VietBF

VietBF (https://vietbf.com/forum/index.php)
-   Breaking News | Tin Sốt (https://vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=40)
-   -   Sự hoang tưởng quyền lực (https://vietbf.com/forum/showthread.php?t=1877367)

Gibbs 02-10-2024 15:59

Sự hoang tưởng quyền lực
 
1 Attachment(s)

Lịch sử đă chứng minh, dân tộc nào có nền văn hoá cao hơn sẽ thống trị và đồng hoá các dân tộc có nền văn hoá thấp hơn, chứ không phải các trận chiến trên chiến trường.
Tại sao Mông Cổ lại bị đồng hóa ngược bởi Trung Quốc?
Năm xưa Thành Cát Tư Hăn đô hộ Trung Quốc áp đặt sự cai trị của ḿnh lên đất nước này. Thời gian qua đi một điều kỳ lạ là những thế hệ sau này của người Măn lại quên đi cái gốc gác của ḿnh là người Mông Cổ, tại sao vậy ?
Không chỉ người Mông Cổ sau một thời gian quên đi gốc gác của ḿnh hoặc nói cách khác là bị Hán hóa đến bất cứ dân tộc du mục nào từng cai trị Trung Quốc cho dù Nữ Chân, Khiết Đan, Đảng Hạ cũng như vậy, cá biệt đám Tiên Ty sau vài đời c̣n tự ḿnh xưng là Hán nhân quên luôn cái gốc du mục của ḿnh thậm chí đến tên gọi, chữ viết cũng không nhớ.
Ngay từ thời cổ trung, văn hóa, lịch pháp, luật chế của Trung Hoa đă rất đồ sộ, đạt đến độ chín và văn minh vượt trội so với nhiều bộ tộc du mục (nhiều bộ tộc c̣n chưa có chữ viết), giai cấp thống trị du mục mà kể cả người Mông Cô v́ nhiều lư do trong đó có cả vấn đề dân số đă phải áp dụng văn hóa, lễ pháp Trung Hoa, dần dần theo nhiều đời bị ảnh hưởng, hán hóa nghiêm trọng dẫn đến quên nguồn gốc.
Không vô lư khi nói rằng: VĂN HOÁ C̉N, DÂN TỘC C̉N.
Thời gian là con đường vô tận, những ǵ bất hạnh, không đạt được thời gian chính là niềm an ủi, một liều thuốc an thần để con người ta nuôi hy vọng.
Những kẻ nào giỏi reo hy vọng vào đầu người khác, để người khác tin là những bậc kỳ tài.
Tại sao có hàng tỷ người tin vào Chúa, Phật, Ala… những thánh nhân, thánh thần…? Ư thức tôn giáo đi cùng với thời gian, không có giới hạn chẳng có điểm mốc thập kỷ, thế kỷ đạt được thành tựu này thành tựu khác… đă ngấm vào huyết quản của họ.
Tôn giáo dẫn con người đi đến tương lai bằng khai sáng tư tưởng, tạo ra một thứ văn hoá con người v́ con người, không phải văn hoá của chế độ áp đặt lên con người.
Văn hoá mang hơi thở của tôn giáo, được tôn giáo dẫn dắt không phụ thuộc vào chế độ xă hội, đem đến sự trường tồn hàng ngh́n năm nay chính là đức tin, sự giác ngộ.
Ai thúc dục những con nhang đệ tử lên chùa dâng lễ?
Niềm tin nào hàng triệu tín đồ Hồi giáo đổ về thánh địa Mecca?
Hàng tỷ giáo dân thành kính đi nhà thờ mỗi sáng chủ nhật v́ lẽ ǵ?
Hàng ngh́n năm nay, qua bao nhiêu chế độ xă hội, qua biết bao nhiêu triều đại, hàng vạn cuộc chiến tranh…các đạo giáo truyền thống vẫn tồn tại. V́ tôn giáo quyết định văn hoá, tôn giáo tạo ra văn hoá, và đức tin chính là bầu sữa nuôi tôn giáo tồn tại.
Rơ ràng tôn giáo không phụ thuộc vào chế độ, mọi chế độ muốn tồn tại phải dựa vào tôn giáo, giữ ǵn tôn giáo chính là văn hoá.
Tôn giáo quyết định văn hóa mà văn hóa th́ quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết định số phận dân tộc.
Như vậy lịch sử đă chứng minh không có thứ “văn hoá chế độ” được h́nh thành, nếu có nó là phi tôn giáo.
Thế nào là văn hoá của chế độ?
Đây là một thuật ngữ ra đời kể từ khi chế độ cộng sản cầm quyền h́nh thành.
Điều này có nghĩa chính quyền cộng sản xây dựng một nền văn hoá mới cho chế độ, lấy văn hoá chế độ để dẫn dắt con người đi đến tương lai, đạt được các giá trị vật chất, lấy vật chất không phải nuôi dưỡng tinh thần mà chỉ để khao khát đạt được dục vọng, sự hưởng thụ thân xác bằng mọi giá, kể cả bạo lực.
Điểm khác biệt giữa văn hoá h́nh thành từ tôn giáo và văn hoá chế độ là ở chỗ nào?
Văn hoá h́nh thành từ tôn giáo được dẫn dắt bởi các giáo hội, các giáo hội dẫn dắt dân chúng bằng xây dựng đức tin thông qua giáo lư, không phải bằng biện pháp quản lư, chiếm quyền quản lư xă hội, xây dựng nhà nước, lấy tinh thần là mục tiêu hướng tới..
Văn hoá chế độ chỉ h́nh thành khi những người cộng sản cầm quyền. Mục đích của văn hoá chế độ là bảo vệ sự tồn tại của chế độ, thông qua định hướng h́nh thành văn hoá, lấy luật pháp quản lư văn hoá, lấy vật chất định h́nh các mục tiêu phát triển của quốc gia, và văn hoá là công cụ để đạt các mục tiêu ấy.
Văn hoá chế độ là thứ văn hoá phi tôn giáo.
Nó là văn hoá thể hiện quyền lực, bị chi phối bởi quyền lực.
PHẦN 2.
BẢN CHẤT VĂN HOÁ CHẾ ĐỘ.
Trụ sở Viện Triết học nằm trên đường Láng Hạ là một ngôi nhà 4 tầng quanh năm gần như cửa đóng then cài.
Ngày thường là nơi trú ngụ của các hàng quà, hàng nước.
Dịp tết đến cho mấy bà bán hoa thuê bán hàng. Hoa, cây cảnh để trật cả lối ra vào… xem ra nơi trí tuệ đỉnh cao của chế độ cũng chỉ để làm cái chợ.
Thỉnh thoảng các triết gia của chế độ tụ tập về đây theo giấy triệu tập.
Nhiệm vụ của họ không phải dùng thế giới quan và phương luận để phản biện, hay phê phán đường lối chính sách, bởi các vị này tuy học vị, học hàm rất oách giáo sư này tiến sĩ kia nhưng cùng được đào tạo trong một ḷ của đảng.
Thứ kiến thức mà họ được tiếp thu, và dạy dỗ đơn thuần chỉ từ cẩm nang “Triết học Mác- Lê Nin” - Một giáo tŕnh cổ lỗ duy nhất được bê nguyên vẹn du nhập từ Liên Xô cũ.
Công việc chính của Viện Triết học là phục vụ cho Ban tuyên giáo, từ cụ thể hoá đường lối chính sách của đảng, xây dựng nó thành hệ thống lư luận, quan điểm, đường lối … làm sao cho có vẻ khoa học, thực tiễn sinh động.
Họ không làm cái việc đáng phải làm đúng chức năng của ḿnh đó là phản biện, mà trở thành điếu đóm cho chế độ.
Tại sao lại đưa câu chuyện Viện Triết học vào đây?
Nó là một ví dụ cho cách hành xử ngược đời trong chế độ độc đảng cầm quyền, khác với các nước dân chủ - các triết gia nằm trong giới tinh hoa chính trị, họ độc lập không ăn cơm chế độ, cũng chẳng tồn tại theo chế độ, họ uốn nắn xă hội, nh́n nhận xă hội bằng thế giới quan khoa học, dùng các phương pháp luận logic để đánh giá, đo lường đường lối chính sách một cách khách quan, trung thực.
Văn hoá là cách hành xử, vai tṛ của triết gia bị hạ bệ như thế là điển h́nh ứng xử của văn hoá chế độ.
Điều này nó hoàn toàn hợp lư với bản chất của chế độ chuyên quyền.
Một chế độ chuyên quyền, độc đảng cầm quyền dẫn dắt xă hội, “văn hoá đảng” sẽ là văn hoá nền tảng của xă hội, đó là thứ văn hoá mang bản chất quyền lực.
Quyền lực độc tôn, không bị kiểm soát bởi các thành phần khác trong xă hội sẽ đẻ ra các căn bệnh quyền lực.
Những căn bệnh quyền lực này không được ngăn chặn, nó sẽ tạo ra một thứ “văn hoá quan trường”
Văn hoá quan trường của những kẻ nắm vận mệnh quốc gia sẽ chi phối dẫn dắt, là tấm gương cho văn hoá dân tộc, dân chúng đi theo,
Văn hoá chế độ đă làm nát văn hoá dân tộc theo một con đường hủ bại nhất chính là sự biến chất của những kẻ có chức, có quyền - Biến chất, suy đồi từ lối sống đến nhơ nhuốc, bệnh hoạn về mặt tư tưởng, tinh thần.
Các biểu hiện của bệnh quyền lực như thế nào, xin đọc tiếp ở các phần tiếp theo.

