợ ông đã mất.
Hàng năm hơn 189 triệu đóa hoa hồng được tặng nhau chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ .
Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đã được đưa ra khỏi Lịch chung của Vatican và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia).
Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Chào Đón ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nữa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường thì cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường thì có thể lên tới 1 tỷ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất.Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc mến đến các bạn khác giới.
Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đã dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như e-thiệp. Ước tính khoảng 15 triệu e-thiệp được gửi vào năm 2010.
Nói đến tình yêu, chúng ta không chỉ nghĩ đến tình yêu thơ mộng của chuyện tình nam nữ mà còn có những tình yêu nhẹ nhàng, tình cảm khác cũng cần đưọc nhắc đến và vinh danh.
Người viết xin mời bạn đọc câu chuyện cực ngắn dưới đây thật là dễ thương đã giúp ta tìm hiểu tình yêu có thể được diễn đạt qua nhiều hình ảnh khác và món quà trao cho nhau đâu cần phải là bó hoa hồng rực rỡ hay hộp chocolate béo ngọt.
Vòng cẩm thạch
Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc vòng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nõn nà đeo vòng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ tìm cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường... Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: - Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nhìn thôi cũng thấy vui. Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.
Sương Lam
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tiếng nói là sinh mệnh của dân tộc. Không phải phở, nước mắm không còn, hay truyện Kiều không còn thì dân tộc mất. Tiếng nói không còn, dân tộc diệt. Phở, nước mắm không còn thì ăn món khác, dù có tiếc nuối nhưng dân tộc vẫn còn. Truyện Kiều không còn thì viết truyện khác, dù tiếc nuối nhưng dân tộc vẫn còn. Mất tiếng nói là dân tộc biến dạng và biến thành một dân tộc khác. Chẳng hạn mai đây toàn dân Việt Nam đều nói tiếng Tàu thì Việt Nam biến thành một tỉnh của Trung Hoa. Nếu 90 triệu dân đều nói tiếng Pháp thì Việt Nam biến thành một “Pháp Quốc Hải Ngoại”. Còn nếu 90 triệu dân đều nói tiếng Anh thì Việt Nam biến thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ hay giống như Phi Luật Tân, Puerto Rico.
Như vậy tiếng nói phải tồn tại cùng với dân tộc. Khi nào dân tộc diệt thì tiếng nói mới bị diệt. Thế nhưng dù tồn tại miên viễn, nó phải tồn tại trong sáng đẹp, có tính văn chương cao và phát âm thanh thoát, rõ ràng. Mỗi một dân tộc có một vùng miền nào đó mà “giọng nói” trở thành tiêu biểu cho cả quốc gia. Chẳng hạn giọng nói của Paris là tiêu biểu cho tiếng Pháp. Giọng Bắc Kinh là tiêu biểu cho tiếng Trung Hoa. Giọng nói của Nữu Ước và California là tiêu biểu cho tiếng Anh ở Hoa Kỳ. Và hiển nhiên giọng Hà Nội trước năm 1954 và giọng Sài Gòn trước 1975 là tiêu biểu cho giọng nói của người Việt Nam.
Thế nhưng không hiểu sao gái Hà Nội bây giờ giọng nói rất nhà quê, lơ lớ, ngai ngái, phát âm không rõ chữ, liến thoắng, cộc lốc, không dịu dàng, không có tiếng “vâng ạ, dạ, thưa” như ngày xưa. Nghe nói trong lúc nói chuyện với nhau, các cô Hà Nội bây giờ, mặt mũi xinh đẹp nhưng ăn nói thô tục kinh hồn. Tôi có ông bạn dược sĩ về thăm Hà Nội cách đây vài năm nói rằng, “Nó nói chuyện với mình thì chú chú, cháu cháu ngọt sớt. Quay qua nói chuyện với bạn nó thì thô tục kinh hồn! Không hiểu gia đình, trường học giáo dục nó như thế nào?” Nổi tiếng nhất có bà “Bún mắng cháo chửi” ở Đường Ngô Sĩ Liên, đã được đưa lên chương trình truyền hình của đài CNN. Rồi mới đây nhất một bà đại úy công an thuộc Quận Đống Đa, Hà Nội chửi bới thô tục một nhân viên của hãng hàng không tại Phi Cảng Tân Sơn Nhất đã được đưa lên trang tin Sputnik News.
Cả giọng Bắc của các nam/nữ xướng ngôn viên đài VOA, BBC tiếng Việt cũng thế. Cũng liến thoắng, ngai ngái, lơ lớ, eo éo, phát âm không rõ chữ và thường lên giọng ở chữ cuối cùng, nghe khó chịu vô cùng. Khi đọc diễn văn, đọc một bản tin, nói chuyện mà lên giọng ở chữ cuối cùng thì giống như người Thượng nói tiếng Việt. Những cô gái Thái, Mường, Mèo, Dao… nói còn dễ nghe và dễ thương hơn những cô gái này. Sự đổi đời lan rộng ra hải ngoại, tới tận Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, California và Texas!
Ở đây tôi không viết vì thù ghét. Nếu viết vì thù ghét sẽ không còn trung thực. Một nhà nghiên cứu văn hóa ở trong nước nói rằng tiếng Bắc thì còn nhưng giọng Hà Nội bây giờ không còn nữa. Có rất nhiều nguyên do. Năm 1954, dân Hà Nội di cư vào Nam gần một nửa. Chiếm lĩnh thành phố là dân “bần cố” có công với “cách mạng” cho nên ngôn ngữ ‘bần cố” trở thành ngôn ngữ của giai cấp thống trị và giết chết ngôn ngữ thanh lịch, dịu dàng, văn vẻ của đất “Ngàn Năm Văn Vật”. Lý do thứ hai, có lẽ là để biện minh, rằng thế hệ sau lớn lên nói giọng quê mùa, liến thoắng, lơ lớ như vậy là vì các chị vú em, người giữ trẻ cho con nhà “cán bộ” từ vùng quê nghèo khổ kéo về, không được học hành cho nên tiếng nói nó mới “đổi đời” như thế.
