R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Nov 2006
Posts: 34,259
Thanks: 29,324
Thanked 19,737 Times in 9,043 Posts
Mentioned: 162 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 798 Post(s)
Rep Power: 82
|
Trotsky bị trục xuất khỏi Liên bang Xô viết tháng 2 năm 1929. Trạm dừng chân đầu tiên trong chặng đường lưu vong của ông là tại Büyükada ngoài khơi Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ nơi ông ở trong bốn năm. Có nhiều cựu sĩ quan Bạch vệ tại Istanbul, điều này khiến cuộc sống của Trotsky gặp nguy hiểm, nhưng một số người ủng hộ Trotsky ở châu Âu t́nh nguyện làm vệ sĩ cho ông.
Năm 1933 Trotsky được trao quyền tị nạn tại Pháp bởi Daladier. Đầu tiên ông ở tại Royan, sau đó tại Barbizon. Ông không được phép tới thăm Paris. Năm 1935 ông được biết ḿnh sẽ không được tiếp tục đón chào ở Pháp nữa. Sau khi cân nhắc các khả năng, ông chuyển tới Na Uy. Với giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp lúc ấy là Trygve Lie để vào Na Uy, Trotsky trở thành khách của Konrad Knudsen gần Oslo.
Sau hai năm – được cho là dưới ảnh hưởng từ Liên Xô – ông bị quản thúc tại gia. Việc ông tới tới México trên một chiếc máy bay chở hàng đă được sắp xếp sau các cuộc tư vấn với các quan chức Na Uy. Tổng thống Mexico Lázaro Cárdenas chào đón ông nồng nhiệt, thậm chí c̣n sắp xếp một chuyến tàu đặc biệt để đưa ông tới Mexico City từ cảng Tampico.
Tại Mexico, Trotsky có thời điểm sống tại nhà họa sĩ Diego Rivera, và một thời điểm khác tại nhà vợ và bạn của Rivera.
Trong cảnh lưu đày, ông vẫn là một người viết rất nhiều, viết ra nhiều tác phẩm quan trọng, gồm Lịch sử Cách mạng Nga (1930) và Cuộc Cách mạng bị Phản bội (1936), một sự chỉ trích Liên bang Xô viết dưới quyền Stalin. Trotsky cho rằng nhà nước Xô viết đă trở thành một nhà nước mất phẩm chất của công nhân bị kiểm soát bởi một chế độ quan liêu phi dân chủ, cuối cùng hoặc sẽ bị lật đổ qua cách mạng dân chủ để thành lập nên chế độ dân chủ của công nhân, hay mất phẩm chất nữa để trở thành một tầng lớp tư bản.
Khi ở Mexico, Trotsky cũng làm việc gần gũi với James P. Cannon, Joseph Hansen, và Farrell Dobbs của Đảng Công nhân Xă hội Hoa Kỳ, và những người ủng hộ khác.
Cannon, một thành viên lănh đạo từ lâu của phong trào cộng sản Mỹ, đă ủng hộ Trotsky trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Stalin từ khi ông lần đầu đọc những lời chỉ trích Liên Xô của Trotsky năm 1928.
Sự chỉ trích chế độ Stalin của Trotsky, dù bị ngăn cấm, vẫn được phân phát tới các lănh đạo Quốc tế Cộng sản. Trong số những người ủng hộ ông có Trần Độc Tú, người sáng lập và là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Stalin lo sợ việc Trotsky bôi nhọ và tố cáo các hành vi tội ác của ḿnh trước thế giới đă mở một phiên ṭa đầu tiên vào tháng 8 năm 1936, gọi là "Trung tâm Khủng bố Trotskyite-Zinovievite" trước cử toạ quốc tế.
Trong vụ xử, Zinoviev, Kamenev và 14 người khác bị buộc tội, đa số họ là những người Bolshevik Cũ nổi tiếng, thú nhận đă âm mưu cùng Trotsky để giết Stalin và các thành viên khác của ban lănh đạo Xô viết. Toà án xác nhận tất cả mọi người đều có tội và tuyên án các bị đơn tội tử h́nh, Trotsky tử h́nh vắng mặt.
Cuộc xử án thứ hai chống lại Trotsky với các bị cáo là Karl Radek, Grigory Sokolnikov, Yuri Pyatakov và 14 người khác diễn ra tháng 1 năm 1937, thậm chí với nhiều cái gọi là âm mưu và tội ác hơn. Tháng 4 năm 1937, một "Ủy ban Điều tra" độc lập về các cáo buộc chống lại Trotsky và những người khác tại "Các vụ xử án Moscow" được tổ chức tại Coyoacan, với John Dewey là chủ tịch.
