Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh.
(Người đời xưa nay ai không chết,
Ḷng son c̣n sáng sử xanh.)
Sau nhiều năm sau ngày Phan Rang thất thủ, giữa lớp bụi thời gian vẫn hiện về một gương mặt tướng lănh: Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, cựu Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân (bản doanh Pleiku). Ông bị bắt giữa chiến trường, bị giải ra Bắc, bị đày đọa báo thù. Và rồi, như một tàn tro âm ỉ của thời cuộc, ông trở thành người tù VNCH có thâm niên dài nhất: mười bảy năm.

Trong số những sĩ quan bị trả thù sau chiến tranh, ông là người vào tù sớm nhất—ngày 16-4-1975—và ra trại muộn nhất—11-2-1992. Thân tàn lực kiệt, ông chỉ sống thêm mười năm, qua đời tại Quận Cam năm 2002. Trước lúc nhắm mắt, ông dồn chút sinh lực c̣n lại để viết hồi ức trận Phan Rang. Và ông làm một việc không ai đ̣i hỏi: xin lỗi đồng bào. “Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, v́ làm tướng mà không giữ được thành.” Lời ấy, đọc khẽ mà nghe như tiếng khóa sắt khép lại một kỷ nguyên.

Nhắc đến Không quân là nhắc đến những người lấy không trung làm mái nhà, sống bằng nghiệp bay—vừa hào hoa vừa gan dạ. Trong dăy sao sáng ấy, có người từng làm Phó Tổng thống, có người làm Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia và nổ súng diệt khủng bố giữa Tết Mậu Thân—một khuôn h́nh sau này được truyền thông quốc tế chọn vào số những sự kiện chấn động của thế kỷ.

Nhưng Phạm Ngọc Sang—một người Nam Kỳ ít lời—lại là bóng râm kiệm tiếng. Tên ông chỉ nổi lên khi được đề bạt vào chiếc ghế tư lệnh một sư đoàn ra đời muộn cuối 1972 để yểm trợ cao nguyên, và rồi trở thành bại tướng khi Phượng Hoàng—danh xưng chỉ huy của ông—găy cánh ở Phan Rang, hai tuần trước ngày nước mất.
Ít ai nhớ rằng ông khởi đầu ở Bộ binh (Khóa 1, Vơ Bị Thủ Đức), sau được tuyển sang Không quân, du học Pháp, trở thành phi công vận tải. Tài năng, tác phong gương mẫu khiến ông được chọn lái riêng cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
Sau 1963, ông trở lại Không quân, từng làm Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện phi công Nha Trang, rồi làm Chánh Vơ pḥng cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ thời Ủy ban Hành pháp Trung ương.
Ngoài nghiệp bay, ông từng là nhà giáo, có bề dày văn hóa, và là sĩ quan cấp tá duy nhất trong quân chủng cùng lúc tốt nghiệp Cao đẳng Quốc pḥng (VN), Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Leavenworth (Kansas), và Quản trị Quốc pḥng ở trường sau đại học Hải quân Monterey (California).

Nếu chỉ tính thâm niên và học thuật, ông đủ tầm tư lệnh quân chủng. Nhưng bản tính khiêm nhường, không phe cánh, ông chỉ lên tư lệnh năm 1972, và một sao đến 1974. Cũng năm ấy, ông được tuyên dương Anh dũng Bội tinh kèm nhành dương liễu v́ yểm trợ không lực hiệu quả cho chiến trường cao nguyên.

Tôi không kịp viết về ông khi ông nằm xuống—ngày ấy tôi chưa trở lại làng văn. Nhưng duyên phận kỳ cục: tôi gặp ông hai lần trong tù, ở Trại Nam Hà—một trong những nơi giam hăm hắc ám nhất miền Bắc—rồi lại nghe thêm về ông từ các thuộc cấp gần gũi ở Pleiku và những ngày cuối trước khi Sài G̣n tắt thở.
Viết về ông khó. Ông ghét được ca ngợi, càng ghét chính trị. Một quân nhân thuần túy: ngoài sự hào hoa của người lái tàu sắt giữa trời xanh, là một tư thế nghiêm cẩn, trọng quân phong quân kỷ—có lẽ do gốc nhà giáo. Ông nắn quân không chỉ ở kỹ thuật bay, mà cả nếp người.