Một giọng nói muốn trở thành mẫu mực cho đất nước, bất kể Nam-Trung-Bắc phải hội đủ những điều kiện như sau:
1) Phát âm đúng, không ngọng nghịu, ngai ngái, lơ lớ như lai Tây, lai Tàu, lai Mỹ. Tôi đã có dịp hỏi nhạc sĩ Phạm Duy điều kiện để trở thành danh ca. Phạm Duy nói rằng điều quan trọng nhất là phát âm phải đúng. Thí dụ, “buồn” không thể phát âm thành “buồng”, “tuổi” không thể phát âm thành “tủi”, “hoàng hôn” không thể phát âm thành “hoàn hôn”, “mỏi mòn” không thể phát âm thành “mõi mòn”, “nỗi lòng” không thể phát âm thành “nổi lòng”, “hỏi han” không thể phát âm thành “hõi hang”, “lãng đãng” không thể phát âm thành “lảng đảng”, “điện thoại” không thể phát âm thành “điện thọi”, “lan” không thể phát âm thành “lang”. Tiếng Việt không có âm “shờ”, “chờ” uốn cong lưỡi như tiếng Anh. Cô/cậu/ông/bà/cụ… ca sĩ nào hát những chữ như “anh mong chờ”, “chiều về”, “đêm nay thu sang”…mà uốn cong lưỡi, đều không phải là danh ca, dù hát hay thế nào đi nữa. Theo nhạc sĩ Phạm Duy thì Thái Thanh và Lệ Thu là hai người phát âm giọng Bắc đúng nhất.
Chàng này dạy khóa học giao tiếp, nhưng y cũng nói nhanh và eo éo còn khó chịu khi nghe.
2) Nói với tốc độ (speed) vừa phải, không liến thoắng, để người nghe kịp hiểu mình nói gì. Vào xem các chương trình phóng sự ở Việt Nam và VOA, BBC nhiều khi các cô/cậu phóng viên nói một hồi mà tôi không hiểu các cô/cậu nói gì vì giọng liến thoắng, chữ líu vào nhau và nhanh quá! Xin nhớ cho, nước Mỹ này có 350 triệu dân, ai cũng học hành giỏi giang cả, nhưng để tuyển xướng ngôn viên đài truyền hình có giọng nói hay thì chỉ có vài trăm cô. Đất nước Việt Nam 90 triệu dân, nhưng để tuyển xướng ngôn viên đài truyền hình, đài phát thanh có giọng nói như Miền Nam thuở xưa, chưa chắc đã tìm ra một người. Cứ thử mở các băng ghi âm cũ của các chương trình phát thanh hay truyền hình của Miền Nam xưa, xem có đúng như vậy không?
3) Âm lượng vừa đủ, không lớn quá, không lí nhí, không the thé.
Bà này nghe cũng tàm tạm, nhưng vẫn còn giọng éo éo và kéo dài tiếng nói…
4) Phải có chút trầm bổng, không đều đều, buồn tẻ để hấp dẫn người nghe và dĩ nhiên không nhà quê. Phải biết ngắt câu đúng nơi, đúng chỗ, vừa để mình thở để lấy hơi, vừa để người ta hiểu mình nói gì.
5) Không được cộc lốc, gằn, chấm dứt câu đột ngột làm như muốn mắng chửi người ta. Thật lạ lùng! Miền Bắc bây giờ khi nói chuyện, đọc bản tin hoặc đọc diễn văn, trả lời phỏng vấn… mọi người đều ”lên giọng” ở chữ cuối cùng, nghe khó chịu vô cùng, giống như đồng bào Thượng ở Kontum, Pleiku nói tiếng Việt. Trong ngôn ngữ, chỉ ở thể “mệnh lệnh cách” hoặc “câu hỏi” người ta mới “lên giọng” ở chữ cuối cùng. Có lẽ do lối đọc diễn văn nhát gừng, kích động của Ô. Phạm Văn Đồng mấy chục năm về trước hoặc lối đọc diễn văn, tuyên truyền dưới thời Mao Trạch Đông cho nên cả nước “học tập” và bắt chước theo khiến di họa cho tới ngày nay.
6) Phải có những tiếng như “dạ”, “thưa ”, “vâng” trong câu nói để chứng tỏ sự lịch sự của mình. Trong một chương trình truyền hình của VTV3, phỏng vấn một bà nguyên là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc của đất nước mình mà gọi bằng “chị” thì thật vô lễ, bất lịch sự quá đỗi. Bắt buộc phải nói, “Thưa bà đại sứ” hoặc “Thưa bà giáo sư”. Không có chuyện “chị em” ở đây. Đó là phép lịch sự tối thiểu.
7) Dĩ nhiên là phải có học để lựa chọn những từ ngữ thanh tao, tránh những từ ngữ thô lỗ, đường phố. Điều này phải nhờ giáo dục học đường mà còn cả giáo dục gia đình nữa. Thí dụ: Một con nhà có giáo dục sẽ không nói, “Mày câm cái mồm mày lại!” mà có thể nói, “Ông/bà/anh chị, em …mà cứ nói như vậy thì câu chuyện sẽ trở nên khó khăn hơn.” Hoặc “Ông/bà/anh chị/em không nên nói như vậy.” Ngoài ra phải có những câu như “xin lỗi”. Chẳng hạn, “Xin lỗi, chúng tôi phải chấm dứt chương trình vì đã hết giờ.” hoặc “Xin lỗi, tôi ra ngoài một chút.” “Xin lỗi”, đây không có nghĩa là mình có lỗi, mà là lối nói lịch sự. Các câu “ I am sorry” , “Excuse me, “Thank you” luôn luôn được thốt ra từ cửa miệng người Mỹ.
Giọng cô này nghe giống như tiếng thượng Pleihu, hay đâu đó ở vùng Cao Nguyên
Thú thực, xem các đoạn phim phóng sự sinh hoạt của các cô gái Thái, Mèo, Mường ở Lai Châu, Lào Cai tôi lại thích giọng nói của các cô này hơn là giọng nói của các cô gái Hà Nội chỉ vì họ nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, không liến thoắng và giọng thì không nhão, ngai ngái, eo éo… Hầu hết các cô/cậu làm phóng sự đều ở tuổi đôi mươi, nhưng không bao giờ nói được câu “quý vị” trong khi những người xem có thể đáng tuổi ông nội, chú bác, cô dì…của họ …mà chỉ dùng các chữ như “các bạn”, “các bạn nhé!” khiến gây khó chịu cho người nghe. Đây không phải lỗi của các phóng viên mà lỗi ở chủ nhiệm, chủ biên, giám đốc các đài truyền hình, trình độ giáo dục quá kém, không biết thế nào là lịch sự, lễ phép đối với khán-thính giả.
