CÓ PHẢI BỨC CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
LÀ LÁ BÀI TẨY TRONG T̀NH HỮU NGHỊ VIỆT-TRUNG?
Theo tờ Xinhua ngày 14-6-2011, dẫn theo tờ Quân Giải phóng hàng ngày cho biết chính phủ Trung Quốc phản đối nỗ lực để quốc tế hóa vấn đề biển Đông, mà chỉ nên giải quyết song phương thông qua hiệp thương hữu nghị giữa các bên tham gia.
Trong bài báo này có đoạn viết:
“Trong một tuyên bố chính thức vào năm 1958, chính phủ Trung Quốc đă tuyên bố rơ ràng các đảo ở biển Nam Trung Hoa như là một phần của lănh thổ chủ quyền của Trung Quốc, và sau đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng bày tỏ sự thỏa thuận”.(1)
Những luận cứ và luận chứng của chính phủ Trung Quốc không có ǵ mới.
Ngày 17-11-2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát đi bản tin với cái gọi là “Sự thừa nhận của quốc tế về chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa”:
“ 5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Dung văn Khiêm [Ung Văn Khiêm] của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lư thường vụ Toà Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam đă nói rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bộ phận lịch sử của lănh thổ Trung Quốc”. Ông Le Doc [Lê Lộc], quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, cũng có mặt lúc đó, đă nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử th́ các quần đảo này đă hoàn toàn thuộc về Trung Quốc từ thời nhà Đường”.
b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đă tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung Quốc, rằng kích thước lănh hải của nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lư và điều này được áp dụng cho tất cả các lănh thổ của phía Trung Quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu Ân Lai, đă thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nh́n nhận và ủng hộ Bản Tuyên bố của Nhà nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa trong vấn đề lănh hải”.
c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo tŕnh cơ bản của môn địa lư của Việt Nam xuất bản năm 1974, đă ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Đài Loan h́nh thành một bức tường pḥng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa”(2).
Ở đây chúng ta phải hiểu vấn đề này như thế nào?
Cần nhắc lại rằng ngày 4 tháng 9 năm 1958, trong bối cảnh của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc bấy giờ đang xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan. Đài Loan lúc đó còn giữ hai đảo nằm giáp lãnh thổ Trung Quốc là Kim Môn và Mã Tổ. Hải quân Mỹ đến vùng eo biển Đài Loan, khiến Trung Quốc lo sợ rằng Mỹ có thể tấn công xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc phải lập tức ra tuyên bố lănh hải của ḿnh là 12 hải lư.
Sau đây là toàn văn tuyên bố:
“Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa về Lănh hải (Được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa nay tuyên bố:
(1) Chiều rộng lănh hải của nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lư. Điều lệ này áp dụng cho toàn lănh thổ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lănh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lư tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Đại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa.
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Đài Loan và Bành Hồ hiện c̣n bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Đây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lănh thổ và chủ quyền của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại. Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc”.

Phê chuẩn của hội nghị lần thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 4-9-1958
(Nguồn:
http://law.hku.hk)
Đáp lại tuyên bố này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lư
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lư rơ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lư lời chào trân trọng”.(3)
Theo Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á đang sống ở Hungary đă giải thích: “Trong các năm 1955-1958, ban lănh đạo Bắc Việt chưa đạt tới mục tiêu thống nhất đất nước v́ phải đối phó với khó khăn nội bộ và thiếu ủng hộ của quốc tế. Đồng minh chính của họ lúc này là Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, Hà Nội không thể hy vọng xác lập quyền kiểm soát đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong tương lai gần, và v́ vậy họ không thể có sự bất đồng lớn với Trung Quốc về các ḥn đảo. Lúc này, chính phủ Bắc Việt t́m cách có được giúp đỡ của Trung Quốc, và họ chỉ cố gắng tránh đưa ra tuyên bố công khai ủng hộ những tuyên bố chủ quyền cụ thể của Trung Quốc hay kư vào một văn kiện bắt buộc mà sẽ công khai từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo này.
Sang năm 1974, t́nh h́nh hoàn toàn khác. Việc thống nhất Việt Nam không c̣n là khả năng xa vời. Giả sử Trung Quốc có không can thiệp, Hà Nội có thể dễ dàng lấy các đảo cùng với phần c̣n lại của miền Nam. Từ 1968 đến 1974, quan hệ Việt - Trung đă xuống rất thấp, trong khi Liên Xô tăng cường ủng hộ cho miền Bắc. Trong t́nh h́nh đó, quan điểm của Bắc Việt dĩ nhiên trở nên cứng cỏi hơn trước Trung Quốc so với thập niên 1950.
V́ những lư do tương tự, thái độ của Trung Quốc cũng trở nên cứng rắn hơn. Đến năm 1974, Bắc Kinh không c̣n hy vọng Hà Nội sẽ theo họ để chống Moscow. Thực sự vào cuối 1973 và đầu 1974, Liên Xô lại cảm thấy sự ḥa hoăn Mỹ - Trung đă không đem lại kết quả như người ta nghĩ. Washington không từ bỏ quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng không bỏ đi ư định t́m kiếm ḥa hoăn với Liên Xô. Ngược lại, quan hệ Xô - Mỹ lại tiến triển tốt. V́ thế trong năm 1974, lănh đạo Trung Quốc lại một lần nữa cảm thấy bị bao vây. V́ vậy họ muốn cải thiện vị trí chiến lược ở Đông Nam Á bằng hành động chiếm Hoàng Sa, và tăng cường ủng hộ cho Khmer Đỏ và du kích cộng sản ở Miến Điện.
Tiến sĩ Balazs Szalontai phân tích tiếp hoàn cảnh ra đời của bức công hàm mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng đă gửi cho Chu Ân Lai: “Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được kư sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. V́ lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng 9 năm 1958.