Gibbs 02-10-2024 15:59

PHẦN 3.
BỆNH QUYỀN LỰC TRONG CHẾ ĐỘ CHUYÊN QUYỀN.
Kể từ năm 1917 khi những người vô sản ở Nga lên nắm chính quyền, chế độ chuyên quyền được h́nh thành.
Chế độ chuyên quyền có những đặc điểm cơ bản giống chế độ chuyên chế.
Nhưng thay vào một cá nhân độc tài là một đảng độc tài, và dần theo thời gian tại nhiều quốc gia cộng sản h́nh thái chuyên quyền và chuyên chế cùng song song tồn tại, điển h́nh như Bắc Triều Tiên với gia đ́nh nhà họ Kim, và Trung Quốc mới đây là Tập Cận B́nh.
Không ai khác, chính những người cộng sản lại là những người nói về bệnh quyền lực nhiều nhất, v́ theo họ bệnh quyền lực chính là nguyên nhân biến chất thoái hoá trong đảng, đến một mức độ không kiểm soát được sẽ dẫn đến mất đảng, mất chế độ.
Họ chỉ ra rất nhiều căn bệnh trong chế độ chuyên quyền, nhưng ba căn bệnh quái ác nhất đó là:
- Bệnh HOANG TƯỞNG.
- Bệnh GIÁO ĐIỀU.
- Bệnh THAM QUYỀN CỐ VỊ.
Lịch sử đă chứng minh bệnh quyền lực là con đẻ, bản chất của chế độ chuyên quyền, nhưng những người cộng sản không cho như vậy, chính v́ thế họ ra sức dùng các biện pháp để pḥng chống bệnh quyền lực, thậm chí dùng cả bạo lực để chống.
Và trong thực tế càng chống căn bệnh này càng nặng, và đến một đỉnh điểm nào đó tính dân chủ trong đảng cầm quyền bị mất, trong đảng sẽ xuất hiện một nhân vật độc tài. Điển h́nh trong số này là Stalin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro trong quá khứ, họ Kim, Tập Cận B́nh… trong hiện tại.
Những người CS khi cầm quyền họ chống sùng bái cá nhân, lấy dân chủ trong đảng là công cụ nhưng thực tế tất cả các quốc gia cộng sản lại sản sinh ra những kẻ cầm lái vĩ đại.
Lấy đảng cộng sản Trung Quốc làm ví dụ, Mao cầm quyền cho đến khi chết, mọi lời nói của Mao c̣n hơn cả kinh thánh.
Mao chết, cải cách mở cửa Mao bị hạ bệ, tưởng như sự tôn sùng cá nhân đă chấm dứt, nhưng sự chuyên quyền chỉ chuyển từ kẻ này sang kẻ khác.
Tập Cận B́nh trở thành kẻ độc tài mới, thay đổi Hiến pháp, Điều lệ đảng thâu tóm cả ba vị trí quyền lực (Tống bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch quân ủy trung ương) bỏ tư tưởng Mao, tự đưa tư tưởng Tập Cận B́nh vào Hiến pháp, xoá bỏ hai nhiệm kỳ, cầm quyền vô thời hạn.
Với những nhà nghiên cứu về các chế độ chuyên quyền ở phương Tây họ có cách nh́n nhận khác về căn bệnh quyền lực.
Họ cho rằng, những người cộng sản cầm quyền chỉ là dối trá, đạo đức giả.
Hoang tưởng, giáo điều, tham quyền cố vị chính là bản chất của những kẻ độc tài, nó vừa là phương tiện và là mục đích của họ để củng cố quyền lực.
Đây không phải là căn bệnh của chế độ, nó là căn bệnh hủy hoại dân tộc, quốc gia.
Ba căn bệnh này thực chất đó là ba công cụ cai trị, thủ đoạn để bảo vệ chế độ, lúc này là mục đích, lúc khác là phương tiện và ngược lại.
Đến đây chúng ta đă có thể nh́n nhận một cách đúng đắn về bệnh quyền lực, có hai điểm được đúc kết:
- Với chế độ chuyên quyền nó vừa là phương tiện vừa là mục đích - không có hoang tưởng, giáo điều, tham quyền cố vị không phải là chế độ chuyên quyền, không có ba công cụ này chế độ chuyên quyền không tồn tại.
- Việc họ cho rằng, hoang tưởng, giáo điều, tham quyền cố vị là một căn bệnh của đảng cầm quyền chỉ là vỏ bọc nó chính là liều thuốc bổ nuôi sống chế độ chuyên quyền, là độc dược hủy hoại quốc gia, dân tộc.
(C̣n tiếp).

hoaibao 02-10-2024 21:06

Đâu có sao, khi nào tới đó th́ lao đông tại chổ, khỏi cần xuất khẩu lao động nữa, khỏe re, như con người kéo xe, thay v́ con ḅ kéo xe.

NguoiTânĐinh 02-11-2024 00:43

Đất nước của VC làm chủ th́ nó muốn làm cái đéo ǵ th́ cũng.... kệ mẹ nó chứ; c̣n đứa nào muốn giữ nước, đéo muốn bị "Hán hóa" th́ đừng có chơi tṛ đào-ngũ-trước-địch-quân, phải đứng lên "cướp" lại cái đéo ǵ ḿnh cứ cho là của ḿnh, xong xuối th́ ḿnh muốn chống Tàu, chống Hán, chống Thanh, vv... muốn làm đất nước kiểu đéo ǵ th́ ḿnh cứ làm theo ư ḿnh.... Chứ đừng có ngày này tháng nọ "rên rỉ" gần 50 năm mà có đụng tay làm cái đéo ǵ cho ra hồn đâu..... Mẹ bố tiên sư..

hoaibao 02-11-2024 08:54

Cám ơn Bác cho biết : Đât nước là của VC chứ không phải của Toàn Dân Việt, hu hu

Gibbs 02-11-2024 12:44

PHẦN 4.
BỆNH HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC.
- HỘI CHỨNG “HOANG TƯỞNG CUỒNG VĨ”
Người mắc bệnh hoang tưởng và hoang tưởng quyền lực là hai khái niệm khác nhau.
Người bị bệnh hoang tưởng tự hủy hoại chính ḿnh bằng những hành động vô thức.
Hoang tưởng quyền lực không phải chỉ có trong những kẻ có quyền lực mà bất cứ cá nhân, thành phần trong xă hội đều có.
Họ là những người rất thông minh và tài giỏi, nói là căn bệnh nó chỉ mang nghĩa bóng, thực chất họ chẳng có bệnh tật ǵ.
Sự hoang tưởng của họ đều có chủ đích, nó thể hiện khát vọng đạt được tất cả những ǵ mong muốn, có thể bất chấp đạo đức, luân lư, phản khoa học, thậm chí là tội ác.
Với những kẻ không cầm quyền lực, sự hoang tưởng chính là hội chứng “cuồng vĩ” thúc đẩy họ đi đến những hành động kỳ quặc, quái dị.
Trong lịch sử có thể kể đến câu chuyện của Herostratus, kẻ đốt đền thờ Artemis của thành Ephesus (Hy Lạp) vào năm 356 trước Công nguyên.
Xuất thân từ một kẻ buôn tôm cá ở chợ, khao khát nổi tiếng, để tên tuổi cứ ḿnh trở nên bất tử đă thúc đẩy Herostratus đi đến một hành động điên rồ nhưng đầy mưu mô và tính toán bằng việc đốt đền Artermis.
Trước toà án Herostratus không thèm chối tội mà c̣n ngang nhiên thách thức dư luận, tự đắc viết thành hồi kư truyền bá tội ác đốt đền thờ.
Hắn bỏ tiền mua chuộc cai ngục để làm những cuộc mua bán, đổi chác và thành công ngoài sức tưởng tượng. Kẻ phạm tội tự biến ḿnh thành người hùng, thậm chí khiến vợ chồng nguyên soái Tisafern-đứng đầu thành Ephesus- v́ hư danh mà bất chấp địa vị cao quư để đồng lơa với kẻ phạm tội.
Klementin vợ nguyên soái Tisafern chấp nhận dâng xác thân cho Herostratus trong ngục giam để được hắn tuyên bố đốt ngôi đền thờ v́ t́nh yêu bị khước từ của bà ta. Nguyên soái cai quản cả thành Ephesus phát ngôn toàn những lời chính đạo nhưng lại âm thầm thông đồng với kẻ cho vay nặng lăi để nhân bản hồi kư của Herostratus để đổi chác. Ông ta biết rơ người vợ phản bội ḿnh nhưng nhắm mắt làm ngơ để mọi chuyện diễn ra trong êm đẹp, thậm chí phế đi Quan nhiếp chính tham liêm chỉ v́ ông ta không thỏa hiệp với cái ác.
Herostratus dơng dạc trước toà:
“Hăy lột bỏ bộ mặt nhân văn giả tạo đi và quay về truy vấn thời đại của chính các ông. Thời đại của các ông c̣n đầy rẫy những tên tội phạm đang nhởn nhơ ngoài ṿng pháp luật. Thời đại của ông c̣n ghê sợ hơn các thời đại cũ”
Herostratus đă không uổng công, với trí tuệ tuyệt vời, nắm bắt được sự thối nát của hệ thống quan trường lúc ấy, biến sự hoảng sợ, bối rối của giới thống trị đă thổi bùng sự việc lên quá tầm quan trọng để đạt mục đích của ḿnh, bất chấp sự phỉ nhổ của công luận.
Câu chuyện của Herostratus xảy ra cách đây hàng ngh́n năm nhưng tính thời sự, hiện thực vẫn c̣n có giá trị cho đến ngày nay và về sau.
Hội chứng hoang tưởng cuồng vĩ có hai mặt, nó thúc đẩy con người vươn tới những khát vọng, nhưng khi để đạt được mục đích bất chấp các quy luật của tự nhiên, xă hội, luật pháp, luân lư, đạo đức sẽ đẩy con người ta đi đến tội ác, và thảm họa cho nhân loại.
Herostratus là một kẻ xuất thân hèn kém, sự hoang tưởng cuồng vĩ của Herostratus c̣n gây ra những tội ác kinh hoàng như thế, với những kẻ mắc hội chứng hoang tưởng cuồng vĩ cầm quyền lực trong tay, đặc biệt trong chế độ chuyên quyền c̣n gây tác hại cho loài người kinh khủng đến mức nào?
Và Karl Marx ông tổ của những người cộng sản là điển h́nh của kẻ mắc căn bệnh hoang tưởng cuồng vĩ trong thế giới hiện đại chính là một dạng người như Herostratus.
Karl Marx chính là kẻ tiên phong mở đường truyền căn bệnh hoang tưởng quyền lực cho các thế hệ học tṛ sau này với học thuyết về chủ nghĩa cộng sản, đẩy hàng tỷ con người đi t́m kiếm thế giới thiên đường trong hoang tưởng bệnh hoạn của họ.
(C̣n tiếp).

Gibbs 02-15-2024 13:12

Lê Huyền Ái Mỹ: Hôm nay, mồng 5 Tết…
Hôm nay mồng 5 Tết Giáp Th́n, 14-2, kỷ niệm 235 chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đă đánh đuổi 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cơi nước ta. Năm ngày tới, 17-2 (ngày 21 tháng Giêng năm Kỷ Mùi, 1979), tṛn 45 năm cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc, bảo các tỉnh biên giới phía Bắc. Trước đó, cũng những ngày cận Tết, 27 tháng Chạp năm Quư Sửu, tức 19-1-1974, Trung Quốc đă đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam…
Trước khi tiến hành lễ “thệ sư” ở Thọ Hạc, Thanh Hóa, vua Quang Trung đă đọc lời hịch kêu gọi: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy đă phân biệt rơ ràng, phương Nam phương Bắc chia nhau mà cai trị… Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh xưa. V́ vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…”.
Hậu duệ của mấy đời Tống Nguyên Minh xưa giờ vẫn “trông gương”, từ họ Đặng “phải dạy cho Việt Nam một bài học” tới họ Tập vẫn ngang nhiên xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền trên lănh hải Việt Nam.
Nhớ những ngày ra Trường Sa, đang chuẩn bị bài vở cho chương tŕnh phát thanh mỗi tối th́ có tiếng giục của mọi người, cứ thế ḿnh chạy theo. Lên boong trên cùng, mỗi người lần lượt chuyền nhau cái ống nḥm rồi nh́n ra xa cái quần sáng, đó chính là băi đá Châu Viên đă bị bè lũ bành trướng Trung Quốc cưỡng chiếm của Việt Nam từ năm 1988-1989, xây dựng thành đảo nhân tạo lớn nhất ở Trường Sa, từ cuối năm 2013.
Tôi trở về pḥng, lục lọi tư liệu trong… óc để kịp biên bài. Thời may, nhớ sử liệu tháng 8 năm Quư Tỵ 1833. Xin ghi lại: năm ấy, vua Minh Mạng sai bộ Công rằng, “Trong hải phận Quảng Ngăi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó, dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta dễ nhận biết, ngơ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Tối ấy, qua sóng truyền thanh, giọng đọc của chàng chính trị viên hải quân tràn theo sóng biển. Chương tŕnh kết thúc. Tôi lên boong. Một ḿnh. Nh́n về hướng Châu Viên. Lại nhớ giọng nói của vị tướng già Vị Xuyên ngay sau chuyến trở về từ Hà Giang, Lũng Cú, c̣n nhiều anh em nằm lại trên ấy lắm…
Người anh hùng Áo vải đă “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”, sau ngày chiến thắng, Người đă có lệnh “Trẫm muốn không có thứ ǵ phải mua của Tầu cả”. Có người nhắc khẽ: “Có lẽ vẫn phải mua thuốc Bắc của Tầu” và vua Quang Trung đă “gục gặc đầu đồng ư”.
Nay, đâu chỉ phải mua thuốc Bắc không thôi…