Vào năm 1938 tại Pháp Trotsky và những người ủng hộ ông, những người tin rằng Quốc tế Cộng sản đă bị phe Stalin kiểm soát hoàn toàn, và không c̣n khả năng lănh đạo giai cấp công nhân quốc tế giành lấy chính quyền.
V́ vậy, họ đă thành lập "Đệ Tứ Quốc tế" như một tổ chức đối trọng. Nhiều nhà hoạt động của tổ chức này bị mật vụ NKDV truy lùng. Những người ủng hộ Liên Xô cáo buộc Đệ Tứ Quốc tế là một tổ chức phản động.
Khi tự xưng là Đệ Tứ Quốc tế (hoặc "Thế giới Cách mạng Xă hội Đảng"), phe Trotsky nhấn mạnh họ kế thừa truyền thống cách mạng từ Quốc tế Cộng sản và những tổ chức tiền thân, nhưng chỉ công nhận 4 kỳ đại hội đầu tiên của Quốc tế Cộng Sản, và cho rằng tổ chức đă đến hồi thoái trào. Phe Trotsky tin rằng Đệ Nhị Quốc tế và Quốc tế Cộng sản không c̣n khả năng hoạt động như những tổ chức cách mạng vô sản thế giới theo các nguyên tắc cách mạng xă hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế. Trotsky viết rằng Đệ Tứ Quốc tế có nhiệm vụ "ngăn chặn chiến tranh; lật đổ chế độ nô lệ của giai cấp tư sản; vạch trần bản chất xảo trá của Đệ Nhị, Đệ Tam và Amsterdam" Đệ Tứ Quốc tế bị chia rẽ lần đầu tiên vào năm 1940, đến năm 1953 th́ chia rẽ lần hai. Dù năm 1963 có tái hợp một phần, nhưng nhiều nhóm vẫn tuyên bố ḿnh chính là người kế thừa chính trị hợp pháp của Đệ Tứ Quốc tế.
Tới cuối năm 1939 Trotsky đồng ư tới Hoa Kỳ để xuất hiện như một người làm chứng trước Ủy ban Dies của Hạ viện, một tiền thân của House Un-American Activities Committee. Người đại diện Martin Dies, Chủ tịch uỷ ban, đă yêu cầu ông làm chứng sự đàn áp Đảng Cộng sản. Trotsky dự định sử dụng diễn đàn để phơi bày các hành động của NKVD chống lại ông và những người ủng hộ. Ông cũng nói rơ rằng ông cũng dự định tranh luận chống lại sự đàn áp Đảng Cộng sản Mỹ, và sử dụng uỷ ban như một diễn đàn cho một lời kêu gọi chuyển đổi chiến tranh thế giới trở thành cách mạng thế giới. Nhiều người lên tiếng phản đối sự xuất hiện này. Khi uỷ ban biết được tính chất của bản tuyên bố Trotsky dự định tŕnh bày, họ từ chối nghe ông, và ông bị khước từ visa vào Mỹ. Khi nghe về điều này, những người theo Stalin nhanh chóng buộc tội Trotsky nhận tiền của các trùm dầu mỏ và FBI.
Năm 1939 Trotsky về nhà riêng tại Coyoacán, một vùng phụ cận của Mexico City. Ông ốm, và bị cao huyết áp, và sợ rằng sẽ bị xuất huyết năo. Thậm chí ông c̣n chuẩn bị cho ḿnh một khả năng chấm dứt cuộc đời bằng cách tự sát.
Ngày 27 tháng 2 năm 1940, Trotsky viết một tài liệu được gọi là "Di chúc của Trotsky", trong đó ông thể hiện những suy nghĩ và cảm giác cuối cùng của ḿnh cho thế hệ sau. Sau khi mạnh mẽ bác bỏ những buộc tội của Stalin rằng ông đă phản bội lại tầng lớp lao động, ông cảm ơn những người bạn, và trên tất cả người vợ và những người đồng chí thân thiết, Natalia Sedova, về sự hỗ trợ trung thành của họ.
Ngày 24 tháng 5 năm 1940, Trotsky sống sót sau một vụ tấn công vào nhà ông bởi những kẻ ám sát của Stalin do mật vụ GPU Iosif Grigulevich, họa sĩ và người theo chủ nghĩa Stalin người Mexico David Alfaro Siqueiros, và Vittorio Vidale chỉ huy.
