Trong tâm trí của rất nhiều người,
Vingroup không chỉ là một tập đoàn kinh tế tư nhân lớn nhất Việt Nam mà c̣n là biểu tượng nổi bật của khát vọng quốc gia. Thế nhưng, đằng sau bức tranh tăng trưởng đầy tham vọng là một mạng lưới các giao dịch tài chính phức tạp, nơi mà hàng tỷ đôla tài sản và vốn được luân chuyển giữa các công ty trong cùng một hệ thống thu hẹp, thường không cần đến những nguồn tiền mặt thực sự, mà chỉ cần biểu hiện qua giấy tờ mà thôi
Những kiểu "phép màu" trong kế toán này, khi được mổ xẻ ra cặn kẻ, lại gợi nhớ một cách đáng lo ngại đến một cái tên đă từng là niềm tự hào của nước Mỹ trước khi trở thành ám ảnh cho sự sụp đổ long trời lỡ đất:
Enron.
Đáng chú ư hơn, các cấu trúc về tài chính này lại chứa đựng nhiều điểm tương đồng thật đáng lo ngại với các kỹ xảo đă được cho sử dụng bởi
Enron, một tập đoàn khổng lồ về năng lượng Mỹ đă bị sụp đổ trong vụ bê bối kinh doanh lớn nhất trong lịch sử ở Mỹ. Một cuộc đối chiếu đầy đủ chi tiết, dựa trên chính các số liệu đă được cho công bố ra, sẽ làm sáng tỏ những rủi ro tiềm tàng trong hệ thống giao dịch. Câu hỏi đặt ra không phải ở sự tương đồng có tính cách ngẫu nhiên, mà là liệu những kỹ xảo tài chính phức tạp này có phải là phương pháp quản trị vốn thông minh, hay là đang che giấu một
"quả bom hẹn giờ" đe dọa đến sự ổn định của cả một đế chế thuộc
"tư bản đỏ" tưởng chừng như
"thật quá to để cho đổ vỡ" (too big too fail).
Bài học từ Enron

(Minh họa)
Từng là một ngôi sao sáng của nền kinh tế Mỹ, sự sụp đổ của
Enron không phải v́ một thất bại về mặt kinh doanh thông thường, mà v́ nó đă tạo ra một ảo ảnh về thịnh vượng thông qua hai dạng "vũ khí" chính trong kế toán.
Vũ khí thứ nhất là phương pháp kế toán
Mark-to-Market (M2M), có thể hiểu là kế toán ghi nhận về lợi nhuận tương lai. Thay v́ ghi nhận mức doanh thu khi thật sự thu được tiền,
Enron được phép cho ghi nhận toàn bộ mức lợi nhuận dự kiến của một hợp đồng dài hạn ngay tại thời điểm được kư kết. Điều này đă giúp cho các bảng báo cáo của họ luôn có những con số lợinhuận tăng trưởng đầy ấn tượng. Tuy nhiên, đó chỉ là
"những lợi nhuận nằm trên giấy tờ", hoàn toàn phụ thuộc vào sự thành công của các dự án trong tương lai xa, trong khi nguồn tiền thật này không hề tồn tại.
Vũ khí thứ hai, và cũng là nguy hiểm nhất, là việc sử dụng các
"công ty sân sau", thuật ngữ chuyên ngành gọi là
"Thực thể có mục đích đặc biệt" (Special Purpose Entities – SPEs). Đây là những công ty được
"ngụy tạo ra để che giấu các khoản nợ và tài sản xấu của Enron". Quy tŕnh này là một màn ảo thuật về tài chính khá tinh vi. Đầu tiên,
Enron cho thành lập ra hàng trăm công ty nhỏ, trông có vẻ độc lập trong giao dịch kinh doanh, nhưng có đầy đủ tư cách pháp nhân. Sau đó, Enron không hề góp vô tiền mặt, mà cho bơm vốn cho các công ty sân sau này với chính các cổ phiếu của ḿnh, một loại tài sản đang bị lủng đoạn để tăng giá phi mă vào thời điểm đó.