Có lần, tôi lén nh́n sang khu biệt giam tướng lănh: một người đàn ông gầy, một sao đă rơi xuống bùn đất, cặm cụi tưới luống rau thơm trên mảnh vườn khép kín. Trong dáng dấp ấy là một ông giáo già Nam Kỳ. Nhưng phía sau sự lặng lẽ là cốt cách sắt. Địch tra hỏi, ông không khai. Buộc lên đài kêu gọi binh sĩ buông súng, ông không nói. Bảo “thành khẩn khai báo để sớm được tha”, ông an nhiên: không. Cánh bay đă găy, ông không chống, nhưng cũng không khuất. Bọn địch vận ở trung ương biết ông không thể “cải tạo”, nên khi trại giam miền Bắc cuối cùng đóng cửa, chúng đem ông về Nam nhốt tiếp. Ông là người cuối cùng ra khỏi trại. Ngày ông bước qua cánh cổng, chính sách “khoan hồng” của họ cũng lộ nguyên h́nh là báo thù.
Trở về những ngày cao nguyên di tản. Ngoài Tướng Phạm Văn Phú, ông là nhân chứng đầu tiên nghe lệnh rút từ Tổng thống Thiệu. Đó là một cú điện thoại từ Khánh Ḥa về Nha Trang: mệnh lệnh bằng miệng, quyết định sinh tử cho cả một vùng chiến lược, và người thi hành không đủ 72 giờ để sắp xếp. Trong pḥng họp tham mưu của Tướng Phú, đường dây xa xăm chỉ c̣n những tiếng “dạ… dạ… dạ…”—không kịp một câu xin giải thích, không kịp đ̣i thời gian cho một cuộc di tản vô tiền khoáng hậu.

Mặt người đưa đám, Tướng Phú truyền lệnh: “tự liệu phương tiện, băng qua lộ 7”—con đường vài ngày sau biến thành tử lộ. C̣n Tuy Ḥa—thị trấn gần Nha Trang nơi một tuần trước Tổng thống Thiệu cùng đoàn tùy tùng, có cả Đại tướng Cao Văn Viên, vừa đặt chân—nay chỉ là điểm mù trên bản đồ.
Không đầy một tháng, bản đồ miền Nam đổi màu. Phan Rang bỗng thành tuyến đầu của Cộng ḥa. Thiệu gom góp những đơn vị vừa tan tác từ cao nguyên và miền Trung, bằng mọi giá giữ Phan Rang.

Từ đây, Tướng Sang nhận một mệnh lệnh mới: phụ tá cho Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, một cựu tư lệnh miền Tây bị thất sủng, nhận Bộ Tư lệnh tiền phương ở Phan Rang. Có một giai thoại: Tướng Nghi định cho Tướng Sang đặt bộ chỉ huy trên không để tiện điều động. Tướng Sang cười: “Tướng ba sao dưới đất, tướng một sao trên trời coi sao tiện?” Ông xin ngồi chung ở sở chỉ huy gần phi trường.
Chỉ ít ngày sau, Phan Rang thất thủ. Cả hai trở thành tù binh cấp bậc cao nhất bị bắt ngay tại chiến trường. Một thuộc cấp—bạn tôi—thở dài: “Giá Phượng Hoàng cứ ở trên không, có khi chiếc vận tải đă quay mũi về Sài G̣n…”
Nhưng lịch sử không viết bằng chữ “giá như”.
Điều đáng kể ở Tướng Sang không phải để dựng tượng một người chói ḷa. Ông không chết theo thành như năm vị tướng khác, nhưng trả giá bằng mười bảy năm tù đày, từ Bắc vào Nam. Và trước khi qua bên kia bầu trời, ông can đảm ngoái lại: bằng trí nhớ của ḿnh, bằng bổ chính của thuộc cấp, ông viết nên một tư liệu cho người làm quân sử—hồi ức trận Phan Rang.

Theo công tâm, ông không có lỗi. Ông đă làm hết sức trong một thời khắc mạt vận. Ông tự xin lỗi không phải v́ nhu nhược, mà v́ kiêu hănh của một người chỉ huy: lỗi là của tôi. Đồng đội vẫn tự hào khi nhớ: “Thầy” sống chết có nhau—hơn nhiều kẻ bỏ thành trước giờ tàn cuộc.
Mọi sự, rốt cùng, đă thuộc về lịch sử. Bên thắng cuộc có thể rộn ràng kỷ niệm ngày chiếm Sài G̣n, nhưng đói nghèo và tụt hậu th́ vẫn rền rĩ như vết thương không khép. C̣n chúng tôi—những người lính cũ, không cùng quân chủng—chỉ xin mượn lời thuộc cấp trong lễ truy niệm tiễn ông:
“Ân đất nước đă đền, nghĩa đồng bào đă trả. Xin tướng quân thanh thản ra đi.”

Phượng Hoàng, hăy yên nghỉ giữa trời xanh bất tận. Ở đó, không c̣n xiềng xích, chỉ c̣n gió nhẹ và ánh sáng—thứ ánh sáng từng soi ḷng son của một người lính đă chọn đứng thẳng, ngay cả khi đôi cánh găy.
Đỗ Xuân Tê, viết và sửa bởi Gibbs VietBF