Gibbs 02-15-2024 13:12

Trương Nhân Tuấn: Một câu hỏi nhân 45 năm cuộc chiến Biên giới Việt-Trung
Cuộc chiến “Biên giới tháng hai” đến nay đă 45 năm. Trung Quốc gọi tên cuộc chiến là “hoàn kích tự vệ”, mục tiêu là “dạy cho Việt Nam một bài học”. Việt Nam gọi cuộc chiến 17 tháng 2 năm 1979 là cuộc chiến “xâm lược”: “Chiến tranh xâm lược ngày 17-2-1979 là đỉnh cao của những hành động thù địch của lănh đạo Trung Quốc”.
Câu hỏi trước tiên đặt ra: Phía Trung Quốc có gọi tên đúng về cuộc chiến hay không? “Hoàn kích tự vệ” có nghĩa là “đánh trả để tự vệ”. Điều này Trung Quốc muốn nói Việt Nam đánh Trung Quốc trước và Trung Quốc chỉ đánh trả tự vệ.
Sự thật thế nào? Việt Nam “đánh trước” Trung Quốc hồi nào? Ở đâu? Lịch sử có được bạch hóa vấn đề này hay chưa?
Một tài liệu của CIA, Mỹ, được bạch hóa từ năm 2002 được nhà báo Vũ Quí Hạo Nhiên công bố năm 2009 trên báo Việt Tide. Một đoạn trong tài liệu của CIA cho rằng, Việt Nam đă chiếm đất của Trung Quốc khoảng 60 cây số vuông.
Câu hỏi đặt ra là, vị trí 60 cây số vuông đất (nói là Việt Nam chiếm của Trung Quốc) ở đâu? Việt Nam chiếm khi nào? Sau khi phân định lại biên giới tháng 12 năm 1999, vùng đất này thuộc về phía nào?
Ai thắng ai thua trong cuộc chiến?
Trung Quốc nói mục tiêu cuộc chiến là “dạy Việt Nam một bài học”. Vậy Việt Nam có học được “bài học” nào từ phía Trung Quốc?
Tôi thấy có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến đă được các học giả quốc tế lẫn Trung Quốc được công bố. Nhưng một số điểm mờ về cuộc chiến vẫn không thấy tác giả nào giải mă.
Thí dụ: Việt Nam có chiếm 60 km² đất của Trung Quốc hay không? Điều này rất quan trọng, v́ đây là nguyên nhân để Trung Quốc mở cuộc chiến “hoàn kích tự vệ” đối với Việt Nam.
Tại sao cuộc chiến không chấm dứt hẳn, sau khi Trung Quốc rút quân ngày 5 tháng 3 năm 1979? Trên trận địa (Vị Xuyên) tiếng súng vẫn nổ, máu vẫn rơi cho đến hết năm 1989?
Để đánh dấu 45 năm cuộc chiến, theo tôi truyền thông hải ngoại, VOA, RFA, BBC... nên tổ chức các cuộc hội luận để bạch hóa các vấn đề lịch sử này.
Từ tháng 12 năm 2020 Việt Nam đă ra luật về những điều liên quan đến “bí mật nhà nước của đảng”. Tất cả những vấn đề thuộc về lănh thổ, hải phận, chủ quyền lănh thổ, hải đảo... trở thành “bí mật cấp quốc gia của đảng”.
Ta thấy từ thời điểm đó, trong nước tuyệt đối không có một bài báo nào viết về các vấn đề này được công bố trên báo chính thức.
Người ở hải ngoại không lên tiếng th́ ai trong nước dám lên tiếng?
Sự im lặng của tất cả sẽ trở thành thái độ đồng lơa với bóng tối.

Gibbs 02-15-2024 13:13

Dương Quốc Chính: Đi viếng mộ "cô" Sáu
Chiều qua ḿnh đi bộ thể dục lang thang thôi, chả hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà đi bộ thẳng tới nghĩa trang Hàng Dương luôn, khéo cô Sáu chỉ đường quá, không dùng bản đồ ǵ hết!
Lúc đó khoảng 5 rưỡi - 6h chiều, nhập nhoạng tối. Thế nên ḿnh chắc là thằng duy nhất đi tay không, không có đồ lễ, mặc quần short, cũng may là không ngắn trên đầu gối. Chứ cô chưa chồng mà mặc quần đùi tới viếng nó kỳ quá.
Giờ này cũng là giờ bắt đầu tấp nập khách thập phương vào viếng nghĩa trang. Ban đầu ḿnh tưởng vậy, vào trong rồi mới biết là không phải. Có lẽ 90% người dân đi viếng cô Sáu, chứ không ai khác. Nên khu vực quanh mộ cô đông như trẩy hội, cùng với khu trung tâm, có cái tháp cao cao, chứ các chỗ khác th́ không có ai viếng mộ các đồng chí khác, chắc cùng lắm là thân nhân họ (chắc đi trước tết) và mấy cháu cán bộ đoàn.
Như vậy là cô Sáu cân team cho toàn bộ nghĩa trang Hàng Dương, các đồng chí khác cũng được hưởng ké lộc lá của cô. Nói rộng ra, cô cân team cho toàn bộ hệ thống du lịch tâm linh và bán đồ lễ (rất nhiều) ở Côn Đảo.
Các cửa hàng đồ lễ hầu như bán một loại lễ duy nhất, màu trắng đồng bộ (đồ lễ cho người chết trẻ), cho thấy rằng người ta đi viếng mộ ở Côn Đảo chủ yếu là viếng cô Sáu th́ mới có đồ lễ một màu vậy. Một bộ đồ lễ có giá niêm yết tầm 700 ngàn đến 2 củ. Vào nghĩa trang, có xe kéo như trong ảnh, chứ không đội, bê đồ lễ như ở chùa ngoài Bắc.
Mộ đồng phục ở Hàng Dương là kiểu xây đá, có cái cột bia, giống nhau. Đa số vong linh các đồng chí là b́nh đẳng, nhưng vong một số đồng chí khác được b́nh đẳng hơn. Ở đây có một số mộ nổi tiếng là các anh hùng, kiểu cô Sáu, th́ mộ được xây to, ốp đá granite đen sang trọng, có bia đẹp, khuôn viên sạch đẹp.
Đặc biệt là mộ cô Sáu c̣n có thêm hàng rào, kệ để đồ lễ, v́ nhiều quá, có thêm chú bảo vệ đứng gác, dọn dẹp. Với vai tṛ như thế, nên vong cô Sáu chắc làm thủ trưởng ở nghĩa trang này, dù khi c̣n sống, cô chỉ là trẻ trâu, chả có chức vụ, vai tṛ ǵ quan trọng hết, gần như anh Trỗi.
Ở nghĩa trang này, loa đọc oang oang với giọng bà Kim Tiến VTV, các huyền thoại, truyền thuyết về cô/ chị Sáu linh thiêng, vật chết bọn cai ngục ác ôn! Thấy kể cả chuyện chúa đảo thời ông Diệm c̣n bí mật thờ cô. Những chuyện này chả biết thực hư ra sao.
C̣n ḿnh chứng kiến một cô/ em áo dài trắng xinh phết, đến khấn cô, đem cả gương theo soi, trang điểm trước mặt mộ cô, rồi lẩm bẩm là cô độ cho trúng số mấy chục tỷ(!?). Đoạn này ḿnh có video quay bên cạnh nhé.
Nghe đồn là cô Sáu cực linh thiêng, với dân lô đề và AEQL. Thế nên những dịp bầu cử, anh em qua xin cô rất đông. Thường viếng vào lúc nhập nhoạng tối tới nửa đêm là linh nhất, chắc giờ đó vong về dễ! Lúc 6h ḿnh ở đó th́ tầm 50 người khấn vái quanh mộ cô. Đủ thành phần nam phụ lăo ấu, Nam Bắc có hết. Quan chức th́ chắc Bắc nhiều, nhưng lô đề th́ Nam nhiều hơn.
Ở đây c̣n mộ chí sĩ Nguyễn An Ninh, ḿnh nghe loa Kim Tiến nói cả về cụ này. Đại khái hai bên Cộng sản và Quốc gia đều tranh giành cụ về phe ḿnh! Lúc đó tối rồi ḿnh chưa qua viếng cụ được, chắc sẽ quay lại quay video.
Theo ḿnh, vong cụ Nguyễn An Ninh mới đủ tầm để làm sếp ở nghĩa trang này, v́ cụ là người trí thức tầm cỡ, chả theo bên nào, chỉ là người yêu nước, chứ cô Sáu tuổi ǵ. Nhưng ḿnh dự là chả mấy ai biết cụ Nguyễn An Ninh là ai.
Nguyễn An Ninh là một thành viên của nhóm Ngũ Long gồm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành, lấy nick chung là Nguyễn Ái Quốc. Trong đó "bác" ḿnh là trẻ trâu nhất, trong khi bốn người c̣n lại đều là các trí thức có học, có danh tiếng từ trước. Thế mà giờ này, cụ Ninh vai vế tâm linh c̣n thua xa cô Sáu (bị coi là thần kinh... à, mà thôi!). Thật là éo le, đúng là chết trẻ khỏe ma.
Nếu cô thật sự linh thiêng, th́ phong trào cúng viếng này phải từ thời VNCH hoặc ngay sau 1975. Thực tế phong trào này mới rộ được từ khi dân Việt Nam bắt đầu có tiền, lễ bái nhiều. Phong trào này cũng gần như đi vay tiền bà chúa Kho, nhưng an toàn cho tín đồ hơn v́ bố ai dám cấm người dân đi lễ cô Sáu, chứ bà chúa Kho th́ chính quyền dẹp phút mốt.
Bây giờ cô nuôi cả đảo thế này, có mà dẹp vào mắt, dân họ biểu t́nh ngay, v́ mất miếng ăn. Nghe nói sắp cấm hóa vàng thôi, chứ đồ lễ vẫn vô tư và nền công nghiệp du lịch tâm linh này sẽ sống măi trong sự nghiệp của chúng ta.
Tạm thế đă, ḿnh sẽ có video review tổng thể về nền công nghiệp du lịch này và nghĩa trang Hàng Dương.