Ngay cả giọng nữ của những phát ngôn viên đài truyền hình lớn nhất của Sài Gòn, mặt mũi tuyển chọn rất xinh đẹp nhưng giọng Miền Nam lại vô cùng quê mùa. Nó không phải là giọng nói thanh lịch của những nữ sinh Gia Long, Trưng Vương, Marie Curie của Sài Gòn năm xưa, mà nó là giọng quê mùa của các cô gái từ Củ Chi, Cà Mau, Châu Đốc, Đồng Tháp Mười mới lên Sài Gòn. Thật đau buồn! Trong khi giọng nói của các cô gái Nam của các chương trình phát thanh thương mại ở Nam, Bắc Cali, Hoa Thịnh Đốn thì lại sang và trí thức biết là bao nhiêu. Cứ thử thu băng rồi đem về cho cả nước nghe rồi so sánh xem có đúng như vậy không.
Tôi không bao giờ có ý nghĩ khinh thị các cô gái nói giọng quê mùa. Tại Mỹ này cũng có những giọng nói quê mùa của những vùng như Texas, Alabama và North Carolina… Họ là những con người dễ thương, không có gì chê trách. Nhưng khi tuyển một xướng ngôn viên tiểu biểu thì phải tuyển các cô/cậu có giọng nói trí thức, có học, sống ở nơi đô hội. Ở Mỹ này họ thường tuyển chọn xướng ngôn viên theo giọng nói của Nữu Ước, California. Cũng giống như thi hoa hậu thì phải tuyển cô đẹp. Tuyển cô xấu mà nói là “hoa hậu” thì người ta “mắng” cho. Xin nhớ, tuyển cả ngàn cô gái đẹp rất dễ. Nhưng tuyển một cô có giọng nói đúng giọng, sang, trí thức, mẫu mực, dễ nghe, …thì cả ngàn cô, chưa chắc đã tuyển được một cô. Có cả trăm loài chim, nhưng chim hót hay chỉ có vài con.
Tôi còn nhớ, có lẽ khoảng 1964-1965, khi Miền Nam bắt đầu có chương trình truyền hình. Đài Sài Gòn tuyển và thí nghiệm ba giọng đọc Nam, Bắc và Huế cùng lúc. Nhưng chỉ sau vài lần, phải bỏ giọng Huế. Dĩ nhiên là giọng Huế rất dễ thương. Nghe các cô ở Sông Hương, Núi Ngự nói chuyện thì “mê” lắm. Nhưng nghe các cô đọc một bản tin trên đài phát thanh hay đài truyền hình thì nó “nặng”quá. Cho nên giọng Huế không thích hợp cho các xướng ngôn viên, hướng dẫn chương trình, quảng cáo, văn nghệ v.v…
Hiện nay tình trạng ngôn ngữ đổi đời lan ra hải ngoại nguyên do chỉ vì các báo ở hải ngoại , các đài phát thanh, truyền hình, cá nhân tuy chửi rủa trong nước đủ điều nhưng lại đua nhau chuyến tiếp/forward và đăng “nguyên con” trên “báo chợ” trên các Diễn Đàn Yahoo Groups các bản tin, bài viết trong nước, nhất là hai trang tin VOA và BBC Việt Ngữ. Chính vì thế ngôn ngữ đổi đời, ngôn ngữ bát nháo, giọng nói ngọng, ngai ngái, lơ lớ, éo éo… đang trở thành ngôn ngữ chính thống ở hải ngoại. “Buồn ơi chào mi”!
Sống không phải chỉ là miếng ăn ngon, quần áo đẹp, xe đắt tiền, iPhone, iPad, tháng nào, chỗ nào, hang cùng ngõ hẻm nào cũng thi hoa hậu, tuyển lựa ca sĩ…(tất cả những thứ này chỉ là văn nghệ, không phải là văn hóa và có khi phản văn hóa) mà cần có nghệ thuật, văn chương và văn hóa. Tiếng nói là bộ phận sống còn của một dân tộc. Tiếng nói thanh tao, lịch sự, lễ độ, mẫu mực, dễ nghe biểu tỏ một trình độ văn hóa, giáo dục cao và một cuộc sống đẹp. Mất nó, hay tiếng nói còn đó mà thô tục, bát nháo, thiếu lễ độ là biểu tỏ một xã hội suy đồi, hư đốn.
Không thể phủ nhận, tiếng Bắc giọng Hà Nội trước 1954 và tiếng Nam giọng Sài Gòn 1954-1975 là tiêu biểu cho giọng nói của hai miền Nam-Bắc. Giọng Bắc Hà Nội thanh lịch, dịu dàng, văn vẻ. Giọng Nam Sài Gòn, tình cảm, mặn mà, chân thật, dễ thương, chậm rãi, dễ hiểu.
Ôi, thèm làm sao tiếng nói dịu dàng, thanh thoát, lịch sự, văn vẻ của Hà Nội và cả giọng nói rất trí thức của Sài Gòn năm xưa, mà nay:
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường.
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo.
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
(Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan)
Không biết tới bao giờ giọng nói thanh lịch của đất “Ngàn Năm Văn Vật” sống lại ở Việt Nam đây? Có lẽ nó đã bị hủy diệt mất rồi!
Đào Văn Bình
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Khi bắt đầu bước vào xã hội, bước đầu tiên, họ đã bị lãnh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, ....
Tôi không bênh vực những tiếp viên hàng không bằng lý do ngô nghê là họ phải đút lót để đựơc có việc làm trong Air VN nên họ phải buôn lậu chuyển hàng ăn cắp để gỡ vốn.
Tôi thực sự thương hại họ, vì "Quít trồng Giang Nam thì ngọt, trồng Giang Bắc lại chua"
Ngay khi chào đời, họ đã bị sinh ra trong một bệnh viện "ăn cắp", khi lớn lên, họ lại đi học trong những trường học "ăn cắp", giáo sư "ăn cắp" công trình trí tuệ của người khác, học sinh, sinh viên "ăn cắp" bảng điểm, "ăn cắp" bằng cấp bằng phong bì.