Với mớ
"tài sản" là cổ phiếu
Enron và sự
"bảo lănh ngầm" từ
"công ty mẹ", các
"công ty sân sau" này dễ dàng đi vay được những khoản nợ khổng lồ từ các ngân hàng. Cuối cùng, với số tiền mặt vừa vay được,
"công ty sân sau" sẽ quay lại và tung tiền để
"mua" các tài sản có nợ xấu hoặc các dự án bị thua lỗ từ
Enron. Trên sổ sách của
Enron, một phép màu đă xảy ra: nợ nần và tài sản xấu đă biến mất, trong khi một khoản
"lợi nhuận ảo" c̣n thấy xuất hiện từ chính việc cho bán lại tài sản cho các công ty con.
Toàn bộ hệ thống này chỉ có thể tồn tại dựa trên một mục đích duy nhất: niềm tin vào giá trị của cổ phiếu
Enron. Khi báo giới và các phân tích gia bắt đầu đặt ra câu hỏi về các con số phi lư này, niềm tin đă bắt đầu bị lung lay. Giới đầu tư lập tức cho bán tháo cổ phiếu, khiến cho giá trị của nó bị lao dốc. Hiệu ứng domino đă xảy ra hầu như ngay lập tức: cổ phiếu Enron, vốn là tài sản bảo đảm cho các
"công ty sân sau", bỗng trở thành vô giá trị. Các ngân hàng bị hoảng sợ và liên tục đ̣i nợ. Toàn bộ khối nợ khổng lồ đă được che giấu trong các
"công ty sân sau" bất ngờ quay trở lại, và đè nặng lên vai của tập đoàn
Enron. Không có nguồn tiền thật để trả nợ, tập đoàn đă từng là niềm tự hào của nước Mỹ đă phải tuyên bố bị phá sản, để lại một bài học đắt giá về sự nguy hiểm của các thủ đoạn ma quỷ về tài chính và sự mong manh của niềm tin.
Các thương vụ của Vinfast mang bóng h́nh "bong bóng" của Enron
Khi cho soi chiếu mô h́nh bị sụp đổ này vào các thương vụ mua bán công ty phức tạp của
Vingroup và
VinFast, người ta không chỉ thấy có sự tương đồng ngẫu nhiên, mà là sự vận dụng có hệ thống các kỹ xảo đă tạo ra
"tên tuổi trước đây của Enron". Đây là một màn tŕnh diễn phức tạp, nơi mà lợi nhuận được tạo ra từ không khí và các khoản nợ khổng lồ được khéo léo cho dịch chuyển ra khỏi hệ thống sổ sách.
Thương vụ đem bán khối tài sản sản xuất xe xăng cho
Vietnam Investment Group (VIG) vào năm 2022 trong bối cảnh hăng xe này bắt đầu chuyển sang xe điện là một ví dụ nhập môn hoàn hảo về cách áp dụng triết lư
M2M này. Thay v́ ghi nhận giá trị tài sản theo sổ sách (12,818 tỷ VND),
VinFast đă cho kê ra một giá trị thị trường mới cho một tài sản đă không c̣n sử dụng nữa, cao hơn gấp đôi (28,999 tỷ VND), thông qua một giao dịch được khéo léo dàn dựng với một
"công ty sân sau" (SPE) là
VIG, một thực thể do chính ông Phạm Nhật Vượng đứng ra kiểm soát và điều hành. Giao dịch này ngay lập tức tạo ra một khoản lăi trong kế toán khổng lồ trên giấy tờ lên đếni 13,604 tỷ VND (khoảng 576 triệu USD), trực tiếp cho vá lại phần vốn chủ sở hữu đang bị âm nặng của
VinFast.
Bản chất
"ảo" của nó được củng cố qua phương thức thanh toán: chỉ có một phần nhỏ 2,000 tỷ VND là tiền mặt, c̣n phần lớn nhất (hơn 24,208 tỷ VND) được thanh toán dưới dạng "Share Acquisition P-Note", một phương tiện nợ nội bộ có thể cho hoán đổi thành cổ phiếu VFS. Đây chính là kỹ xảo kinh điển của
Enron: dùng chính các cổ phiếu của ḿnh để làm phương tiện thanh toán. Cú chốt hạ cho sự phi logic của sự giao dịch này là việc VinFast lại đi thuê lại chính dây chuyền sản xuất mà ḿnh vừa bán ra, một hành động cho thấy toàn bộ cấu trúc được khéo léo dàn dựng lên để phục vụ mục tiêu sổ sách hơn là nhu cầu về kinh doanh thực tế.