Gibbs 02-15-2024 13:14

Tạ Duy Anh: Hồi kư Lư Quang Diệu
Sau nhiều gián đoạn v́ công việc và v́ những cuốn sách khác, cuối cùng tôi cũng đă đọc xong hai tập hồi kư dày gần 1600 trang sách khổ to của ông Lư Quang Diệu.
Có rất nhiều điều để nói về cuốn hồi kư đồ sộ này và chúng không chỉ cần phải có cảm hứng mà cần cả thời gian nữa.
Sau đây chỉ là vài tóm lược vắn tắt nhất về bộ sách.
Trước hết Lư cho thấy ông có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa Trung Hoa, các nước Đông Nam á, văn hóa Hồi Giáo, nền chính trị Anh quốc và châu Âu, văn hóa chính trị Hoa Kỳ, mô h́nh cai trị kiểu XoViet...
Từ những hiểu biết và khảo sát các mô h́nh ấy, ông t́m ra mô h́nh phát triển riêng cho Singapore và thành công.
Ông nhận xét, đánh giá về hàng trăm nhân vật chính trị (trong đó có bóng dáng vài nhà lănh đạo Việt Nam) được coi là có ảnh hưởng đến sự thay đổi thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á, trong ṿng một trăm năm qua.
Ông đưa ra các tiên đoán về tương lai của nhiều mô h́nh xă hội, trong đó có cả tương lai của mô h́nh phát triển của Singapore.
Ông cho thấy, cùng với thời gian mọi thứ đều có thể thay đổi. Do vậy những ǵ luôn được tung hô “muôn năm” chỉ là ảo giác do hoang tưởng tự đại, hoặc mị dân một cách có chủ đích.
Xuyên suốt trong tác phẩm của ḿnh, dù nêu ra nhiều khiếm khuyết của mô h́nh chính trị dân chủ Mỹ và cách mà nước Mỹ muốn ở các quốc gia khác, nhưng ông khẳng định bất cứ sự chống đối, gây hấn nào với nước Mỹ, đều ngu ngốc và tất yếu gây thiệt hại lớn cho sự phát triển của đất nước ḿnh.
Phần khảo sát về Trung Quốc khá dài, cũng là phần thú vị nhất. Ông cũng dành ra một số trang để nói về Việt Nam, nhưng khá sơ sài.
(Một người bạn của tôi cho biết, phần viết về Việt Nam của ông Lư, khi dịch sang tiếng Việt đă bị lược bỏ những chỗ ông phê phán hay bày tỏ sự thất vọng. Tôi không có điều kiện và hiểu biết để kiểm chứng).
Chống cộng, nhưng theo xu hướng Xă hội chủ nghĩa, ông Lư đề cao mô h́nh Bắc Âu. Tuy vậy chắc chắn ông là một nhà độc tài. Trong nồi lẩu tư tưởng cai trị của ông có đủ thứ: Nho giáo, kỉ luật chiến binh Nhật, luật pháp Anh quốc, thực dụng Mỹ... và có cả một chút "bác ái" kiểu Thiên chúa giáo?
Nhiều quan điểm về phát triển, về trật tự xă hội, về tự do, về quyền cá nhân của ông chỉ phù hợp với Singapore và không ai có thể biết trước tương lai của nó. Chính ông đă cảnh báo về điều đó. Chẳng hạn ông nghi ngờ về sự trường tồn của đảng PAP, của mô h́nh chính trị do ông dày công tạo dựng và tạo ra sự thịnh vượng, thậm chí ông nghi ngờ cả về khả năng tồn tại lâu dài của một quốc gia kiểu thành bang như Singapore trong một thế giới thay đổi điên loạn (Trang 152 và trang 837, tập II).
Tuy nhiên, những ǵ ông thực hành thành công có thể bị các chế độ độc tài, toàn trị khai thác, quảng bá không phải để thuyết phục dân chúng coi như một lựa chọn đúng đắn, mà chủ yếu để biện hộ cho sự tàn bạo, tồi tệ trong cai trị hà khắc của họ.
Đó là lư do v́ sao các thế hệ lănh đạo Trung Quốc sau Mao luôn t́m cách mang mô h́nh Singapore về áp dụng tại đất nước rộng lớn của họ. Chỉ có điều họ bỏ đi những mẩu dân chủ - dù c̣n h́nh thức - hiếm hoi mà ông giữ lại (Chẳng hạn Lư Quang Diệu quyết định để Ṭa án ở Singapore được xét xử độc lập như thời Anh cai trị, cho phép các đảng đối lập tranh cử công khai với đảng PAP thống soái… để ít ra, như chính ông nói, gây áp lực lên các ứng viên đảng PAP trong việc rèn luyện phẩm hạnh, học tập và khiến đảng cầm quyền phải nỗ lực tiến bộ không ngừng).
Dù có nhiều biện hộ, dù cho thấy là một người đề cao sự trung thực, nhưng chỉ cần tinh ư một chút, vẫn có thể nhận ra không ít chỗ tác giả t́m cách che dấu sự thật mà ông không đủ can đảm nói ra, hoặc nói ra sẽ làm lung lay h́nh ảnh về một "người cha lập quốc huyền thoại" trong suy nghĩ của nhiều người Singapre, cũng như những người hâm mộ ông với tư cách là người kiến tạo nên một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới từ một ḥn đảo nghèo đói, đầy rẫy tệ nạn.
(Chẳng hạn đoạn ông biện hộ về sự cần thiết phải kiểm soát ngôn luận, cấm tụ tập biểu t́nh, những vụ án chính trị được h́nh sự hóa, hay từ chính những phản bác của ông về ư kiến quy cho ông thực hiện chế độ “gia đ́nh trị”.)
Chắc chắn Lư Quang Diệu là một chính khách lớn của thế giới trong thế kỷ 20.
Với cá nhân tôi, ông c̣n xứng đáng là một nhà văn, nhà văn hóa uyên bác và tinh tế.
Dù thế nào th́ đây cũng là một cuốn sách đáng để đọc và đọc kĩ. Tôi đă phải gạch chân và đánh dấu ngoài lề hàng trăm đoạn, những chỗ mà tôi thấy cần phải nghiền ngẫm tiếp về những điều tác giả viết.
Lư Quang Diệu cũng cho tôi biết, để thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung b́nh và vươn lên hàng ngũ phát triển, một quốc gia phải có tăng trưởng hai con số (từ 12-14% một năm) liên tục ít nhất trong ṿng 30 năm.
V́ thế ông yêu cầu các quan chức cũng như người dân Singapore phải không ngừng cảnh giác với căn bệnh thành tích và thói tự măn.

Gibbs 02-15-2024 13:15

Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận vài ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ 1)
1. Giới thiệu
Ngày 31-1-2024, Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng công bố bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”, (gọi tắt là “bài báo”). Bài dài trên 13.000 chữ, ngoài đoạn mở đầu th́ nội dung gồm ba phần, ứng với ba giai đoạn lịch sử: Từ 1930 đến 1975; từ 1975 đến nay và từ nay đến năm 2030.
Bài báo được các đài, báo “lề đảng” đăng toàn văn với những lời ca ngợi rất hùng hồn. Tôi đă đọc qua một lần và phát hiện một số ư không giống như các lời ca ngợi, xin viết để trao đổi với những ai quan tâm.
Tầm quan trọng của một bài báo là thông tin có mới không, có giúp ích ǵ cho người đọc không, hay chỉ gây nên t́nh trạng để người ta phải than thở “biết rồi, khổ lắm, nói măi”. Chắc GS Trọng đă dự kiến được điều này nên mở đầu bằng câu “Như chúng ta đều đă biết...”.
Mọi người đều đă biết th́, nếu rất cần, chỉ nên nhắc lại một cách tóm tắt, chứ viết dài ḍng mà làm ǵ? Liệu bắt người ta đọc những điều họ đă nghe đến nhàm chán th́ có thể “khơi dậy niềm tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Dân tộc Việt Nam anh hùng; tăng cường niềm tin đối với sự lănh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của Đất nước ta” (câu trích từ đoạn mở đầu) hay không? Thế mà hầu như toàn bộ thông tin được bài báo dẫn ra đúng như tác giả đă viết là mọi người đều đă biết!
Khi mới lướt mắt qua, tôi thấy trong bài báo có những ánh lấp lánh, cố đọc kỹ để mong “đăi cát t́m vàng”, nhưng chỉ t́m thấy cái lấp lánh của những giáo điều. những giáo điều như vậy, được nhắc đi nhắc laị đến nỗi một số khá đông người ngộ nhận đó là sự thật không thể phản bác.
2. Về phần một: Thời kỳ từ năm 1930 đến 1975
Trong phần 1, ông Trọng viết: “Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long … dưới sự chủ tŕ của lănh tụ Nguyễn Ái Quốc… Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đă trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lănh đạo cách mạng. Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đă xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của Dân tộc và nguyện vọng tha thiết của Nhân dân”.
Trong đoạn trên, ít nhất có vài ư không phản ảnh đúng thực tế mà chỉ là những giáo điều. Thứ nhất là năm 1930 mà cho rằng giai cấp công nhân của Việt Nam đă trưởng thành là khó chấp nhận. Giáo điều ở chỗ cho rằng, đă là đảng Cộng sản th́ phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trong lúc những người đến hội nghị hợp nhất không có ai đại diện cho cho công nhân cả. Ngay bây giờ cho rằng, Đảng là “đội tiên phong của giai cấp công nhân” cũng là giáo điều hạng nặng.
Giáo điều thứ hai ở chỗ cho rằng, giai cấp công nhân lănh đạo cách mạng. Thực ra lănh đạo Cách Mạng Tháng Tám là Việt Minh, một tổ chức do Đảng lập ra gồm những người yêu nước mà chủ yếu là các trí thức trẻ. Đặt ra giai cấp lănh đạo là một sự suy diễn của Mác – Lênin, thực tế không tồn tại sự lănh đạo như vậy.
Điều thứ ba là, sự lập lờ về “Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập”. Luận cương đoàn kết dân tộc chống thực dâp Pháp do Nguyễn Ái Quốc đưa ra, được thông qua, nhưng sau đó đă bị Tổng bí thư Trần Phú loại bỏ để thay bằng khẩu hiệu “trí phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Khi Hồ Chí Minh lănh đạo Việt Minh mới khôi phục được phần nào luận cương của Nguyễn Ái Quốc. Cách tŕnh bày của bài báo có thể làm người ta hiểu nhầm giữa Luận cương của Nguyễn Ái Quốc và luận cương của đảng do Trần Phú đề xuất.
Ngay sau khi thành lập đảng đă vội tiến hành cách mạng đấu tranh giai cấp bằng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và đă thất bại. Phong trào này chỉ thể hiện tinh thần hy sinh anh dũng của nông dân và một số đảng viên chứ không thể hiện một chút tài năng nào của lănh đạo đảng, chưa chứng tỏ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê. Nó chỉ thể hiện sự giáo điều về đấu tranh giai cấp.
Nhận xét về các phong trào yêu nước trước năm 1930, bài báo có đoạn: “Song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối đúng, các phong trào đó đă không thành công. Lịch sử đ̣i hỏi phải t́m con đường mới”. Bài báo cho rằng, con đường và chủ nghĩa Mác – Lê do đảng Cộng sản chọn là hoàn toàn đúng, v́ Cách Mạng Tháng Tám “long trời lở đất” và kháng chiến chống Pháp 9 năm đă thắng lợi.
Đây là một đánh giá thiên lệch. Thực chất của cuộc Cách Mạng Tháng Tám là Việt Minh huy động lực lượng đông đảo quần chúng cướp chính quyền, chủ yếu bằng biểu t́nh, với tay cầm gậy gộc và hô khẩu hiệu. “Long trời lở đất” bằng cái ǵ khi việc đánh nhau bằng tay chân cũng không xảy ra. Cách mạng thành công chủ yếu nhờ lợi dụng được thời cơ, Pháp đă bị Nhật loại bỏ vào ngày 9 tháng 3, Nhật đă đầu hàng Đồng Minh vào đầu tháng 8, vua Bảo Đại đă tuyên bố Việt Nam độc lập vào tháng 4 năm 1945 và chính quyền của Bảo Đại (do Trần Trọng Kim làm thủ tưởng) lúc đó không có quân đội.
Chưa thể kết luận con đường mà đảng Cộng sản đă chọn là hay, là đúng v́ ngay năm 1945 Hồ Chí Minh đă thấy cần sự hợp tác với Mỹ, muốn được Mỹ công nhận. Muốn thế, cần từ bỏ con đường cộng sản. V́ thế, Hồ Chí Minh đă có ư muốn giải tán đảng cộng sản để lập ra đảng mới, có tính dân tộc, nhưng thực chất đảng Cộng sản lại rút vào bí mật. Điều này không qua mặt được t́nh báo Mỹ nên việc thiết lập quan hệ với Mỹ không thành. Từ đó phải kháng chiến chống Pháp 9 năm, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Lại c̣n mất 20 năm chiến tranh mới thống nhất được đất nước.
Con đường mà đảng Cộng sản chọn cho dân tộc đúng sai đến đâu, hiện nay chưa bàn được, c̣n chờ lịch sử phán xét. Nhưng so với các nước thuộc địa khác th́ nhiều nước vẫn giành được độc lập, thống nhất được đất nước mà nhân dân không cần phải đổ máu, đất nước không bị phá nát, t́nh cảm dân tộc không bị rạn nứt như ở Việt Nam.
Cuối phần một, ông Trọng viết: “Nh́n lại chặng đường 1930 - 1975, chúng ta rất đỗi tự hào, tin tưởng và biết ơn sâu sắc Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đă luôn luôn sáng suốt lănh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác… Tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, giành chính quyền về tay Nhân dân... Vừa xây dựng chủ nghĩa xă hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...”
Cho rằng “Đảng lănh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi vang dội khác” là giáo điều và chỉ mới viết ra một phần sự thật. Thế th́ Xô Viết Nghệ Tĩnh thắng lợi vang dội ở chỗ nào, khi mà từ cải cách ruộng đất đến hợp tác xă nông nghiệp bậc cao ở miền bắc, cải tạo công thương ở miền nam sau năm 1975, làm kiệt quệ một nền kinh tế đang trong t́nh trạng phát triển tốt? Chủ trương đối xử tàn bạo với những người bên phía bại trận đă xô đẩy hàng triệu người bỏ trốn, vượt biên, mà không ít đă bỏ xác giữa biển khơi. Rồi những quả đấm thép của kinh tế quốc doanh (là kinh tế chủ đạo) đă làm thiệt hại nhiều ngàn tỷ đồng, đánh mạnh vào nền kinh tế non trẻ; rồi sự phát triển nóng nền kinh tế (để đạt chỉ tiêu này nọ) đă phá nát môi trường vật chất và tinh thần; rồi sự suy thoái về đạo đức, văn hóa, giáo dục và nhiều tệ hại khác th́ có phải là thắng lợi vang dội không? Rồi rất nhiều đảng viên cao cấp bị bắt, bị xử tù v́ đủ thứ tội danh th́ có phải là thắng lợi không? Đảng có phải chịu trách nhiệm ǵ trước dân tộc không?
Chỉ nhấn mạnh vào điều mà Đảng tự cho là thắng lợi vang dội (mà có những việc cũng chưa chắc là thắng hay bại) mà lờ đi những thất bại rơ ràng, th́ đó là sự kiêu ngạo của những người thiếu lương thiện.
Cho rằng cuộc đấu tranh tốn nhiều xương máu và tài sản của nhân dân là nhằm “giành chính quyền về tay nhân dân” là một sự đánh tráo khái niệm. Thực ra chính quyền giành được từ đối phương đă bị Đảng chiếm giữ toàn bộ cho ḿnh mà không chịu trả lại cho dân. Thể hiện rơ nhất là, chỉ có đảng viên mới được giữ những chức vụ then chốt, Quốc hội là do Đảng cử dân bầu. Không những chính quyền mà đất đai, tài sản quốc gia Đảng cũng tự xem là của ḿnh tuốt tuồn tuột.
Cho rằng, Đảng “vừa xây dựng chủ nghĩa xă hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…”.
Viết như thế về miền bắc là chỉ mới nói ra một phần sự thật, v́ trong những năm trước 1975, ở miền bắc có chống chiến tranh phá hoại, là rơ ràng, c̣n xây dựng xă hội với hợp tác xă nông nghiệp bậc cao, không cho dân tự phát triển sản xuất, đến nỗi bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc phải bị giằng xé nội tâm, dẫn đến trọng bệnh. Xă hội như vậy không thể là xă hội chủ nghĩa như ông Trọng định nghĩa, mà là một h́nh thái ǵ đó rất gần với xă hội nô lệ.
(C̣n tiếp)