Ngày 20 tháng 8 năm 1940, Trotsky bị tấn công tại nhà ở México bởi một mật vụ của NKVD, Ramón Mercader, ông bị Mercader dùng một chiếc ŕu băng chém ngập vào sọ.
Nhát đánh không chuẩn xác lắm và không giết chết Trotsky ngay lập tức như Mercader dự tính. Các nhân chứng nói rằng Trotsky đă nhổ vào Mercader và đánh nhau dữ dội với anh ta. Nghe tiếng động, các vệ sĩ của Trotsky lao vào pḥng và hầu như giết Mercader, nhưng Trotsky ngăn họ, nhắc lại nhiều lần rằng cần để anh ta sống để trả lời các câu hỏi. Trotsky được đưa tới bệnh viện, tiến hành phẫu thuật, và sống được trong hơn một ngày nữa, chết khi 60 tuổi ngày 21 tháng 8 năm 1940 v́ năo bị tổn thương nghiêm trọng. Mercader sau này nói tại toà:
Tôi đặt chiếc áo mưa lên bàn sao cho có thể lấy được chiếc ŕu băng trong túi ra. Tôi quyết định không bỏ lỡ cơ hội tuyệt vời đang có. Thời điểm Trotsky bắt đầu đọc bài viết, cơ hội của tôi đă đến; tôi rút chiếc ŕu ra khỏi túi áo, nắm chặt trong tay, nhắm mắt lại, giáng cho ông một cú chết người vào đầu.
Theo James P. Cannon, thư kư của Đảng Công nhân Xă hội (Hoa Kỳ), những lời cuối cùng của Trotsky là "Tôi không sống nổi sau vụ này đâu. Stalin cuối cùng đă hoàn thành nhiệm vụ mà ông ta từng không thành công trước đây.
Ngôi nhà của Trotsky tại Coyoacán được giữ ǵn nguyên trạng như ngày diễn ra vụ ám sát và hiện là một bảo tàng do một ban quản lư gồm cả cháu ông là Esteban Volkov điều hành. Giám đốc hiện tại của bảo tàng là tiến sĩ Carlos Ramirez Sandoval dưới sự giám sát của ông bảo tàng đă được nâng cấp nhiều sau nhiều năm bị sao lăng. Mộ của Trotsky nằm trong khu đất của ngôi nhà này.
Trotsky không bao giờ được chính phủ Xô viết chính thức phục hồi, dù trong giai đoạn Cải tổ hầu hết những người Bolshevik Cũ bị giết hại trong cuộc Đại Thanh trừng đă được phục hồi. Nhưng vào năm 1987, dưới thời Tổng thống Gorbachev, Trotsky đă được gọi là "một anh hùng và liệt sĩ", và được in h́nh lên một con tem bưu chính tưởng niệm. Con trai ông, Sergei Sedov, bị giết năm 1937, đă được phục hồi năm 1988, cũng như Nikolai Bukharin. Trên tất cả, bắt đầu từ năm 1989, những cuốn sách của Trotsky, bị cấm cho đến năm 1987, cuối cùng đă được xuất bản ở Liên Xô.
Đến đây câu hỏi vậy thực chất của Chủ nghĩa Trotskyist là ǵ?
Chẳng có Chủ nghĩa Trotskyist nào cả, đấy chỉ là cách nâng quan điểm của cuộc thanh trừng do Stalin đưa ra để loại trừ Trotsky một cách công khai trong đảng.
Thực chất các mâu thuẫn giữa Trotsky với Lenin và Stalin đă có từ những năm 1920, nó chỉ là mâu thuẫn về phương pháp tiến hành cách mạng đặc biệt trong đối ngoại và đă được giải quyết.
Trotsky tự coi ḿnh là một người "Bolshevik-Leninist", kêu gọi việc thành lập một đảng tiên phong. Ông coi ḿnh là một người ủng hộ học chủ nghĩa Mác chính thống. Chính trị của ông khác biệt ở nhiều mặt với chính trị của Stalin hay Mao, quan trọng nhất là sự phản đối học thuyết Chủ nghĩa xă hội trong Một Quốc gia và ông tuyên bố sự cần thiết phải có một cuộc "cách mạng thường trực" trên b́nh diện quốc tế.