Nếu
VIG là kỹ xảo để tạo mức lợi nhuận
"tưởng tượng", th́ thương vụ Nam An là một ví dụ kinh điển về việc sử dụng công ty SPE để thực hiện sự tài trợ ngoài bảng cân đối kế toán (off-balance-sheet financing), một thủ đoạn cốt lơi của
Enron để vừa cho giấu nợ và tạo doanh thu giúp tập đoàn mẹ Vingroup thoát lỗ lă.
Cơ chế của nó là một ṿng xoay tài chính đă được thiết kế sẵn: thay v́ đi vay trực tiếp, VinFast đă sử dụng triết lư
M2M của
Enron khi cho đánh giá tài sản của một lời hứa hẹn tương lai (số phần trăm doanh thu từ Vinfast) thành một dạng
"tài sản trên giấy" thông qua một hợp đồng hợp tác đầu tư của Nam An vào Vinfast. Tài sản vô h́nh này sau đó được chuyển cho Nam An để làm vật thế chấp để đi vay 4,700 tỷ VND tiền thật thông qua phát hành trái phiếu với lăi suất 13%/năm và kỳ hạn 18 tháng từ ngân hàng Techcombank, rồi số tiền này lại quay về VinFast dưới vỏ bọc
"vốn góp vào".
Một tính toán đơn giản cho thấy, tổng số tiền gốc và lăi mà Nam An phải trả cho khoản vay trái phiếu 4,700 tỷ VND trong 18 tháng xấp xỉ gần bằng con số 5,875 tỷ VND mà Nam An đă
"góp vốn" cho
VinFast. Điều này chứng tỏ đây không phải là một khoản đầu tư t́m kiếm lợi nhuận, mà là một ṿng xoay tài chính được ngụy tạo ra nhằm hợp thức hóa việc biến một khoản nợ vay trở thành một khoản vốn góp trên sổ sách của
VinFast, giúp cho bảng cân đối kế toán
"trông sạch" hơn một cách giả tạo.
Tuy nhiên, đỉnh cao của sự phức tạp và táo bạo này, nơi dấu ấn của các thủ đoạn về tài chính của
Enron được thể hiện rơ nét nhất, chính là kế hoạch tái cấu trúc với
Novatech. Đây không chỉ là một màn tŕnh diễn
M2M đơn thuần.
Đầu tiên là bước
"khắc xuất".(?) Tài sản sẽ được cho tách ra khỏi
VFTP, công ty con sản xuất xe điện ở Việt Nam của
Vinfast, và đem chuyển vào
Novatech (công ty mới thành lập tách ra từ VFTP) không phải là một nhà máy hay một dây chuyền hữu h́nh, mà là
"chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) đă hoàn tất", một khối tài sản vô h́nh, vốn là chi phí ch́m trong quá khứ, và có giá trị tương lai thật mơ hồ, khó định giá ra. Đây chính là điểm tương đồng sâu sắc hơn với
Enron: lựa chọn một tài sản
"xấu" hoặc
"không rơ ràng" để thực hiện màn ảo thuật về tài chính.
Enron đả áp dụng
SPE để gánh các dự án thua lỗ, c̣n ở đây, một chi phí đă phát sinh được cho phù phép để biến thành một dạng tài sản có thể mua bán.
Lúc này, kỹ xảo
M2M mới được đem ra thực thi. Một mức giá khó tin là 1,6 tỷ USD được ấn định ra cho khối tài sản mơ hồ này trong giao dịch
Vinfast bán lại
Novatech cho chính ông Phạm Nhật Vượng. Con số này được thổi phồng một cách trắng trợn khi bao gồm một
"khoản lệ phí bảo hiểm đă thỏa thuận" lên đến 921 triệu USD. Đây chính là bản chất cốt lơi của
Enron: sử dụng một giao dịch nội bộ đă được kiểm soát để áp đặt một giá trị khổng lồ lên một tài sản không có mặt trên thị trường, từ đó tạo ra một khoản lăi trong kế toán gần 1 tỷ USD từ chốn hư không.