Gibbs 02-15-2024 13:15

Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận một số ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ 2)
3. Về thời kỳ từ năm 1975 đến nay (năm 2024)
Mở đầu phần hai, ông Trọng viết: “Sau khi đất nước được thống nhất, nước ta phải đối mặt với nhiều hậu quả rất nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Để khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xă hội trên phạm vi cả nước, Đảng ta đă tập trung lănh đạo xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội 5 năm 1976 - 1980 và 1981 - 1985. Qua đó, hạ tầng kinh tế - xă hội, nhất là các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, thuỷ lợi từng bước được khôi phục. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được chăm lo phát triển, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước”.
Sau chiến tranh mọi khó khăn đổ lỗi cho nó là quá đơn giản, nhưng điều đó chỉ đúng một phần cho miền Bắc mà không đúng cho miền Nam, nơi vẫn giữ được nền kinh tế khá phồn vinh. Chỉ đến khi ông Đỗ Mười vào thực hành cải tạo công thương nghiệp, không cho làm kinh tế tư nhân, đưa người đi làm kinh tế mới, ngăn sông, cấm chợ, cấm tư nhân buôn bán th́ đă xô cả nền kinh tế xuống vực thẳm. Sai lầm này của ông Mười được Đảng lờ đi, không nhận.
Ở miền Bắc, Đảng bắt ép nông dân vào hợp tác xă, làm cho sản xuất nông nghiệp tŕ trệ. Nhiều người thợ thủ công tài giỏi như vua lốp Nguyễn Văn Chấn, làm ra nhiều sản phẩm có ích cho xă hội th́ bị cấm đoán, bị tịch thu, bị bắt giam, đời sống của cán bộ thường và người dân rơi vào cảnh cùng quẩn chứ không được như nhận xét của bài báo. Chỉ có cán bộ cấp cao, được cung cấp hàng hóa giá rẻ, mới có thể sống ung dung được.
Bài báo viết về “đổi mới”, với việc cho làm kinh tế tư nhân, mở cửa đón đầu tư từ nước ngoài, phát triển ngoại thường, nhờ thế mà đă khôi phục được kinh tế. Nhưng đó thực chất là sửa sai, làm trái với đường lối kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lê chứ chẳng đổi mới ở đâu cả.
Ông Trọng viết tiếp: “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xă hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp”. Nhận thức được như vậy, với người có hiểu biết th́ nên tạm dừng lại để nghiên cứu xem có khả năng chọn sai đường hay không, nếu chọn sai th́ phải t́m cách đổi hướng. Cứ nhắm mắt, bịt tai “đâm lao phải theo lao” là thái độ của người cố chấp, bảo thủ, cuồng tín.
Bài báo tiếp: “Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa là một đột phá lư luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lư luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới”.
Cho rằng đưa thêm cái đuôi “định hướng XHCN” là đột phá lư luận và sáng tạo, là sự suy diễn thiếu căn cứ. Như chỗ tôi biết được, phải chăng đó chẳng qua là câu trao đổi bất chợt của hai đảng viên mà một ủy viên Bộ Chính trị khóa IX nghe được. Nhưng cái đuôi ấy chỉ được dùng trong nước. Với nước ngoài, chính phủ Việt Nam muốn vận động người ta công nhận nền kinh tế thị trường th́ phải cắt đuôi. Tuy vậy cũng chưa thuyết phục được ai.
Thực ra kinh tế thị trường có kiểm tra, giám sát của nhà nước đă xuất hiện từ lâu ở nước Anh, chỉ là trong định hướng XHCN phải chấp nhận sự lănh đạo của đảng Cộng sản.
GS Trọng viết: “Phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống c̣n, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đ́nh hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xă hội, thực hiện b́nh đẳng”. Đoạn này viết đúng sách, nhưng nh́n vào thực tế th́ thấy Đảng nói như thế nhưng không làm được thế. Trong mấy chục năm qua đạo đức xă hội xuống cấp, văn hóa và giáo dục suy thoái. Đảng với vai tṛ lănh đạo toàn diện không được thoái thác trách nhiệm về các việc đó.
Trích trong bài báo: “Mô h́nh chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lănh đạo, Nhà nước quản lư và Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xă hội chủ nghĩa… Đảng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ…”
Mô h́nh nhà nước ba cấp (Đảng lănh dạo, nhà nước quản lư, nhân dân làm chủ) là mô h́nh tạo ra sự chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, kém hiệu quả, lăng phí. Cũng đă có người thấy ra nhược điểm của nó và chủ trương “nhất thể hóa” vị trí người đứng đầu bên Đảng và chính quyền, nhưng bộ máy vẫn giữ nguyên, chỉ khắc phục được chút ít mà thôi. Cơ chế này nên được thay thế chứ không nên kéo dài.
Cho rằng “Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN và Đảng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ” là một cách tuyên truyền, không phản ảnh đúng sự thật, không những đối với toàn dân mà nhiều quy định về bầu cử trong Đảng là trái với dân chủ. C̣n việc Đảng cử dân bầu quốc hội là một dẫn chứng rơ ràng về dân chủ giả hiệu.
Cũng theo ông Trọng viết trong bài báo: “Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung b́nh gần 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỉ đô la Mỹ”.
Khi nói về tăng trưởng kinh tế, Đảng thấy rất rơ vai tṛ lănh đạo của ḿnh mà quên mất hai nhân tố quan trọng hơn là nhờ vào vị trí địa lư và tài nguyên của đất nước, nhờ vào sự năng động, sáng tạo của các doanh nhân, các trí thức Việt. Chính v́ phát hiện ra điều này mà Le Van Vu ngày 27/1/2024, viết bài: “Few countries are better placed than Vietnam to get rich. Yet political paralysis could slow it down”. (Hiếm có nước nào có điều kiện làm giàu tốt hơn Việt Nam, nhưng tê liệt chính trị làm chậm tiến tŕnh).
Trong sách “Tại sao các quốc gia thất bại” tác giả chỉ ra rằng, thể chế chính trị (là dân chủ hay độc quyền tàn bạo) có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hoặc thất bại. Trong lúc thể chế của Việt Nam được Đảng cho là dân chủ, của dân, do dân, v́ dân th́ những người phản biện nhận ra rằng đó là thể chế toàn trị của Đảng dựa vào công an và tuyên giáo. Thể chế đó có phần ḱm hăm chứ không thúc đẩy sự phát triển.
Cứ nhận rằng GDP là 430 tỷ USD th́ một phần đáng kể trong số đó là do tư bản nước ngoài nắm giữ, chúng ta chỉ được cái tiếng. Nhưng với đất nước có dân số như Việt Nam, mà chính thể thật sự dân chủ như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore, Malaysia th́ liệu GDP sẽ nhiều hay ít hơn so với 430 USD? Theo tôi, cũng như theo Le Van Vu và nhiều người khác, th́ sẽ nhiều hơn, có thể đến gấp rưỡi hoặc trên gấp đôi.
Sau khi kể ra nhiều công lao của Đảng, ông Trọng viết: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lănh đạo đất nước”.
Về h́nh thức, đoạn trên phản ảnh đúng một sự thật, nhưng nguyên nhân tại sao? Có phải v́ dân tộc Việt không thể sinh ra người tài giỏi? Không phải như vậy mà chính v́ đảng Cộng sản cầm quyền giành quyền “lănh đạo toàn diện, tuyệt đối”, không chấp nhận bất kỳ ai có ư kiến khác với họ. Công an và ṭa án sẵn sàng đàn áp tàn khốc những người có xu hướng chính trị chỉ hơi khác với chính quyền. Mới sinh ra, chưa kịp thở đă bị bóp chết th́ làm sao có thể trưởng thành để lănh đạo đất nước?
Kết thúc phần hai, ông Trọng viết: “Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: ‘Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay’.”
Nói là khiêm tốn, nhưng thật ra câu đó chứa đầy sự kiêu ngạo cộng sản mà không khó khăn ǵ để phát hiện.
(C̣n tiếp)