Cái gọi là “Cách mạng thường trực” hay “Chủ Nghĩa xă hội trong một quốc gia” chẳng có trong cương lĩnh, hay học thuyết nào của đảng cộng sản Liên Xô, nó chỉ là cách gọi của giới phân tích chính trị. Nó xuất phát từ những quan điểm trái chiều mà đặc trưng của nó thể hiện trong hai sự kiện.
Sự kiện thứ nhất:
Năm 1917 được gọi là năm bản lề của chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh. Lợi thế đă nghiêng sang phía Anh-Pháp-Nga ba bên, ṿng vây trên biển siết chặt kinh tế Đức của Hải quân Hoàng gia Anh đă cho thấy các kết quả. Liên quân Pháp-Anh liên tục mở các cuộc tấn công lớn trên tất cả các mặt trận.
Điều này khiến Chính phủ Đức đồng ư với đề xuất là họ nên ủng hộ Đảng Cộng sản đối lập ở Nga (những người Bolshevik), những người ủng hộ việc Nga rút khỏi chiến tranh. Do đó, vào tháng 4/1917, Đức đă đưa lănh tụ Bolshevik là Vladimir Lenin và 31 người ủng hộ trong một chuyến tàu kín từ nơi lưu đày ở Thụy Sĩ đến Ga Phần Lan, Petrograd.
Sau khi dành được chính quyền Việc Nga có tiếp tục tham gia chiến tranh nữa hay không đă trở nên chia rẽ trong chính phủ xô Viết.
Những người Cộng sản cánh Tả, đứng đầu là Nikolai Bukharin, tiếp tục tin rằng không thể có hoà b́nh giữa một nước Cộng hoà Xô viết và một quốc gia tư bản và rằng chỉ một cuộc chiến tranh cách mạng dẫn tới một nước cộng hoà Xô viết toàn châu Âu mới mang lại hoà b́nh bền vững.
Họ chỉ ra những thành công của Hồng quân cách mạng mới được thành lập (ngày 15 tháng 1 năm 1918) trước các lực lượng Ba Lan của Tướng Józef Dowbor-Muśnicki tại Belarus, các lực lượng Bạch vệ tại vùng Don, và các lực lượng độc lập của Ukraina như một bằng chứng cho thấy Hồng quân có thể đẩy lùi các lực lượng Đức, đặc biệt nếu việc tuyên truyền và chiến tranh không cân xứng được sử dụng.
Họ không coi việc đàm phán với người Đức như biện pháp thể hiện các tham vọng đế quốc của Đức (lănh thổ, bồi thường, vân vân) với hy vọng đẩy nhanh cuộc cách mạng Xô viết sang phương Tây, nhưng họ kiên quyết phản đối việc kư bất kỳ hiệp ước hoà b́nh nào.
Trong trường hợp một tối hậu thư của Đức, họ ủng hộ việc tuyên bố một cuộc chiến tranh cách mạng chống Đức nhằm tạo cảm hứng cho những người công nhân Nga và châu Âu đứng lên chiến đấu cho chủ nghĩa xă hội.
Ư tưởng này được Những người xă hội chủ nghĩa cách mạng cánh Tả ủng hộ, khi ấy lực lượng này là đối tác chính của những người Bolshevik trong chính phủ liên minh. Và Trotsky đứng về những người Cộng sản cánh Tả.
Lenin, người lúc đầu từng hy vọng một cuộc cách mạng Xô viết nhanh chóng tại Đức và các vùng khác của châu Âu, nhanh chóng quyết định rằng chính phủ đế quốc Đức vẫn nắm quyền kiểm soát chặt chẽ và rằng, nếu không có một đội quân Nga hùng mạnh, một cuộc xung đột quân sự với Đức sẽ dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ Xô viết tại Nga.
Ông đồng ư với những người Cộng sản cánh Tả rằng chỉ một cuộc cách mạng Xô viết toàn châu Âu mới giải quyết được mọi vấn đề, nhung tới lúc đó những người Bolshevik phải nắm quyền lực. Lenin không lưu ư tới việc kéo dài quá tŕnh đàm phán để đạt hiệu quả tuyên truyền tối đa, mà, từ tháng 1 năm 1918 trở về sau, ủng hộ việc kư kết một hiệp ước hoà b́nh riêng rẽ nếu phải đối mặt với tối hậu thư của Đức.
Trotsky có phần giống như Lenin, ông cho rằng quân đội Nga cũ kỹ, được thừa hưởng từ nền quân chủ và Chính phủ Lâm thời và đang ở trong giai đoạn tan ră, không đủ khả năng chiến đấu.