Khi bắt đầu bước vào xã hội, bước đầu tiên, họ đã bị lãnh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục hình.
Vì vậy , khi tôi nhìn thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị "ăn cắp" trinh tiết, bị "ăn cắp" phẩm giá, anh ạ. Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi còi, rồi công an vòi vĩnh, xòe tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ còn nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của mình, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của mình. Những người công an trẻ đó cũng bị "ăn cắp" lương tâm?
Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.
Khi những phóng viên, bẻ cong ngòi bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đã gọi đó là "Bút Máu".
Khi những quan tòa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lý có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị "ăn cắp" nhân tính mất rồi.
Trong xã hội, toàn là "ăn cắp", vậy thì kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, Vì văn hóa "giả vờ" là đồng lõa cho xã hội ăn cắp.
Lấy 1 bịch, nhét vô cái túi này, ai mà thấy !
Cán bộ lãnh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng "giả vờ" đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em "kết nghĩa". Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm "con kết nghĩa" của cô ta quá. Thế mà có những lãnh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Điều Tra, Quan Tòa "Thiết Diện Vô Tư", Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ tin
vào quà tặng của "cô em kết nghĩa" đó!
Còn có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không tìm ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa.......
Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghi
Khi bắt đầu bước vào xã hội, bước đầu tiên, họ đã bị lãnh đạo "ăn cắp" tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, ....
họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục hình.
Vì vậy , khi tôi nhìn thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị "ăn cắp" trinh tiết, bị "ăn cắp" phẩm giá, anh ạ. Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi còi, rồi công an vòi vĩnh, xòe tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ còn nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của mình, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của mình. Những người công an trẻ đó cũng bị "ăn cắp" lương tâm?
Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.
Khi những phóng viên, bẻ cong ngòi bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đã gọi đó là "Bút Máu".
Khi những quan tòa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lý có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị "ăn cắp" nhân tính mất rồi.
Trong xã hội, toàn là "ăn cắp", vậy thì kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, Vì văn hóa "giả vờ" là đồng lõa cho xã hội ăn cắp.
Lấy 1 bịch, nhét vô cái túi này, ai mà thấy !
Cán bộ lãnh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng "giả vờ" đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em "kết nghĩa". Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm "con kết nghĩa" của cô ta quá. Thế mà có những lãnh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Điều Tra, Quan Tòa "Thiết Diện Vô Tư", Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ vào quà tặng của "cô em kết nghĩa" đó
Còn có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không tìm ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa.......
Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghiệm.
Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
"Thanh tra, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì Nó "Thank you"
Tôi buồn lắm, có đôi khi quá tuyệt vọng, tôi tự hỏi, mình có nên quên mình là người VN như con đà điểu vùi đầu trong cát, như quả chuối ngoài vàng, trong trắng, vì tôi yêu nước Mỹ quá rồi.
Nước Mỹ chưa, và có lẽ không bao giờ hoàn hảo, nhưng ở đây, ít nhất không ai có thể "ăn cắp" lương tâm, phẩm giá và nhân tính của tôi. Tôi được sống như một "CON NGƯỜI" không phải chỉ "giả vờ " "làm người" đang sống.
ST
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tất cả mọi người đã quây quần bên chiếc bàn ăn đặt giữa phòng. Ba tôi ngồi đầu bàn, mẹ tôi ngồi bên trái của ba, bên phải là Hoàng, em út tôi. Tôi, Kim Châu và Ngọc ngồi kế tiếp.
Cạnh mẹ tôi vẫn còn hai chiếc ghế trống, một của chị Lan, chị cả của tôi; hôm nay Chủ Nhật đúng vào phiên trực của chị ở bệnh viện nên chị về muộn; chiếc ghế còn lại dành cho anh Hoài, con của cô Ba, chị của ba tôi. Giờ này mà anh Hoài vẫn chưa đến, mặc dù chúng tôi đã nấn ná chờ anh ngót nửa giờ rồi. Cuối cùng, ba tôi quyết định vào tiệc. Tôi gắp chả giò cho mấy cô bạn nghịch ngợm của tôi, cô nào cũng hít hà khen ngon.
Mà phải công nhận là mẹ tôi làm chả giò ngon thật, lại thêm nước mắm chua ngọt rất vừa miệng, vã lại sự đợi chờ làm cơn đói bụng tăng thêm nên bọn nhóc chúng tôi cùng nhai ngấu nghiến. Chợt có tiếng con ki ki sủa vang ngoài cổng vài tiếng rồi im bặt, tiếp theo là những tiếng kêu ư ử của nó mỗi khi gặp người quen. Tôi reo lên: Chắc là anh Hoài đến đó. Thằng Hoàng nhanh nhẹn chạy ra mở cổng. Anh Hoài vào đến phòng ăn, chúng tôi đều ngưng đũa. Anh không đến một mình mà cùng đi với anh còn có một anh chàng Hải Quân trong bộ quân phục trắng tinh, chiếc mũ đội chênh chếch vừa được anh giở khỏi đầu, ôm trước ngực và kính cẩn cúi người chào ba mẹ tôi. Anh Hoài nhanh miệng:
– Thưa cậu, thưa mợ, đây là Trung bạn học của con hồi ở Petrus Ký.
Mọi người chào nhau. Mẹ tôi vẫn cái tánh cố hữu bãi buôi của người miền Bắc:
– Gớm, sao bác sĩ đến trễ thế? Em nó sắp khóc lên đấy và cứ lo sinh nhật của nó mà anh Hoài không đến.
Mẹ hay gọi thế cho nó trang trọng chứ anh Hoài mới học năm thứ ba Y Khoa thôi. Anh hơi ngượng vì hai chữ bác sĩ mà mẹ tôi gọi anh. Mặt anh đỏ và anh nháy mắt với tôi.
– Con xin lỗi cậu mợ vì đã để cậu mợ và mọi người phải chờ. Mấy năm rồi tụi con mới gặp lại nhau. Con mạn phép cậu mợ mời Trung đến dự sinh nhật của Phượng luôn.