Gibbs 02-15-2024 13:15

Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận một số ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ 3)
4. Giai đoạn từ năm 2024 đến năm 2030 (100 năm ngày thành lâp đảng)
Ở đọan đầu của phần ba, ông Trọng viết trong bài: “Chúng ta tự hào, tin tưởng tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng … Để hoàn thành được mục tiêu phát triển kinh tế - xă hội do Đại hội XIII của Đảng đề ra th́ tốc độ tăng trưởng b́nh quân 6 năm 2024 - 2030 phải đạt khoảng 8%... đây là mức rất cao, đ̣i hỏi chúng ta phải có sự quyết tâm cao và nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được”.
Đề ra mục tiêu, chỉ tiêu của phát triển kinh tế không phải thuộc kinh tế thị trường mà là do cái đuôi định hướng XHCN, tàn dư của nền kinh tế kế hoạch, mang nặng chất duy ư chí. Tăng trưởng 8% đối với Việt Nam vào cuối thế kỷ 20, (lúc GDP c̣n qua thấp) là chỉ tiêu dễ đạt được, nhưng khi GDP đă thuộc mức trung b́nh th́ việc tăng thêm 1% đă là khó khăn.
Mục tiêu, chỉ tiêu do đại hội Đảng biểu quyết thông qua, nhưng khi biểu quyết ít có đại biểu hiểu được phải làm sao để thực hiện. Hơn nữa khi kinh tế đang kiệt quệ, việc tạm gác lại các vấn đề liên quan đến môi trường, giáo dục, văn hóa và đạo đức, để ưu tiên phát triển kinh tế là cần, nhưng khi môi trường, giáo dục, văn hóa và đạo đức đang suy thoái mà vẫn ưu tiên phát triển kinh tế th́ chưa phải đă là cách lựa chọn đúng nhất v́ nó tạo ra một xă hội quá quan tâm đến đồng tiền, và khi quá quan tâm đến phát triển kinh tế th́ dễ bị lơ là những lĩnh vực thuộc tinh thần.
Khi đặt ra chỉ tiêu quá cao để đến nỗi rất khó đạt th́ dễ phạm lỗi làm cho qua chuyện để báo cáo, tạo ra lăng phí lớn cho xă hội v́ sản xuất ra những sản phẩm vật chất kém chất lượng, chưa dùng đă hỏng, hay tạo ra thói lập thành tích dỏm, khuyến khích sự dối trá.
Ngoài tầm nh́n đến năm 2030, người ta c̣n vạch ra tầm nh́n đến năm 2045 (một trăm năm thành lập chế độ). Cách tạo ra tầm nh́n là một đặc điểm của xă hội Việt Nam trong những năm gần đây. Đó cũng là một loại duy ư chí, đặc biệt trong một thế giới đầy biến động.
Tiếp đến, bài báo vạch ra những tiêu cực, bất cập trong nhiều lĩnh vực như: “T́nh h́nh trên đây đ̣i hỏi chúng ta tuyệt đối không được chủ quan, tự măn, quá say sưa với những kết quả, thành tích đă đạt được, và cũng không quá bi quan, dao động”. Thực ra, những tiêu cực, những bất cập của xă hội mà bài báo chỉ mới kể loa qua, (c̣n thực tế th́ trầm trọng hơn), Đảng lănh đạo toàn diện phải chịu trách nhiệm về đường lối, như thế th́ “chúng ta” làm sao c̣n đủ tự hào và tin tưởng tiến lên dưới lá cờ của Đảng.
Tiếp theo, bài báo nêu ra những bài học kinh nghiệm chép lại từ nghị quyết. Đọc qua thấy hay, nhưng xem kỹ mới biết rằng, phần lớn các kinh nghiệm được rút ra từ lư luận, được viết theo mẫu, chứ không phải từ hoạt động thực tế.
Cuối phần ba, bài báo dẫn ra vài câu thơ của Tố Hữu ca ngợi Đảng như: “Niềm tự hào, niềm tin đó của Nhân dân ta đối với Đảng từng bước được vun đắp, nâng cao, ngày càng bền chặt hơn qua suốt chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng… Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại và Dân tộc Việt Nam anh hùng; tin tưởng vào sự lănh đạo sáng suốt của Đảng … toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xă hội chủ nghĩa”.
Trên đây là trích dẫn đoạn văn tuyên truyền đầy chất giáo điều, trái với thực trạng. Sự độc quyền Đảng trị đă tạo ra nhiều cán bộ tham nhũng, thoái hóa về đạo đức, trong đó có cả một số ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, lại có cả những “cặp đôi hoàn hảo” gồm bí thư và chủ tịch tỉnh khoác tay nhau vào tù.
Cũng sự độc quyền ấy đă tạo ra nhiều vạn dân oan bị cướp đất, bị phá nhà như ở Vườn Rau Lộc Hưng, Thủ Thiêm, Dương Nội và nhiều nơi khác. Nông dân bị đàn áp, khủng bố như Đoàn Văn Vươn, Lê Đ́nh Ḱnh và dân thôn Hoành, Đồng Tâm, hay dân bị thủy điện xả lũ, cuốn trôi nhiều nhà cửa như ở miền Trung; bị ṭa án kết tội oan sai đến mức tử h́nh bằng những “bản án bỏ túi”, gây ra cảnh “Tiếng oan dậy đất, án ngờ ḷa mây”. Rồi giáo dục, văn hóa, đạo đức suy thoái, những vụ án kinh thiên động đia (Việt Á, Chuyến bay giải cứu, Vạn Thịnh Phát v.v…). Với t́nh h́nh xă hội như vậy th́ làm sao mà: “Tự hào về Đảng quang vinh, … tin tưởng vào sự lănh đạo sáng suốt của Đảng”? Đă từng có phát biểu của một số lănh đạo rằng “Niềm tin của dân vào Đảng ngày càng giảm sút”.
Về thể chế, liệu để xây dựng một đất nước thật sự dân chủ, mọi người được tự do, hạnh phúc, b́nh đẳng, thương yêu và tôn trọng nhau trong cuộc sống ḥa b́nh, hợp tác, có nền sản xuất tiên tiến, có nền văn hóa, nền giáo dục nhân bản, khai phóng th́ có nhất thiết phải xây dựng thể chế XHCN do đảng cộng sản theo chủ nghă Mác – Lê lănh đạo hay không? Câu trả lời dứt khoát là không!
Thực tế sinh động chứng tỏ rằng, Liên Xô và các nước Đông Âu đang xây dựng XHCN giữa chừng th́ bị sụp đổ, mà nguyên nhân cơ bản là không thể giải quyết những mâu thuẫn gay gắt nội tại, những mâu thuẫn đó hiện nay đảng Cộng sản Việt Nam đang mắc phải. Ở Việt Nam, ông Tổng bí thư Đảng công nhận là con đường xây dựng CNXH gặp quá nhiều khó khăn và đến cuối thế kỷ 21 chưa chắc đă làm được.
Một thực tế sinh động khác là tại các nước Bắc Âu. Ở đó người ta không xây dựng XHCN với sự lănh đạo của cộng sản theo Mác – Lê, người ta không gặp một khó khăn, trở ngại nào cả mà đă xây dựng được những đất nước thật sự dân chủ, tự do, hạnh phúc, b́nh đẳng cho tất cả mọi người.
Một tấm gương nữa là lư thuyết “mèo trắng, mèo đen” của Đặng Tiểu B́nh. Với lư thuyết đó Trung Quốc đă phát triển ngoạn mục, tiếc rằng v́ tư tưởng Đại Hán mà Tập Cận B́nh đă đi lệch phương hướng.
Thực ra ông Trọng chỉ mượn tiếng XHCN để che lấp ư đồ chính là xây dựng thể chế do đảng Cộng sản của ông điều hành, có như thế th́ tên của ông mới được hậu thế đặt ngang hoặc cao hơn Hồ Chí Minh. Thế rồi những nhà tuyên truyền cộng sản dựng lên câu chuyện, rằng chính Hồ Chí Minh và toàn dân VN chọn chế độ XHCN. Thực ra nhân dân không chọn ǵ cả, mà bị áp đặt.
Theo Milovan Djilas, thể chế toàn trị của cộng sản đă sinh ra một “Giai cấp mới” đầy quyền lực, tạo ra những áp bức độc ác, thô bạo, phản nhân tính so với áp bức của những thế lực thống trị trước đây (đặc biệt là đối với những người bất đồng chính kiến)
Ông Trọng đă thể hiện một người rất nặng giáo điều, cuồng tín vào lư thuyết cộng sản. Nhân dân Việt Nam chỉ c̣n một số ít, v́ cuồng tín mà tin vào ông c̣n đại đa số không c̣n hy vọng ǵ, họ tin chắc rằng không sớm th́ muộn, sẽ có ngày họ thoát được thể chế toàn trị của cộng sản để xây dựng chế độ thực sự dân chủ.
(C̣n tiếp)

Gibbs 02-15-2024 13:16

Nguyễn Đ́nh Cống: B́nh luận một số ư trong bài báo của TBT Nguyễn Phú Trọng (Kỳ cuối)
5. Thay cho lời kết
Trước hết viết vài điều về chủ thuyết cộng sản. Ông Trọng làm luận án tiến sĩ về “xây dưng đảng”. Thông thường luận án được bắt đầu bằng “Tổng quan”. H́nh như nghiên cứu sinh Trọng được hướng dẫn làm tổng quan chỉ theo một chiều nên đă bỏ qua một tài liệu rất quan trọng là sách “Giai cấp mới” của Milovan Djilas (1911-1995), nguyên là cán bộ cấp cao của Cộng sản Nam Tư, được xếp thứ hai sau lănh tụ Josip Tito (Milovan là người cộng sản gộc, chỉ dưới một người, trên hàng chục triệu người).
Nam Tư từng là một nước trong phe XHCN, nhưng năm 1947 đă bị Stalin khai trừ v́ cho là đi theo con đường xét lại, làm những việc khác với Liên Xô. Tito giao cho Milovan tổ chức nghiên cứu thật kỹ về cộng sản để chứng minh Tito đúng c̣n Stalin sai. Milovan đă tổ chức nghiên cứu một cách khoa học và rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa cộng sản chứa nhiều bất hợp lư, những dự đoán của Mác chỉ là ảo tưởng.
Milovan trung thực báo cho Tito rằng, không những Liên Xô mà Tito cũng phạm sai lầm. Tito đă kết tội và khai trừ Milovan. Sau đó v́ tham gia biểu t́nh phản đối việc các nước theo Liên Xô can thiệp vào Hungari nên ông bị kết án tù ba năm. Trong tù ông viết sách “Giai Cấp Mới” và gửi xuất bản ở nước ngoài.

“Giai cấp mới” là những người có quyền cao trong hệ thống của đảng cộng sản cầm quyền. Ở Việt Nam hiện nay họ được gọi là “Các nhóm lợi ích”. Họ được đảng Cộng sản trao cho rất nhiều quyền hành, trở thành những kẻ áp bức mới, với những thủ đoạn tàn bạo chưa từng có trong lịch sử. Có đọc được “Giai cấp mới”, mới hiểu được bản chất của cộng sản. Milovan nói rằng, “Ở tuổi bốn mươi mà không từ bỏ cộng sản là người không có trí tuệ”.
Cậu bé Trọng có một tuổi trẻ được giáo dục một chiều, rằng chủ nghĩa Mác – Lê là tuyệt đối đúng, là kim chỉ nam của mọi hành động để đưa nhân loại đến hạnh phúc. Theo đúng thói quen thông thường, cậu ta ghi nhận mọi điều dạy bảo của người lớn và biến chúng thành chân lư. Khi làm nghiên cứu, lại gặp phải ông thầy đă bị khống chế bởi ư thức hệ Mác – Lê, cả thầy và tṛ không thể nào thoát ra được.
Tổng bí thư Trọng nói rằng, “đất nước chúng ta chưa có bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Có thể ông nói thực ḷng v́ ông, cùng vói an ninh và tuyên giáo đă dựng lên quanh ḿnh một tường lửa, ngăn chặn mọi thông tin ngược chiều từ xă hội. Ông tưởng nhầm rằng ḿnh đă biết được sự thật qua những báo cáo từ cấp dưới, từ những nguồn thông tin đại chúng, từ các buổi tiếp xúc cử tri được dàn dựng công phu. Có biết đâu ông đă bị lừa.
Ông mặc nhiên cho rằng, những người như Milovan Djilas (Nam Tư), Gorbachev, Yeltsin (Nga), Walesa (Ba Lan), Merkel (Đức) là những tên chống cộng quốc tế, những Trần Độ, Trần Xuân Bách, Vũ Đ́nh Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Minh Chính, Tống Văn Công và nhiều trí thức phản biện khác của Việt Nam là những kẻ phản động, tự chuyển hóa. Đáng lẽ ra ông phải cho người t́m hiểu và đối thoại với họ để t́m chân lư, t́m con đường đúng th́ ông chọn cách “phủ định sạch trơn”, rất dễ cho ông nhưng có hại cho dân tộc.
Ông hô hào: Trên dưới một ḷng, nhất hô bá ứng, dọc ngang thông suốt… chỉ là hô hào suông.
Nhận thức về đảng, phải chăng đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị. Tất cả các đảng chính trị (tạm trừ đảng cộng sản) do một người hoặc một nhóm người lập ra, có cùng chí hướng về một lĩnh vực nào đó của xă hội, chủ yếu là để được cầm quyền bằng cách vận động bầu cử. Riêng đảng Cộng sản Việt Nam và một số đảng cộng sản khác chủ trương giành chính quyền bằng bạo lực với phương châm thể hiện trong lời đảng ca: “Quyết phen này sống chết mà thôi. Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành… Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay ḿnh…”
Theo Lênin, đảng cộng sản phải là đội tiên phong của giai cáp công nhân, phải gồm những người ưu tú. Một thời khá dài, Đảng tuyên truyên rằng, được vào Đảng là vinh dự nhất đời, và Đảng là một tổ chức thiêng liêng mà mọi người chỉ có thể phục tùng vô điều kiện và kính trọng tuyệt đối. Tuyên truyền của Đảng c̣n dựng lên một lănh tụ vĩ đại gần giống như một vị thánh để nhân dân thờ phụng. Đảng đặt ra cụm từ “quần chúng” để phân biệt với “đảng viên”.
Thực ra đảng CSVN về bản chất cũng chỉ là một đảng chính trị, là công cụ của một số chính trị gia bậc cao. Đảng được nhập từ ngoài vào và dựa vào dân, đăc biệt dựa vào ḷng yêu nước của đảng viên và của nhân dân để phát triển.
Xem dân tộc như một cây chủ th́ tổ chức Đảng như một cành tầm gửi, sống nhờ vào nhựa của cây. Đảng chăm lo đến phát triển kinh tế, một phần v́ dân, nhưng chủ yếu là cho Đảng, v́ chi tiêu của Đảng đều lấy từ ngân sách, từ tiền thuế của dân.
Với đảng cầm quyền, ngân sách nhà nước có nghĩa vụ cung cấp một khoản nào đó để hoạt động, nhưng phải công khai, thông qua Quốc hội. Nhưng với đảng CSVN, h́nh như ngân sách nhà nước cũng là của Đảng nên chưa bao giờ thấy Quốc hội thông qua ngân sách cấp cho Đảng. Ở Việt Nam, h́nh như mọi người công nhận việc Đảng tự đặt ḿnh đồng nhất với nhà nước và mọi thứ trên đất này đều thuộc về Đảng, mỗi người dân phải thuộc ḷng câu “Nhờ ơn Đảng nên dân ta mới có được như ngày nay”, rằng mọi người phải nhớ ơn Đảng. Thực ra, nói ngược lại là Đảng phải nhớ ơn dân mới đúng.
Tiếp theo, xin bàn một chút về vị thế ngoại giao của Việt Nam. Trước đây đă từng có những người Việt tự hào rằng, tuy là nước nhỏ nhưng VN xứng đáng là người lính xung kích của phe XHCN, là tấm gương sáng về cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa trong phong trào “ba ḍng thác cách mạng”. Nhưng gương dựng lên rồi để đó, ngoài nước Lào bị khống chế ra chẳng có ai học theo. Đến nỗi, để trả lời sự khoe khoang của ông Phạm Văn Đồng rằng, Việt Nam tự hào đă đánh thắng Pháp và Mỹ, một thủ tướng Thái Lan nói rằng, họ lại tự hào v́ không phải đánh nhau với ai cả.
Gần đây, một số lănh đạo và người dân có một tự hào v́ Việt Nam được nhiều nước kết bạn, công nhận, tôn trọng thể chế và bầu vào một số hội đồng của Liên Hiếp quốc. Người ta tự hào v́ có hai sự nhầm. Một là, Việt Nam có nhiều bạn nhưng không có bạn thân, bạn tốt, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong hoạn nạn. Người bạn Trung Quốc vừa là bạn, vừa là kẻ thù. Việt Nam lại mắc mưu Trung Quốc chủ trương quốc pḥng “bốn không”, tự trói tay chân nếu bị TQ xâm lấn.
Nhầm thứ hai là, Việt Nam đă đạt được sự tin cậy và kính trọng của nhiều nước v́ họ tôn trọng quyền tự chọn thể chế và bầu vào một số hội đồng của Liên Hiệp quốc. Nhầm là lẫn lộn giữa tôn trọng sự lưạ chọn với tin cậy, kính trọng.
Trước đây Mỹ và nhiều nước rất lo ngại việc Cộng sản Trung Quốc và tên lính xung kích Việt Nam sẽ tràn ra khắp Đông nam Á. Nhưng càng ngày càng rơ rằng cộng sản ngày nay chỉ c̣n đủ sức gây ra những bất lợi cho nhân dân do họ thống trị mà không c̣n đủ sức truyền ra rộng răi, dân nhiều nước đă thấy rơ những độc hại của cộng sản mà không bị lừa dối.
Nhận thức rằng, lựa chọn thể chế chính trị, tuy là rất quan trọng, nhưng là quyền tự do của mỗi nước, cũng như kết hôn là quyền tự do của con người trưởng thành. V́ nhân quyền mà người ta tôn trọng sự lựa chọn thể chế, nhưng từ tôn trọng sự lựa chọn, đến cho rằng sự chọn đó là đúng, là hay, dẫn đến sự tin cậy, kính trọng, c̣n một quảng khá xa.
Lấy thí dụ, cạnh nhà bạn có ông bị mắc bệnh aids (sida). Trước đây v́ sợ bệnh dễ lây nên bạn tránh xa, nhưng khi hiểu ra bệnh đó, chỉ làm hại người bệnh mà khó lây cho người khác, nên bạn thỉnh thoảng chào hỏi ông ta, thậm chí cùng ngồi ăn uống với nhau, đối xử với ông b́nh đẳng. Như vậy không có nghĩa bạn xem ông ấy là tốt, đáng tin cậy và kính trọng.
Việc vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, tuy đă tốn nhiều công sức nhưng chưa đạt được, v́ người ta thấy rơ sự thiếu trung thực trong đó. Riêng về việc được bầu vào Hội đồng của Liên Hiệp quốc th́ h́nh như cũng phải tốn nhiều công vận động để có được cái danh hảo mà tuyên truyền, chứ thực chất của việc đó không có ư nghĩa thực tế. Tự hào về những điều vừa kể là tự hào một cách hoang tưởng
(Hết bài)