Rằng chúng ta không thể chiến đấu nữa là điều rơ ràng với tôi và rằng Hồng binh và các chi đội Hồng quân mới được thành lập quá nhỏ và không được huấn luyện đủ để chống với người Đức.
Nhưng ông đồng ư với những người Cộng sản cánh Tả rằng một hiệp ước hoà b́nh riêng rẽ với một cường quốc đế quốc sẽ là một cú đấm mạnh về tinh thần và vật chất với chính phủ Xô viết, phủ định mọi thắng lợi quân sự và chính trị của giai đoạn 1917 và 1918, làm phục hồi lại sự kháng cự từ bên trong.
Ông cho rằng bất kỳ một tối hậu thư nào của Đức cũng cần phải bị bác bỏ, và rằng điều này có thể dẫn tới một cuộc nổi dậy tại Đức, hay ít nhất khiến những binh lính Đức nảy sinh ư tưởng bất tuân lệnh các sĩ quan tới bất kỳ cuộc tấn công nào của ĐỨc sẽ là một h́nh thức tước đoạt lănh thổ rơ ràng. Ông đă viết năm 1925:
- Chúng tôi bắt đầu các cuộc đàm phán hoà b́nh với hy vọng khuấy động đảng công nhân của Đức và Áo-Hung cũng như các nước Đồng minh khác. V́ lư do này chúng tôi buộc phải tŕ hoăn các cuộc đàm phán càng lâu càng tốt để mang lại thời gian cho công nhân hiểu được thực tế chính của chính cuộc cách mạng Xô viết và đặc biệt là chính sách hoà b́nh của nó.
Nhưng có một câu hỏi khác:
- Liệu người Đức vẫn có thể chiến đấu? Liệu họ có ở lập trường để khởi động một cuộc tấn công vào cách mạng sẽ giải thích sự chấm dứt của chiến tranh? Làm cách nào chúng ta biết được tư tưởng của những người lính Đức, làm cách nào để t́m hiểu nó?
Trong suốt tháng 1 và tháng 2 năm 1918, quan điểm của Lenin được ủng hộ bởi 7 thành viên Ủy ban Trung ương Bolshevik và lập trường của Bukharin được 4 người ủng hộ. Trotsky có 4 phiếu (ông, Felix Dzerzhinsky, Nikolai Krestinsky và Adolph Joffe) và, bởi ông giữ sự cân bằng quyền lực, ông có thể theo đuổi chính sách của ḿnh tại Brest-Litovsk. Khi ông không thể tŕ hoăn các cuộc đàm phán được nữa, ông rút khỏi những cuộc đàm phán ngày 10 tháng 2 năm 1918, từ chối kư kết những điều khoản khe khắt của Đức.
Sau một giai đoạn ngắt quăng ngắn, các Cường quốc phe Trục cảnh báo chính phủ Xô viết rằng họ sẽ không duy tŕ thời gian ngừng bắn sau ngày 17 tháng 2.
Tại thời điểm này Lenin một lần nữa cho rằng chính phủ Xô viết đă làm mọi việc có thể để giải thích lập trường của ḿnh với công nhân phương Tây và rằng đây là thời điểm để chấp nhận các điều khoản. Trotsky từ chối ủng hộ Lenin bởi ông đang đợi xem liệu các công nhân Đức có nổi dậy không và liệu các binh sĩ Đức có từ chối tuân lệnh không.
Đức tái thực hiện các chiến dịch quân sự ngày 18 tháng 2. Trong ṿng một ngày, mọi thứ trở nên rơ ràng rằng quân đội Đức có khả năng tiến hành các chiến dịch tấn công và rằng các chi đội Hồng quân, c̣n khá nhỏ, được tổ chức và chỉ huy kém, không thể đương đầu với họ.
Buổi chiều ngày 18 tháng 2, Trotsky và những người ủng hộ ông trong uỷ ban bỏ phiếu trắng và đề nghị của Lenin được chấp nhận với tỷ lệ 7-4. Chính phủ Xô viết gửi một điện tín tới phía Đức chấp nhận các điều khoản cuối cùng của hiệp ước hoà b́nh Brest-Litovsk.
Đức không trả lời trong ba ngày, và tiếp tục tấn công mà không gặp phải nhiều kháng cự.
Câu trả lời của họ đến vào ngày 21 tháng 2, nhưng những điều khoản đề xuất quá nặng nề khiến thậm chí Lenin cũng có một thời gian ngắn cho rằng chính phủ Xô viết không c̣n lựa chọn nào khác là chiến đấu.
Nhưng cuối cùng uỷ ban một lần nữa bỏ phiếu với tỷ lệ 7-4 ngày 23 tháng 2 năm 1918; Hiệp ước Brest-Litovsk được kư ngày 3 tháng 3 và được phê chuẩn ngày 15 tháng 3 năm 1918. Bởi quá gắn bó với chính sách của phái đoàn Xô viết trước kia tại Brest-Litovsk, Trotsky từ chức Dân uỷ Ngoại giao để loại bỏ trở ngại có thể có với chính sách mới.
Sự kiện thứ hai:
Đầu năm 1920 những căng thẳng giữa Liên Xô và Ba Lan cuối cùng đă dẫn tới cuộc Chiến tranh Ba Lan-Xô viết. Trong thời gian chuẩn bị và trong cuộc chiến, Trotsky đă cho rằng, Hồng quân đă kiệt sức và chính phủ Xô viết phải kư một hiệp ước hoà b́nh với Ba Lan càng sớm càng tốt. Ông cũng không tin rằng Hồng quân có thể có sự ủng hộ từ bên trong Ba Lan. Lenin và những người lănh đạo Bolshevik khác cho rằng những thắng lợi của Hồng quân trong cuộc Nội chiến Nga và trước người Ba Lan có nghĩa rằng, như Lenin đă nói sau này:
Giai đoạn pḥng thủ của cuộc chiến với chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới đă qua, và chúng ta có thể, và phải, lợi dụng vị thế quân sự để tung ra một cuộc chiến tranh tấn công.
Nhưng cuộc tấn công của Hồng quân đă bị đẩy lui trong Trận Warsaw tháng 8 năm 1920, một phần bởi thất bại của Stalin trong việc thực hiện các chỉ thị của Trotsky trong thời kỳ chuẩn bị cho trận đánh có ư nghĩa quyết định. Quay trở về Moskva, Trotsky một lần nữa đề nghị một hiệp ước hoà b́nh và lần này đă thành công.
Qua hai sự kiện cho thấy, Trotsky khi th́ phản đối kư hiệp ước ḥa b́nh với Đức, lúc lại ủng hộ kư hiệp ước ḥa b́nh với Ba Lan cho thấy "cách mạng thường trực” chỉ là cách tô vẽ của Stalin sau này để gán tội cho Trotsky, coi ông như kẻ có mưu đồ chống Lenin có hệ thống, đối lập với học thuyết “Chủ nghĩa xă hội trong một quốc gia” và lấy cớ thanh trừng Trotsky và những kẻ nào theo đường lối của Trotsky là không phải cộng sản.
Stalin bên ngoài ủng hộ “Chủ nghĩa xă hội trong một quốc gia” nhưng ông ta là một con người dối trá. Ngay sau khi thâu tóm quyền lực ông ta đă tiến hành thanh trừng tất cả những ai đă cản bước chân của ḿnh, và bắt đầu suy tôn ḿnh thành lănh tụ của các đảng cộng sản trên toàn thế giới và tuyên truyền về giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa luôn gắn với chủ nghĩa cộng sản quốc tế… mục đích biến Liên Xô trở thành một bá quyền cộng sản.
Chính v́ vậy những người cộng sản Việt nam được đào tạo ở Liên Xô trong thời kỳ này đă bị Stalin nhồi sọ, và những kẻ nào theo chủ nghĩa Trotskyits là kẻ thù của cách mạng, và điều đó dẫn đến sự đối kháng lẫn nhau giữa những người cộng sản theo Stalin, và theo Trotsky một cách mù quáng.
Đệ tứ quốc tế hay đệ nhất, đệ nhị, đệ tam quốc tế là cách gọi do các nhóm cộng sản quốc tế mâu thuẫn nhau thành các phái và được đặt tên như thế.
Kết cục chẳng có “đệ” nào giải phóng được giai cấp vô sản, và chủ nghĩa cộng sản vẫn là giấc mơ và đem đến vô vàn tội ác trong những nhà nước cộng sản.
Thực chất Đệ tứ quốc tế do Trotsky lập nên cũng không có ǵ tư tưởng ghê gớm hay ho hơn các Đệ kia, nó là một liên minh chống lại stalin bằng cách tố cáo Stalin là kẻ độc tài, với những chính sách tàn bạo và phản động… Và những người Cộng sản phản đối Stalin cần có một mặt trận riêng để tiến hành cách mạng.
(C̣n tiếp)
__________________
|