Với bản chất hể hả của người miền Nam, ba tôi nói:
– Lỗi phải gì, ngồi xuống đó đi hai cháu, cả nhà cũng mới bắt đầu ăn thôi.
Thế là tôi quen anh từ đó. Những lần kế tiếp ghé nhà tôi anh còn đi chung với anh Hoài, dần dà sau đó thì anh đến một mình. Anh hay kể cho tôi nghe chuyện bạn bè, chuyện trên tàu của anh và chuyện của những vì sao.
Từ khi được anh kể cho nghe về huyền thoại của những vì sao, tôi sinh ra bệnh mộng mơ, có lẽ nó phát sinh từ bản tính lãng mạn sẵn có của tôi chăng? Tôi thích nhất là huyền thoại của nàng Europa, nữ thần tình ái. Vì say mê vẻ đẹp mê hồn của nàng nên thần Zeus đã biến dạng thành con bò trước khi đến gặp nàng. Con bò thần này thật đẹp, toàn thân màu hạt dẻ, hàng lông mày bạc, còn sừng thì như vầng trăng non.
Bị thu hút trước vẻ đẹp của con bò, nàng Europa đến gần ve vuốt. Con bò liền nằm phủ phục dưới chân nàng như mời Europa hãy cỡi lên lưng của nó. Nàng Europa không chút sợ sệt, leo lên lưng bò. Lập tức bò đứng dậy chạy thật nhanh rồi bay bổng lên không trung. Chỉ một chốc, bò xà xuống mặt biển để nhận sự chào đón của các thần biển và những loài thủy tộc.
Nàng Europa thấy sóng nước và đoàn thủy thần nhào lộn theo con bò, nàng sợ hãi, một tay nắm chặt sừng bò và tay kia cố giữ xiêm y đang tung bay phất phới. Khi đảo Crete hiện trong tầm mắt, họ liền hạ xuống. Các thần mùa màng và thần núi Olympic đưa đến cho nàng lễ phục tân nương…
Tôi thích nhất huyền thoại trên đây, nói về thần Zeus là thần trên tất cả các vị thần, vì yêu đã biến thành bò để “bắt cóc” nàng Europa về làm vợ. Thật là vừa lãng mạn, vừa “bạo tàn” theo cảm nghĩ của riêng tôi.
Vào những đêm không trăng, bầu trời đen thẫm như nhung với ngàn sao lóng lánh, tôi thường ra sân thường ngồi một mình trên chiếc ghế dựa bằng mây của ba tôi để ngắm các vì sao và để mơ mộng! Đôi khi mẹ bước ra bắt gặp lại cằn nhằn:
– Trời tối như mực thế mà còn ngồi ngoài này làm gì? Sao không vào đi ngủ để sáng mai còn đi học?
Tôi rầu mẹ vô cùng! Mẹ đâu biết rằng tôi đang ở vào tuổi biết yêu và hình như đã gửi một phần trái tim lãng mạn của mình theo bóng hình của một chàng thủy thủ! Là con gái một thời, ai lại không có những kỷ niệm đẹp để mang theo, có khi suốt cả cuộc đời?
Hôm nay có lẽ là cuối tháng ta nên trăng đã trốn mất nơi nào, bầu trời đen thẫm không mây nên hàng ngàn vì sao đang đua nhau lấp lánh. Tôi ngước tìm các chòm sao mà anh đã chỉ cho tôi. Tôi thấy thật rõ thiên tòa Taurus gồm những ngôi sao sáng rực nằm gần nhau thật âu yếm.
Trong lúc đang mơ màng về huyền thoại của nữ thần tình ái thì anh đã đứng sau lưng tôi từ bao giờ. Không biết anh đã đi vào bằng lối nào, cổng trước hay cửa sau? Từ sân thượng nhìn xuống, lờ mờ dưới ánh đèn, cổng rào nhà tôi vẫn còn đóng kín!
Còn đang thắc mắc chưa kịp hỏi, thì anh nói khẻ vào tai tôi:
– Bé có muốn “xa bến” không?
Tôi rất thích hai chữ “xa bến” này, nó vừa làm cho tôi buồn, mà cũng vừa làm cho tôi thích thú. Tôi buồn vì cứ mỗi lần tàu ra khơi là anh nói đùa với tôi rằng anh “xa bến”. Đó là những chuỗi ngày mong chờ dài dằng dặc. Rất thích thú là khi anh “về bến” thì tôi lại được nghe anh kể nhiều chuyện về chuyến hải hành vừa qua. Vì vậy khi nghe anh hỏi thì không còn nỗi vui mừng nào hơn, vì biết bao lần tôi mơ được theo tàu anh ra khơi để hiểu thế nào là xa bến. Tôi reo vui:
– Để em vào xin phép mẹ.
Anh đưa vội ngón tay trỏ lên môi ra dấu cho tôi nói khẽ và thì thầm bên tai tôi:
– Mình chỉ đi một tí thôi, mẹ không biết đâu!
Tôi còn đang ngơ ngác nhìn anh thì chợt cảm nhận một bàn tay thật ấm đặt nhẹ vào lưng tôi và đi lần qua hông phải, người tôi mềm nhũn ra, tim tôi ngưng đập, chợt toàn thân tôi nhẹ bổng. Thì ra, tôi được anh ôm chặt bên hông và được anh dìu cùng bay ra khỏi sân thượng nhà tôi! Chúng tôi bay ngang thành phố Sàigòn sáng rực ánh đèn, bỏ lại bến Bạch Đằng bên dưới, lướt qua vùng ngoại biên và ô kìa, Bãi Trước Vũng Tàu hiện ra dưới mắt tôi. Tóc tôi xõa dài tung bay trong gió lồng lộng. Một tay tôi bá chặt vào cổ anh, tay kia cố gom lại những sợi tóc dài quái ác đang vướng vào mặt mũi hai đứa. Đang bận bịu với mái tóc của mình, chợt anh ghé vào tai tôi và nói:
– Mình đến nơi rồi!