Màn ảo thuật được khép lại với bước
"khắc nhập", một chi tiết cho thấy sự lặp lại có chủ đích của các mô h́nh trước đó. Giống hệt như trong thương vụ
VIG trước đây,
Novatech (giờ đă thuộc sở hữu của ông Vượng) sẽ cho
VinFast thuê lại chính các tài sản R&D đă tách ra từ
Vinfast. Nhưng mấu chốt sâu xa hơn nằm ở đây: giao dịch này đă tạo ra một khối tài sản mới trên giấy tờ cho cá nhân ông Vượng, một hợp đồng cho thuê bảo đảm nguồn tiền trong tương lai, tượng tự như hợp đồng hợp tác kinh doanh đă được sử dụng làm tài sản bảo đảm để đi vay nợ trong thương vụ Nam An, hợp đồng cho thuê tài sản R&D này hoàn toàn có thể được ông Vượng đem đi cho thế chấp để huy động những khoản vốn mới.
Như vậy, toàn bộ cấu trúc này, từ việc lựa chọn một tài sản vô h́nh, định giá thổi phồng, thanh toán bằng cổ phiếu, cho đến việc cho thuê lại để tạo ra một kênh huy động vốn mới, chính là sự tái hiện hoàn hảo và tinh vi của mô h́nh tập đoàn Enron, cho phép đạt được nhiều mục đích cùng lúc: tạo ra lợi nhuận ảo, che giấu nợ nội bộ, và mở ra một kênh tài trợ ngoài sổ sách cho chủ nhân sở hữu. Hàng trăm công ty SPE của ông Vượng đă được cho thành lập ra liên tục với nhiều mục đích khác nhau như vay vốn, thao túng giá bất động sản với Techcombank như An Thịnh, Trường Lộc, Phát Đạt, TOC, hay XanhSM, For Green (cho thuê xe Vinfast) với vốn góp bằng cổ phiếu VIC để tiêu thụ xe Vinfast, Vinspeed, VinEnergo để tiếp nhận các dự án hạ tầng của CSVN bàn giao.
Liệu Vingroup có trở thành Enron Việt Nam?
Mặc dù tỷ phú Phạm Nhật Vượng đang vận dụng nhiều thủ đoạn về tài chính mà
Enron đă từng áp dụng để làm đẹp sổ sách và huy động vốn, có những khác biệt nền tảng khiến cho
Vingroup không phải là một bản sao chép của
Enron. Sự khác biệt này không nằm ở các thủ đoạn kế toán, mà ở chính hệ thống chính trị–kinh tế đặc thù mà
Vingroup đang cho vận hành.
Đầu tiên và quan trọng nhất là sự bảo trợ của nhà nước. Enron có thể có giao dịch kinh doanh với chính phủ Mỹ lúc bấy giờ, nhưng họ không thể có được sự bảo kê từ một bộ phận quyền lực trong chính quyền CSVN.
Các siêu dự án hạ tầng liên tục được phê duyệt và giao cho Vingroup, từ việc thúc đẩy vội vàng dự án Đường Sắt Cao Tốc Bắc–Nam, cho đến dự án cảng biển 14,3 tỷ USD ở Hải Pḥng, các tuyến cao tốc ven biển hàng chục ngàn tỷ VNđồng, cho đến vai tṛ đầu tư duy nhất của tuyến cao tốc Lào Cai–Hà Nội Hải Pḥng, không chỉ là cơ hội kinh doanh. Đây là những kênh huy động vốn khổng lồ, cái cớ hoàn hảo để CSVN chi tiền "đầu tư công cộng" hoặc cấp đất, giúp cho Vingroup liên tục có tài sản mới để đem thế chấp và có nguồn tiền để duy tŕ các hoạt động. Các chính sách được ban hành ra, như kế hoạch cấm xe xăng, cũng bị đặt ra dấu hỏi về việc liệu sẽ phục vụ lợi ích công cộng hay đang dọn đường cho một công ty kinh doanh sân sau.