Như tôi nói ở trên, trong những năm này, Bắc Việt không thể làm phật ư Trung Quốc. Liên Xô không cung cấp đủ hỗ trợ cho công cuộc thống nhất, trong khi Ngô Đ́nh Diệm ở miền Nam và chính phủ Mỹ không sẵn sàng đồng ư tổ chức bầu cử như đă ghi trong Hiệp định Geneva. Phạm Văn Đồng v́ thế cảm thấy cần ngả theo Trung Quốc.
Dẫu vậy, ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lư dọc lănh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lănh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, th́ tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lănh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Dù sao trong tranh chấp lănh thổ song phương này giữa các quyền lợi của Việt Nam và Trung Quốc, quan điểm của Bắc Việt, theo nghĩa ngoại giao hơn là pháp lư, gần với quan điểm của Trung Quốc hơn là với quan điểm của miền Nam Việt Nam.
C̣n lời phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm đưa ra năm 1956, Tiến sĩ Balazs Szalontai đă có ư kiến: “Theo trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, vào giữa năm 1956, Ung Văn Khiêm đă nói với đại biện lâm thời của Trung Quốc rằng Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đă thuộc về lănh thổ Trung Quốc. Ban đầu tôi nghi ngờ sự chân thực của tuyên bố này. Năm 2004, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thậm chí xóa đi những chương tranh căi của lịch sử Triều Tiên khỏi trang web của họ. Tức là họ sẵn sàng thay đổi quá khứ lịch sử để phục vụ cho ḿnh.
Tôi cũng chấp nhận lư lẽ rằng nếu ông Khiêm quả thực đă nói như vậy, th́ có nghĩa rằng ban lănh đạo Bắc Việt thực sự có ư định từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng nay tôi nghĩ khác, mà một lư do là v́ tôi xem lại các thỏa thuận biên giới của Mông Cổ với Liên Xô.
Tôi nhận ra rằng tuyên bố của Ung Văn Khiêm thực ra không có tác dụng ràng buộc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố của một quan chức như ông Khiêm được coi như đại diện cho quan điểm chính thức của ban lănh đạo. Nhưng ban lănh đạo cũng có thể bỏ qua ông ta và những tuyên bố của ông ta bằng việc sa thải theo những lư do có vẻ chả liên quan ǵ. Đó là số phận của Ngoại trưởng Mông Cổ Sodnomyn Averzed năm 1958. Trong lúc đàm phán về biên giới Liên Xô – Mông Cổ, ông ta có quan điểm khá cứng rắn, và rất có thể là v́ ông ta làm theo chỉ thị của ban lănh đạo. Nhưng khi Liên Xô không chịu nhả lại phần lănh thổ mà Mông Cổ đ̣i, và chỉ trích “thái độ dân tộc chủ nghĩa” của Averzed, Mông Cổ cách chức ông ta.
“Trong trường hợp Ung Văn Khiêm, ông ta khi ấy chỉ là thứ trưởng, và chỉ có một tuyên bố miệng trong lúc nói riêng với đại biện lâm thời của Trung Quốc. Trong hệ thống cộng sản, tuyên bố miệng không có cùng sức mạnh như một thông cáo viết sẵn đề cập đến các vấn đề lănh thổ. Nó cũng không có sức nặng như một tuyên bố miệng của lănh đạo cao cấp như thủ tướng, nguyên thủ quốc gia hay tổng bí thư. Rơ ràng các lănh đạo Bắc Việt không kư hay nói ra một thỏa thuận nào như vậy, v́ nếu không th́ Trung Quốc đă công bố rồi.
Vậy th́, bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có ư nghĩa pháp lư nào không?
Tiến sĩ Balazs Szalontai bày tỏ: “Nó khiến cho quan điểm của Việt Nam bị yếu đi một chút, nhưng tôi cho rằng nó không có sức nặng ràng buộc. Theo tôi, việc các tuyên bố của Trung Quốc nhấn mạnh nguyên tắc “im lặng là đồng ư” không có mấy sức nặng. Chính phủ miền Nam Việt Nam đă công khai phản đối các tuyên bố của Trung Quốc và cố gắng giữ các đảo, nhưng họ không ngăn được Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Trung Quốc đơn giản bỏ mặc sự phản đối của Sài G̣n. Nếu Hà Nội có phản đối lúc đó, kết quả cũng sẽ vậy thôi.
Tiến sĩ Balazs kết luận, do lá thư của Phạm Văn Đồng chỉ có giá trị pháp lư hạn chế, nên một sự thảo luận công khai về vấn đề sẽ không có hại cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng dĩ nhiên chính phủ hai nước có thể nh́n vấn đề này theo một cách khác.(4)
C̣n theo Tiến sĩ Luật Từ Đặng Minh Thu của Đại học Sorbonne, Pháp Quốc, th́ cho rằng những lời tuyên bố trên của Thủ tướng Phạm văn Đồng không có hiệu lực v́ trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa không quản lư những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lư của Việt Nam Cộng ḥa; mà các chính phủ Việt Nam Cộng ḥa luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. C̣n Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều ǵ có thể làm hại đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đă viết như sau:
“Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement competent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité…”
(Có thể dịch là: “Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực ǵ đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những ǵ người ta không kiểm soát được…”).
Một lư lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lư, nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lănh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng ḥa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.
Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa và Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam là một th́ dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đă nêu thuyết “estoppel” để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lư nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Điều 38 Quy chế Ṭa án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những ǵ ḿnh đă nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là “one cannot at the same time blow hot and cold.” Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều ǵ đó th́ quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó.
Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi v́ những thái độ bất nhất của ḿnh, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. V́ vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: