Trong suy nghĩ của nhiều người th́ “Việt kiều” là những người có một cuộc sống khiến nhiều người phải ghen tị. Tuy nhiên, sự thật lại không hoàn toàn như vậy và đă có rất nhiều người phải sống “khổ sở” chỉ để tích sóp được một khoản tiền nhỏ lo cho gia đ́nh. Có những nỗi “nhục nhă” và “tủi hổ” mà chỉ có những Việt kiều mới hiểu được.
Lớn lên, sau bao mong ước, trải qua rất nhiều đánh đổi, tôi cũng đặt chân được lên vùng đất hứa phương Tây. Hôm tôi rời nhà ra đi là một ngày mưa phùn tháng tám. Trong tiềm thức mỗi người đi xa như tôi lúc đó không chỉ là những khát vọng sống tươi đẹp mà hơn cả là hy vọng, là trọng trách với gia đ́nh, người thân. Cuộc sống xa nhà thực tế không như trong mộng tưởng của tôi ngày ấy.
Đă từ lâu, hai từ “Việt kiều”, vốn mang nghĩa đen là người xa xứ, lại mặc nhiên trở thành một định nghĩa về sự sang trọng, giàu có, phồn vinh trong tâm trí của những người ở nhà. Cũng phải, bởi chẳng mấy khi người trong xă được nh́n thấy một anh chàng bảnh bao hay một bà cô của thằng bạn tay kéo vali, đeo kính đen, mang túi hiệu, quần áo thướt tha, mùi nước hoa thơm phức. Họ đi Tây về.
Cứ vậy, theo thời gian, nỗi ngóng trông, hy vọng mỗi lần những Việt kiều về thăm quê cũng từ đó mà nảy sinh, lâu dần trở thành áp lực như tảng đá đè lên những đôi vai vốn đă mệt nhoài nơi xa xứ.
Chị bạn tôi sang tháng về Việt Nam. Từ đầu tháng này, mỗi ngày đi làm chị lại tay xách nách mang đồ hạ giá. Ở Đức, tháng một, sau Giáng sinh, là dịp xả hàng. Chị đếm từng đồng, từng đồng để đi sắm sửa, nào là giày dép cho em trai, áo khoác cho ba mẹ, có khi là cả đồng hồ, túi xách… Từng ấy thứ được mua bằngmấy tháng lương chị ṛng ră đi làm và ky cóp.
Sẵn cái mác Việt kiều về thăm quê không muốn mua cũng không được, bởi như đă mặc định, tất thảy đều đang đếm ngược ngày ngóng trông, chờ đợi chuyến trở về của đứa con, đứa cháu, đứa bạn từ nơi “thiên đường”.
Anh T, quê ở một tỉnh miền Bắc, sang Đức cũng được hơn chục năm. Anh làm cái nghề quen thuộc và duy nhất là phụ bếp, cụ thể ra là rửa chén. Tất tả, đôn đáo ky góp để gửi đủ một tỷ đồng xây cái nhà cho con cái ra dáng có cha đi Tây. Một tỷ đồng, hơn 40.000 euro, là thành quả của 4 năm c̣ng lưng bên chồng bát đĩa, tay chân khô ráp, quần áo sực mùi đồ ăn.
Ở nước Đức, nơi được xem là trung tâm của châu Âu, rất đông Việt kiều đang gồng ḿnh suốt ngày đêm.Phần lớn, họ làm thuê cho chính các ông chủ người Việt.
Nhà hàng mở cửa từ 10h sáng đến 12h đêm, mỗi tuần 7 ngày, mỗi tháng 30 ngày th́ họ quần quật trong góc bếp chật hẹp chừng đó thời gian. Không mấy ai được tiếp xúc với quyền lợi mỗi ngày làm 8 giờ, tuần 5 ngày như quyền con người ở nơi có đời sống an sinh xă hội thuộc hàng tốt nhất thế giới.
Không phải chính quyền hay xă hội nước sở tại mà cái sĩ diện “đi Tây” đă buộc họ phải lao động cật lực. Có những người vừa đặt chân sang lao vào kiếm tiền ḥng tích cóp. Dù xă hội Đức tạo điều kiện cho họ đi học miễn phí và c̣n có trợ cấp nhưng phần lớn không muốn học v́ sợ mất thời gian đi làm.
Sống trong một xă hội xa lạ, không biết ngôn ngữ, những người lao động Việt Nam có rất ít lựa chọn, ngoài việc đi làm thuê cho chính người Việt, phần lớn là trong các nhà hàng.
Đây cũng là cách nhiều người dùng để trốn tránh trách nhiệm đóng thuế, từ đó xin tiền trợ cấp xă hội. Họ chấp nhận năm lần bảy lượt bị chính quyền triệu tập, đi về Việt Nam thăm thân cũng phải tŕnh báo lư do cha ốm mẹ đau và chỉ được đi trong một thời gian nhất định nào đó. Cái giá mà nhiều người phải trả cho cái mác “đi Tây” hào nhoáng là thời gian, sức khoẻ, là gia đ́nh tan vỡ.
hoalyly@vietbf sưu tầm