Tôi nhìn xuống. Một hạm đội thắp đèn sáng rực nằm giữa biển đen ngòm. Ánh sáng bên hông tàu cho tôi thấy rõ số “802”. Anh nhẹ nhàng đáp xuống, chân tôi cũng chạm hẳn xuống sàn tàu. Tôi nhìn quanh thấy các thủy thủ vẫn chăm chú vào những công việc của họ, hình như không nhìn thấy sự hiện diện của chúng tôi.
Từ trong phòng chỉ huy, Trung Tá Hạm Trưởng bước ra. Anh thẳng người chào tay và nhận chào trả. Trung Tá Hạm Trưởng tươi cười bắt tay tôi và mời vào phòng khách thật trang nhã. Trên tường, cạnh những bức tranh lịch sử hàng hải là những hàng đèn ẩn trong tường tạo cho căn phòng ánh sáng vừa đủ ấm cúng và sang trọng. Cạnh hai chiếc sofa dài là một chiếc bàn nhỏ mặt kính trong vắt, trên để chiếc đčn bàn xinh xắn, ánh sáng vừa đủ rọi vŕo một quyển sổ lớn hơn quyển tập học trò dày độ 2 cm. Trung Tá Hạm Trưởng chỉ vào quyển sổ và nói với tôi:
– Xin mời cô ghi vài dòng vào quyển sổ lưu niệm của Cơ Xưởng Hạm 802!
Tôi trang trọng lật tấm bìa cứng ra. Những trang kế tiếp tôi thấy danh tánh của những quan khách viếng thăm chiến hạm được viết theo hàng dọc. Từ từ, nhẹ nhàng và nắn nót; tôi ghi tên mình vào quyển sổ. Tôi viết thật chậm để kéo dài thêm cái giây phút được làm khách danh dự của Cơ Xưởng Hạm 802, chiếc cơ xưởng hạm mới nhất của Hải Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!
Đang nắn nót viết, tôi chợt cảm thấy như có người đang nhìn mình. Ngước lên, tôi bắt gặp đôi mắt lém lỉnh của anh như thầm nói:
– Này cô bé, cô đang ký giấy trọn đời thuộc về gia đěnh Hải Quân rồi đấy nhé!
Hai má tôi chợt nóng bừng. Tiếng của vị Hạm Trưởng cắt đứt dòng tư tưởng lãng mạn của tôi:
– Tôi sẽ đưa cô đi thăm một vòng trên tàu.
Còn nỗi vui thích nào hơn! Tôi đặt cuốn sổ trở lại vị trí của nó và hân hoan bước theo Hạm Trưởng đi qua các “nhiệm sở” làm việc, phòng họp, phòng ăn và phòng ngủ của các sĩ quan, thủy thủ v.v… Hạm Trưởng giải thích cho tôi biết, mặc dù phải đi sửa chửa những chiến hạm khác đôi khi cả tháng chưa về bến, nhưng tàu vẫn đủ nước ngọt để dùng, vì tàu có trang bị máy lọc nước biển sang nước ngọt. Dù đang đóng vai thượng khách của tàu, tôi vẫn không dấu nỗi tánh trẻ con của mình nên nói khẽ với Hạm Trưởng:
– Thưa Trung Tá, có thể nào Trung Tá cho em nếm thử nước lọc từ nước biển sang được không?
Ông cười nhẹ
– Được chứ, xin mời cô…
Ly nước lọc trong vắt được đặt vào tay tôi. Tôi vừa đưa ly nước lên môi chưa kịp nếm thì bỗng nhiên người tôi bị ai đó lắc mạnh, hai vai bị kéo ngược về phía sau và tiếng của… mẹ tôi càu nhàu:
– Dậy đi học kẻo trễ! Con gái lớn đầu rồi mà cứ ngủ trưa.
Tôi mở mắt ra, nghe giận mẹ vô cùng và tiếc hùi hụi ly nước chưa kịp nếm, không biết vị nó ngọt ra sao nên vẫn còn ao ước đến bây giờ.
Ba năm sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm, bạo quyền cộng sản đã dồn ép người dân Sàigòn, nói đúng hơn là người dân cả miền Nam Việt Nam, phải lâm vào một thế kẹt không thể nào sống nổi. Chúng thực thi chính sách cướp bóc của cải và tài sản của người dân dưới cái tên “đánh tư sản mại bản”.
Nhiều người đã tự tử vì mất sạch của cải, tiền bạc và nhà cửa chỉ trong một sớm một chiều! Rất nhiều người trở thành khố rách áo ôm, không một nơi chốn dung thân, không còn một phương tiện sinh sống. Thật không bút mực nào có thể diễn tả hết nỗi thống khổ ấy. Phong trào vượt biên lên đến tột đỉnh.
Một câu nói được mọi người nhắc nhở lúc ấy là “cây cột đèn mà có chân thì nó cũng đi”. Nhận thấy nhiều người vẫn còn nhiều vàng bạc chôn dấu mà chúng không thể nào lấy hết được, cộng sản liền bày ra cái trò cho phép vượt biên “bán chính thức”. Đã gọi là vượt biên mà còn gọi là bán chính thức!
Dù đã học hết lớp 12 rồi mà tôi cũng không làm sao hiểu nổi “danh từ” của bọn ấy. Kế hoạch này do nhà nước đứng ra tổ chức, người nào muốn đi cứ nộp đủ số vàng do bọn chúng đòi hỏi. Thật sự đây là một thủ đoạn vơ vét cho đến tận cùng, đến cạn kiệt tài sản của người dân miền Nam.
Lũ người bất lương ấy đã cướp lấy biết bao nhiêu là vàng bạc, của cải, tịch thu biết bao nhiêu là nhà cửa đất đai mà những người vượt biên đã bỏ lại. Gia đình tôi cuối cùng cũng phải gom góp hết tài sản do công lao khó nhọc của ba mẹ tôi tạo ra và dành dụm trong mấy chục năm trời nộp cho bọn chúng để được ra đi, để thoát khỏi sự kềm kẹp của một chế độ phi nhân xuất phát từ cái chủ nghĩa man rợ nhất trong lịch sử nhân loại.
Ngồi trong lòng chiếc ghe chật hẹp, người chen chúc nhau như cá mòi đóng hộp, tôi mới thấm thía cái tâm địa tàn độc của bọn người theo chủ nghĩa Mác Lê. Thay vì chúng đem những người có tài sản ra đấu tố, đập đầu, bắn bỏ… như thời cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc mà Hồ Chí Minh đã làm, thì nay chúng hành xử văn minh và tiến bộ hơn tên đầu đảng của chúng một bậc.