Sự bảo trợ này c̣n mở rộng sang lĩnh vực truyền thông và tư pháp, tạo ra một lá chắn mà tập đoàn Enron không thể có. Tại Mỹ, một nền báo chí tự do với các tờ báo như The Wall Street Journal chính là tác nhân đă lên tiếng phanh phui vụ Enron. Ngược lại, tại Việt Nam, giới truyền thông bị kiểm soát chặt chẽ đă tạo ra một lá chắn bảo vệ cho
Vingroup. Việc những người phê b́nh VinFast bị cơ quan chức năng mời làm việc theo Điều 331 đă cho thấy rơ giới hạn đỏ. Song song đó là cáo buộc về khả năng thao túng tư pháp để chặn các đơn kiện của người dân liên quan đến các dự án bất động sản lớn như Grand World Phú Quốc hay Ocean Park, giúp dập tắt các khủng hoảng pháp lư ngay từ trong trứng nước.
Thứ hai là
"hệ thống liên minh tài chính ma quỷ khép kín". Mối giao tiếp cộng sinh chặt chẽ giữa Vingroup và Techcombank (TCB) và Masan tạo ra một ṿng tuần hoàn vốn thuộc nội bộ, giảm sự phụ thuộc vào thị trường vốn bên ngoài vốn đầy biến động và soi xét. Masan với quy mô là một tập đoàn sản xuất hàng tiêu dùng lớn nhất Việt Nam, nguồn tiền của họ ở TCB đú sức bơm cho các dự án của Vingroup. Việc cùng nhau thành lập ra công ty bảo hiểm TCLife càng cho thấy mức độ kết hợp sâu rộng, giúp cho tập đoàn dễ dàng kiểm soát nguồn tiền và các khoản vay hơn rất nhiều so với tập đoàn Enron ở Mỹ.
Cuối cùng, yếu tố sống c̣n của cả mô h́nh Vingroup và Enron đều là phải duy tŕ giá trị cổ phiếu ở mức cao. Mặc dù cổ phiếu Enron không có t́nh trạng nguồn cung tự do thấp (low float) như các cổ phiếu họ Vin, nhưng một lượng lớn cổ phần của nó cũng bị hạn chế giao dịch do được nắm giữ bởi các quỹ hưu trí và giới nội bộ, giúp duy tŕ một mức giá giả tạo trong một thời gian. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Mỹ là một thị trường tự do với đầy đủ phương tiện tài chính, đặc biệt là cơ chế bán khống (short-selling) hiệu quả. Chính các quỹ pḥng hộ đă dùng vũ khí này để đặt cược vào sự sụp đổ của Enron, tạo ra áp lực khổng lồ và đẩy nhanh quá tŕnh bị sụp đổ.
Ngược lại, dù các cổ phiếu thuộc hệ thống Vingroup đều ở t́nh trạng low float, chúng lại được bảo vệ bởi sự non trẻ của thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc thiếu vắng một cơ chế bán khống hiệu quả đă loại bỏ một lực lượng đối trọng quan trọng, khiến việc
"cho đỡ giá" cổ phiếu trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Thời điểm cho thế cờ tàn lụi của Vingroup
Về bản chất, các khoản nợ mà các SPE của Vingroup vay mượn hay các trách nhiệm về tài chính phức tạp của VinFast, dù không trực tiếp đứng tên, vẫn được bảo đảm do một yếu tố duy nhất: sức khỏe và uy tín của cả hệ thống Vingroup. Rủi ro sẽ không biến mất, mà chỉ được cho chuyển dịch và che giấu đi. Và có hai yếu tố có thể kích hoạt
"bóng ma Enron" tái diễn lại, bắt nguồn từ chính lỗ hổng cốt lơi đă cho hạ gục gă khổng lồ Mỹ: sự phụ thuộc vào các khoản lợi nhuận trên giấy tờ. Lỗ hổng đó chính là
triết lư M2M. Đây là cách ghi nhận lợi nhuận trước khi có nguồn tiền thật sự, và những thương vụ của Vingroup đều mang đậm dấu ấn này. Từ việc Nam An đă đánh dấu giá trị của một hợp đồng tương lai để đi vay, cho đến việc VIG và Novatech ấn định ra một mức giá được cho thổi phồng lên đối với tài sản thông qua giao dịch nội bộ để tạo ra mức lăi ảo. Và có hai nguy cơ có thể làm vỡ tan ảo ảnh này.