Bằng cách thức tổ chức vượt biên bán chính thức, chúng làm cho mọi người có cảm nghĩ là chính phủ có lòng nhân đạo khi để cho người Hoa Kiều đi ra khỏi nước Việt Nam. Ngoài ra, chúng cũng làm giấy tờ giả mang tên Hoa Kiều để cấp cho những người Việt Nam chính gốc muốn ra đi. Có như thế, chúng mới vơ vét hết sạch của cải, tài sản của mọi người, đạt đến mục tiêu bần cùng hóa nhân dân cho dễ bề cai trị.
Trước khi ra đi, tôi vẫn còn mơ mộng là khi tàu ra khơi, tôi sẽ nhìn thấy trời nước mênh mông của đại dương, tôi sẽ đứng trên boong tàu để tìm những vì sao mà anh đã chỉ cho tôi… Nhưng có ngờ đâu, bọn người gian ác ấy sau khi lấy vàng của mọi người rồi lại còn muốn giết chúng tôi trên biển cả để giấu nhẹm tội ác của họ. Tàu đâu không thấy, hơn một trăm người bị nhét trên một chiếc ghe đánh cá cũ kỹ, mục nát.
Vừa ra khơi là nước bắt đầu theo những lỗ mục ngấm vào lòng ghe. Các thanh niên thay nhau múc nước đổ ra ngoài. Người đông, ghe nhỏ nên chiếc ghe khẳm gần ngang với mặt nước, có thể chìm bất cứ lúc nào.
Trải qua hai ngày, tôi mơ mơ màng màng trong những tiếng nguyền rủa, tiếng kêu khóc và sau cùng là những tiếng cầu kinh, tiếng gọi Phật, gọi Chúa, lẫn trong tiếng kêu la thảm thiết của những bà mẹ khi thấy con mình ngất đi, không còn cựa quậy. Người tôi cũng chết cứng, tê dại trong cảnh tượng khủng khiếp mà cái chết cận kề chỉ trong gang tấc.
Nhưng may mắn thay, lời cầu khẩn của chúng tôi đã được ơn trên đáp ứng. Hai ngày sau, chúng tôi được một tàu buôn kéo hộ vào đảo Bidong. Đó là lần “xa bến” duy nhất và thật là kinh khủng trong cuộc đời của tôi.
Sau lần xa bến đó, tôi phải đương đầu với thực tế tại xứ người. Sau khi được định cư, tôi cắm đầu học hành và cắm đầu vào công việc làm để sống. Tôi phải luôn cố gắng vì cuộc đời tha hương của tôi bắt đầu bằng hai bàn tay trắng. Trong những bước đầu vất vả ấy tôi không còn thì giờ và thậm chí không còn nước mắt để khóc cho quê hương!
Bây giờ, thì tôi đã có một cuộc sống bình thường trên quê hương thứ hai, có gia đình đầm ấm, các con thành đạt, ngoan ngoãn. Và có lúc, những kỷ niệm đẹp tuyệt vời của thời con gái thuở 17, 18 ngây thơ và mơ mộng lại hiện về.
Đã nhiều lần tôi đi dự những buổi tổ chức kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, tôi cũng đã gặp nhiều cựu quân nhân Hải Quân, nhưng có bao giờ tôi gặp lại anh đâu? Ngày xưa, tôi nhìn các anh Hải Quân bằng con mắt lãng mạn qua bộ quân phục trắng tinh, qua những lời ca trữ tình “áo dài xanh bên áo trắng hoa biển” hay “trăng đại dương không đủ viết thư đêm…“.
Ngày ấy, tôi nghĩ rằng các anh Hải Quân ra khơi là ngắm trăng gió, là nói chuyện với các vì sao… Đến bây giờ nghĩ lại mới thấy mình đã lãng mạn hóa bộ quân phục trắng của các anh mà quên đi rằng, các anh cũng đóng góp máu xương trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho quê hương. Máu các anh đã thắm vào nước ngọt của sông rạch miền Nam, hoà tan vào biển mặn của vùng duyên hải, của Hoàng Sa, của Trường Sa, của biển cả Nam Hải…
”Tàu đưa ta đi, tàu sẽ đón ta hồi hương….“, tiếng hát của con gái tôi trong nhà bếp vọng ra. Tiếng hát của nó mềm mại suông sẻ theo những nốt nhạc, rất khác với lúc nó nói tiếng Việt ngập ngừng và hơi cứng nghe rất buồn cười, mặc dù tôi cố gắng uốn nắn rất nhiều. Không trách được, vì nó nói tiếng Mỹ nhiều hơn tiếng Việt, một ngày 8 tiếng đồng hồ trong trường!
Mấy năm nay, nó đã đủ lớn để hiểu là tôi muốn nó gìn giữ tiếng mẹ đẻ nên phần nó cũng rất cố gắng. Nó hay hát nhạc Việt khi có mặt tôi.
Câu hát vừa rồi của con gái tôi đã cho tôi một hy vọng tràn đầy. Hy vọng đất nước sẽ có ngày “giải phóng” thật sự, thoát khỏi ách đô hộ của bọn giặc nội xâm, bọn quỷ đỏ vô nhân tính. Để một lần xa bến của tôi sẽ không là “một lần đi là vĩnh viễn con tàu, đi để nhớ những chiều pha tóc trắng…” như hai câu thơ của thầy Tuệ Sỹ mà tôi đã thuộc nằm lòng để thắm thía nỗi khổ đau mỗi khi nghĩ về quê hương Việt Nam nay đã rách nát vì môi sinh ô nhiễm, tình thương đạo nghĩa đã băng hoại đến nỗi phụ nữ trẻ con bị đưa đi bán phấn buôn hương khắp các nơi trên quả địa cầu!
Hãy “về bến” để chấm dứt mối tai họa đang hiện diện, để rồi xây dựng lại quê hương, xây dựng lại tinh thần đạo nghĩa của người Việt Nam mang dòng máu Tiên Rồng, hỡi những ai còn nhận mình là con Hồng, cháu Lạc!