Thứ nhất, đó là rủi ro từ thị trường bất động sản. Hiện tại, "bầu sữa" tạo ra nguồn tiền thật sự để giúp cho Vingroup bù đắp cho các khoản lỗ của VinFast được nuôi dưỡng trực tiếp từ sự hậu thuẫn của chính quyền, thông qua hai kênh chính: liên tục cấp đất vàng cho các dự án bất động sản và bơm vốn gián tiếp bằng cách giao cho Vingroup các siêu dự án hạ tầng.
Tuy nhiên, chiến lược dựa vào sự bảo kê này có một hậu quả vĩ mô nguy hiểm: việc liên tục được bơm vốn và đất đai sẽ châm ng̣i cho nạn lạm phát, đẩy giá cả sinh hoạt lên cao và giá bất động sản lên cao đến mức phi lư, vượt xa khả năng chi trả và sức chịu đựng của nền kinh tế.
Điều này tạo ra một cái bẫy hoàn hảo cho giới đầu tư thứ cấp, những người mua lại sản phẩm của Vingroup, thường qua đ̣n bẩy tín dụng. Một mặt, lạm phát và lăi suất vay ngân hàng tăng cao buộc họ phải tăng giá cho thuê để bù đắp chi phí. Mặt khác, nguồn cung khổng lồ do liên tục được cấp đất tạo dự án sẽ gây ra áp lực phải cho giảm giá hoặc khiến cho việc cho thuê xe, nhà trở nên ế ẩm. Khi đến điểm tiền thuê nhà không c̣n đủ để trả số lăi vay, giới đầu tư sử dụng đ̣n bẩy sẽ bị vỡ trận.
Kéo theo đó là một làn sóng bán tháo và thanh toản thị trường bị đóng băng, khiến cho "bầu sữa" bất động sản, vốn được nuôi dưỡng từ việc cho cấp đất và bơm tiền qua dự án công cộng, sẽ bị cạn kiệt. Lúc đó, tập đoàn sẽ không c̣n nguồn lực nào để gồng gánh số nợ khổng lồ cho VinFast.
Thứ hai, và cấp bách hơn, đó là sự thay đổi không thể tránh khỏi của luật chơi về tài chính. Đây không phải là một thay đổi kỹ thuật đơn thuần, mà là một bước đi bắt buộc trong lộ tŕnh nâng hạng thị trường chứng khoán của Việt Nam nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Theo đó, Bộ Tài chính dự kiến sẽ sớm bắt buộc các công ty đă niêm yết phải lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực quốc tế IFRS. Khi đó, "phép màu" về thủ đoạn kế toán sẽ bị chấm dứt. Các khoản tài trợ từ ông Vượng sẽ không c̣n được ghi nhận là "thu nhập khác" để cho bù lỗ nữa. Toàn bộ gánh nặng thua lỗ của VinFast sẽ hiện ra nguyên h́nh trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất của Vingroup.
Nhưng quan trọng hơn, việc nâng hạng thị trường chứng khoán cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải mở ra các ứng dụng tài chính phức tạp hơn, trong đó có cơ chế bán khống (short-selling). Lúc này, một trong những "pháo đài" đang bảo vệ Vingroup sẽ bị sụp đổ. Giới đầu tư sẽ có trong tay vũ khí để cho đặt cược vào sự sụt giá của cổ phiếu, tạo ra một sân chơi giống với những ǵ mà Enron đă từng đối mặt ở Mỹ trước đây, nhưng sẽ lơn hơn rất nhiều ở VN.
Một khi giá cổ phiếu VIC bị sụt giảm nặng nề, sẽ kích hoạt một hiệu ứng domino: giá trị của các công ty con mà ông Vượng đă dùng cổ phiếu này để góp vốn (như GSM) sẽ bi lao dốc. Quan trọng hơn, điều đó sẽ làm bốc hơi giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản vay khổng lồ mà cả hệ thống VinGroup đang gánh chịu, kích hoạt các điều khoản yêu cầu phải bổ sung thêm tài sản. Nếu Vingroup không thể đáp ứng nỗi, một cuộc khủng hoảng thanh toản và vỡ nợ dây chuyền, giống như những ǵ đă từng xảy ra với Enron, là một rủi ro hoàn toàn có thể xảy ra. Đó cũng là thời điểm chấm dứt cho
"thế cờ tàn lụi" của Vingroup.