Mỹ Lệ
Thiem Le
Hải Quân QL.VNC
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tháng Hai là tháng đặc bìệt trong năm chỉ có 28 ngày, nhưng tháng Hai năm nay 2020 lại có 29 ngày. Cho nên những người được sinh vào ngày 29 tháng Hai năm nay, phải đợi đến năm 2024 mới được ăn mừng sinh nhật vì người viết nghe các bạn bè có sinh nhật trong ngày 29 tháng hai nói thế, không biết có đúng không?
Tại sao thế? Có người nói cứ 4 năm thì hiện tượng tháng hai có 29 ngày được xảy ra khi lấy con số của năm đó chia được cho 4. Năm nay là năm 2020 có thể chia được cho 4. Năm 2013, 2014, 2015 không thể chia được cho 4. Mãi đến năm 2024 mới chia được cho 4. Một bài toán giản dị như thế nhưng người viết không biết về phương diện thiên văn, niên lịch đã giải thích như thế nào là hợp lý. Xin các vị cao minh chỉ giáo. Xin đa tạ.
Người viết xin chúc mừng Sinh Nhật Vui Vẻ đến quý vị nào có sinh nhật trong ngày 29 tháng Hai đặc biệt này nhé. “Hooray”!
Tháng Hai lại có sinh nhật của vị Tổng Thống Mỹ Washington, năm nay nhằm ngày 17 tháng Hai và chính phủ Mỹ đã chọn ngày này làm ngày quốc lễ President’s Day luôn để ghi nhớ công ơn của các vị Tổng Thống Hoa Kỳ. Học sinh các trưòng công lập và nhân viên các công sở đuợc nghĩ học, nghỉ làm trong ngày thứ hai 17 tháng Hai này. Khi còn đi làm trong các trường công lập tại Portland, người viết rất thích những ngày quốc lễ như thế để được nghĩ ở nhà ngủ nướng. Vui quá! Ai đi làm mà không mong có ngày được nghĩ ở nhà thoải mái có ăn lưong, phải không bạn?
Nhưng trong tháng Hai lại có một ngày dù không phải là ngày quốc lễ nhưng lại được đa số quần chúng trên thế giới đón chào trọng thể, nhất là những người đang yêu nhau và những tiệm bán hoa, bán kẹo chocolate, bán thiệp. Không nói ra mà ai cũng biết đó là ngày Valentine’s Day, 14 tháng Hai, Ngày Lễ Tình Yêu, nếu dịch sang tiếng Việt.
Đã qua rồi thời kỳ thơ mộng của Tình yêu, nhưng người viết cũng xin được gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến những kẻ “tôi còn yêu, tôi cứ yêu, tôi còn yêu mãi mãi, tôi còn yêu dài dài” cho cuộc đời thêm tươi đẹp nhé.
Về lịch sữ ngày Lễ Tình Yêu này chắc chắn đã có người nói rồi trong trang báo này hay nơi báo khác. Người viết chỉ đi sưu tầm những điều lý thú mới nhất về ngày lễ đặc biệt này để chia sẻ với các bạn cho vui mà thôi.
ĐIỀU LÝ THÚ VỀ LỄ TÌNH YÊU
73% người mua hoa trong ngày 14 tháng 2 là đàn ông , 27% là phụ nữ
15% phụ nữ mua hoa gởi cho chính bản thân họ trong ngày lễ tình yêu
3% số người tặng quà cho pets ( con vật nuôi yêu thích)
Khoảng 1 tỷ thiệp Valentine được gởi đi mỗi năm, nhiều thứ hai chỉ đứng sau thiệp Giáng Sinh.
Giáo viên nhận được thiệp Valentine nhiều nhất, tiếp đó là trẻ em, mẹ, vợ, người yêu và thú nuôi yêu thích. 85% người mua thiệp Valentine là phụ nữ.
Món quà Valentine giá trị nhất của mọi thời đại là tháp Taj Mahal ở Ấn Độ do hoàng đế Mughal Emperor Shahjahan xây để tặng cho vợ ông đã mất.
Hàng năm hơn 189 triệu đóa hoa hồng được tặng nhau chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ .
Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đã được đưa ra khỏi Lịch chung của Vatican và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia).
Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Chào Đón ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nữa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường thì cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường thì có thể lên tới 1 tỷ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất.Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc mến đến các bạn khác giới.
Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đã dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như e-thiệp. Ước tính khoảng 15 triệu e-thiệp được gửi vào năm 2010.
Nói đến tình yêu, chúng ta không chỉ nghĩ đến tình yêu thơ mộng của chuyện tình nam nữ mà còn có những tình yêu nhẹ nhàng, tình cảm khác cũng cần đưọc nhắc đến và vinh danh.
Người viết xin mời bạn đọc câu chuyện cực ngắn dưới đây thật là dễ thương đã giúp ta tìm hiểu tình yêu có thể được diễn đạt qua nhiều hình ảnh khác và món quà trao cho nhau đâu cần phải là bó hoa hồng rực rỡ hay hộp chocolate béo ngọt.
Vòng cẩm thạch
Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc vòng cẩm thạch. Tay mẹ trắng nõn nà đeo vòng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ tìm cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường... Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo. Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiếc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía, cười: - Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nhìn thôi cũng thấy vui. Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.
Sương Lam
Hôm qua là ngày Valentine tui tặng bà boss tui một bó (không phải hoa à nhe!) và một cục (hỏng phải hột xoàn luôn à nhen!) nên tối ra ngủ sô pha và cả ngày nay cũng không nghe “anh ơi! Anh à! “ quá đã nên mới có thời giờ vô đây đọc đủ thứ chuyện
The Following 4 Users Say Thank You to tbbt For This Useful Post:
Hôm qua là ngày Valentine tui tặng bà boss tui một bó (không phải hoa à nhe!) và một cục (hỏng phải hột xoàn luôn à nhen!) nên tối ra ngủ sô pha và cả ngày nay cũng không nghe “anh ơi! Anh à! “ quá đã nên mới có thời giờ vô đây đọc đủ thứ chuyện
Vậy tui đoán bác tặng cục xà phòng cho bà ta rồi để bà rửa sạch tay và bóp ... sạch vườn rau củ ...
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.