Gibbs 02-15-2024 13:17

PHẦN 5
HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC DẪN ĐẾN TRANH DÀNH QUYỀN LỰC DƯỚI GÓC ĐỘ LỊCH SỬ.
Hoang tưởng quyền lực thế hiện ở chỗ ham muốn chiếm đoạt quyền lực và khi có quyền lực cố giữ nó bằng mọi giá, mất hết cả lư trí và thường đi đến sự diệt vong.
Cái ṿng ḷng luẩn quẩn này diễn ra không có hồi kết, khi hoang tưởng quyền lực c̣n có đất tồn tại trong những thể chế chuyên chế, chuyên quyền .
Trong lịch sử Việt Nam có nhiều kẻ v́ muốn chiếm đoạt quyền lực của người khác đă không từ một thủ đoạn nào, giết chết người thân thích, phản chủ, sẵn sàng “cơng rắn cắn gà nhà”… không những gây ra những tội ác “trời không dung, đất không tha” c̣n kéo lùi, ḱm hăm sự phát triển đất nước.
…………………….
Ở Việt Nam lịch sử không ít những câu chuyện tranh dành quyền lực tàn khốc, nó diễn ra từ đời Hùng Vương khi đó là một bộ tộc, tiếp theo các triều đại phong kiến và có thể nói đến tận bây giờ.
Lần theo lịch sử, lấy mốc khi người Việt đă h́nh thành nhà nước sẽ thấy tranh dành quyền lực triều đại này nối tiếp triều đại khác, từ chế độ này sang chế độ khác.
- Năm 937, Kiều Công Tiễn giết chết Dương Đ́nh Nghệ, nắm lấy quyền bính, tự xưng là Tiết độ sứ.
Việc Kiều Công Tiễn ám hại chủ tướng để giành lấy quyền bính trái với luân lư đạo thường nên không được các tướng lĩnh và nhân dân ủng hộ.
Chính v́ điều này, con rể của Dương Đ́nh Nghệ đang trấn giữ Ái Châu là Ngô Quyền đă tức tập chuẩn bị binh mă, tiến ra Bắc trả thù. Lo sợ trước sức mạnh của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn lại tiếp tục v́ lợi ích của cá nhân mà bán rẽ độc lập của dân tộc, cầu cứu vua Nam Hán xâm lược nước ta.
- Kế ngay sau đó Năm Mậu Th́n (968) Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt (Nước Việt to lớn), đóng đô ở Hoa Lư (nay là xă Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh B́nh).
Nhà Đinh rơi vào tay nhà Lê chỉ sau 12 năm trị v́ (980) trong âm mưu tiếm quyền của Dương hậu và Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.
Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đă tư thông với Lê Hoàn, chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.
Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Theo lư giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đă đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức bị sát hại.
Cái chết của Đinh Liễn là âm mưu của Lê Hoàn và Dương hoàng hậu.
Lê Hoàn đă cấu kết với thái hậu họ Dương để giành quyền lực từ tay họ Đinh, để Tống có cớ xâm lược nước ta. Chính Lê Hoàn là nguyên nhân lớn nhất để nội bộ nước ta trở nên chia rẽ.
- Cuộc chiến tranh giành quyền lực vẫn tiếp diễn, nhà Lư thay nhà Lê lên cầm quyền vào năm 1009, nhà Tiền Lê tồn tại vẻn vẹn có gần 30 năm.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập ra nhà tiền Lê, Ông đánh bại nhà Tống xâm lược năm 981. Lê Đại Hành có tổng thể 11 người con trai trong đó có 1 người con nuôi, tuy nhiên Ông lại không lập thái tử cho một người con trai nào mà phong vương cho các con trai ḿnh cai quản các vùng đất khác nhau và Ông lập đến 5 bà hoàng hậu.
Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà, nhường ngôi cho con thứ 3 là Lê Long Việt. Tuy nhiên, xảy ra cuộc chiến tranh giành ngôi báu giữa các con trai của Lê Đại Hành.
Lê Long Việt trấn áp các hoàng tử khác, lên ngôi hoàng đế. Tuy nhiên, chỉ trong ṿng 3 ngày Ông bị giết hại.
Lê Long Đĩnh lên thay anh, và lịch sử lập lờ ghi lại, chính Lê Long Đĩnh là người đă giết anh trai của ḿnh để cướp ngôi.
Đến đây lịch sử bị rơi vào màn đêm bí ẩn, không thể giải thích bằng cách nào Lư Công Uẩn lại được đặt lên ngôi vàng một cách đơn giản chỉ v́ Lê Long Đĩnh giết anh trai của ḿnh nhưng khi thấy Lư Công Uẩn đang ôm xác vua mà rên khóc đau đớn, vua cho đây là con người trung nghĩa, thăng chức cho Lư Công Uẩn.
Giết vua giết anh là bất trung bất nghĩa, một con người như vậy, khó mà trọng dụng một con người trung nghĩa?
Lê Long Đ́nh chết năm 24 tuổi, lúc sống dâm dục quá độ, mắc bệnh không ngồi được, đến buổi chầu th́ cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều”.
Tại sao Lư Công Uẩn là trung thần không can ngăn? Cứ cho rằng con vua c̣n quá nhỏ nhưng bấy giờ các anh em của Lư Long Đĩnh vẫn c̣n khá nhiều, là những người có đủ tư cách để kế nghiệp ngai vàng họ Lê, vậy tại sao lại phải chọn một người họ Lư, nắm trong tay binh quyền để nối ngôi?
- Triều Lư tồn tại được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời, lại rơi ngai vàng vào nhà Trần. Sự chuyển giao quyền lực này không hề êm thấm đầy âm mưu và thủ đoạn tàn khốc trong cuộc chiến tranh dành quyền lực.
Sử cũ chép rằng, vào năm 1224, Trần Thủ Độ đă ép Huệ Tông nhường ngôi cho con gái mới lên 7 tuổi là Chiêu Thánh Công Chúa, tức Lư Chiêu Hoàng. Chị của Lư Chiêu Hoàng là Thuận Thiên Công Chúa th́ được Trần Thủ Độ sắp đặt kết hôn với con trai lớn của Trần Thừa là Trần Liễu. Em trai Trần Liễu là Trần Cảnh, cũng vừa 7 tuổi kết hôn với Lư Chiêu Hoàng. Năm 1225, Trần Thủ Độ ép Lư Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Thế là, Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Thái Tông, bắt đầu triều đại nhà Trần.
Bấy giờ, Thái Tông mới có 8 tuổi, nên mọi việc điều do chú họ là Trần Thủ Độ nắm cả. Vừa lên ngôi, Thái Tông đă ban chiếu phong Trần Thủ Độ làm Thái Sư Thống Quốc nắm hết binh quyền. Đối với một ông vua 8 tuổi, th́ rơ ràng việc gia phong này là do chủ ư Trần Thủ Độ cả.
Để củng cố quyền lực nhà Trần, Thủ Độ rắp tâm diệt cỏ tận gốc đối với tôn thất nhà Lư. Năm 1225, Thủ Độ ép Huệ Tông phải tự tử. Sử cũ c̣n chép, năm 1232, nhân tôn thất nhà Lư về tế lễ, Thủ Độ ngầm sai người đào hầm đặt bẫy chôn sống tất cả. Sau đó, để tuyệt được hậu họa, Thủ Độ c̣n lấy cớ là tên của tiên tổ Triều Trần là Trần Lư, v́ thế phải kiên húy chữ Lư, và ra lệnh người họ Lư trong nước phải đổi thành họ Nguyễn.
(C̣n tiếp).

Gibbs 02-15-2024 13:17

TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG GIỮA NHÀ TÂY SƠN VÀ NHÀ THANH TRONG CHIẾN TRẬN 1788.
PHẦN 1.
QUÂN NHÀ THANH.
Số quân Thanh sang Đại Việt được ghi chép trong các sử sách của Việt Nam, của Trung Quốc, cũng như của người phương Tây đương thời có những điểm khác biệt rất lớn. Các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang, Tạ Chí Đại Trường, Trần Gia Phụng đă có những tổng hợp về các nguồn tài liệu liên quan tới vấn đề này; nguồn tài liệu do các nhà nghiên cứu Việt Nam dẫn ra khá tương đồng.
Sự khác biệt giữa các số liệu do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Việc phao tin phóng đại hoặc che giấu bớt lực lượng của các bên, không gian chiến dịch khá rộng (chỉ tính số quân Thanh đóng ở khu vực tác chiến hay tính cả lực lượng vận tải hậu cần ở phía sau), và cả sự phức tạp trong cách tính thành phần của quân Thanh (sử Trung Quốc chỉ ghi rơ số quân chính quy nhưng không ghi rơ số lượng quân địa phương, dân binh đi theo hỗ trợ, cũng không ghi rơ về số lượng quân Lê Chiêu Thống, quân Hoa kiều trợ giúp nhà Thanh).
VIỆT NAM.
Sử sách của Việt Nam như Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Lê Quư Kỷ Sự, Tây Sơn Thuật Lược... không ghi chép rơ số quân Thanh.
Hoàng Lê nhất thống chí có chép lại "Tám điều quân luật" và "Bài hịch" của Tôn Sĩ Nghị. Trong "Bài hịch", Tôn Sĩ Nghị tuyên bố số quân Thanh có 50 vạn. Theo "Tám điều quân luật" th́ "mỗi người lính được cấp một tên phu" (điều 8 ) Vậy số quân Thanh 50 vạn th́ số phu cũng 50 vạn và toàn bộ lên đến 1 triệu người. Hầu hết các nhà sử học đều cho con số 1 triệu chỉ là phóng đại nhằm khoa trương thanh thế. Nhưng nó cũng cho ta biết rằng 1 người lính chính quy sẽ có một người phu đi theo.
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập (Q.30) và Nguyễn Thị Tây Sơn Kư chép số quân là 20 vạn, nhưng không xác định con số đó có bao gồm lực lượng quân địa phương, nghĩa dũng và dân phu hay không.
Tỷ lệ giữa binh lính và dân phu trong các tài liệu cũng không thống nhất. Điều 8 trong "Quân luật" của Tôn Sĩ Nghị quy định 1 lính được cấp 1 phu, trong lúc "Lê Sử Toản Yếu" và "Minh Đô Sử" của Việt Nam lại chép 1 chiến binh có 3 dân binh phục vụ.
Bài Hàng binh Chiếu của Quang Trung do Ngô Th́ Nhậm viết, là tài liệu được công bố ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu. Bài chiếu có đoạn viết:
“Việc Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết tự lượng, đem hai mươi chín vạn quân sang cửa quan, vượt suối trèo non, vô cớ xông vào chỗ hiểm nguy để gây binh hấn, khiến cho các ngươi, một lũ dân đen vô tội phải nằm sương gối tuyết và chết ở ḥn đạn mũi tên. Đó là tội của Tổng đốc nhà các ngươi.”
Theo bài chiếu, tổng số quân Thanh là 29 vạn. Theo ư kiến một nhà nghiên cứu Việt Nam là Nguyễn Phan Quang, bài Chiếu phát phối hàng binh nội địa của Quang Trung là một văn bản chính thức, đương thời, đáng tin cậy. C̣n theo ư kiến của một người Việt Nam khác là Trần Gia Phụng th́ 29 vạn quân tuy do Ngô Thời Nhậm là người trong cuộc viết nhưng đây là một văn thư có tính tuyên truyền nên cũng chưa hẳn sát với thực tế.
Có tài liệu Việt Nam khác th́ viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt có khoảng hai mươi vạn (tức 200.000 quân). Đối chiếu với các tài liệu Trung Quốc th́ con số 20 vạn là khá hợp lư: tài liệu Trung Quốc ghi nhận hai cánh quân Lưỡng Quảng và Vân Quư có 29.500 quân chính quy, 6.000 quân địa phương, 12 vạn dân binh (chưa tính cánh quân Điền Châu), lại huy động thêm khoảng 1 vạn Hoa kiều đang sống ở miền Bắc Việt Nam, vài vạn quân nhà Lê. Nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường kết luận rằng "Tạm thời ta dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính quy và phụ lực của Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu".
NGƯỜI PHƯƠNG TÂY ĐƯƠNG THỜI.
Một số thương nhân, giáo sĩ phương Tây đến Đại Việt vào khoảng thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 có ghi lại trong hồi kư và thư từ, một ít tư liệu về chiến thắng Kỷ Dậu 1789.
Một thương nhân Anh là J. Barrow đến Đại Việt năm 1792 lại ghi nhận một số liệu khác, số quân Thanh là 10 vạn.
Một nguồn thông tin thư từ của một số người nước ngoài sống ở vùng Thăng Long ngay trong thời gian xảy ra trận chiến này. Số thư từ này c̣n được ghi lại trong tập "Nhật Kư của hội truyền giáo Bắc Kỳ" lưu trữ tại Nha văn khố quốc gia Paris. Một bức thư gửi từ Thăng Long đề ngày 25/10/1788 phản ánh một "tin đồn" về 30 vạn quân Thanh sắp kéo sang cứu viện cho Lê Chiêu Thống.
Bức thư của một linh mục trông coi giáo dân ở vùng Thăng Long đề ngày 26 tháng 12 năm 1788 cho biết rơ: "Viện binh Trung Hoa gồm độ 28 vạn người, một nửa đóng trong thành phố, nửa c̣n lại ở bên kia sông". Theo nhận định của Trần Gia Phụng th́:
“Nếu một nửa đóng trong thành phố, nghĩa là có 14 vạn quân Thanh trong thành Thăng Long, th́ thành Thăng Long lúc đó có đủ sức chứa, chỗ ở và nuôi ăn hàng ngày cho quân Thanh không? Ngoài ra, theo tài liệu Trung Hoa, quân Thanh mất hết một nửa khi trở về nước, vậy mất hết khoảng 14 vạn (so với 28 vạn khi ra đi), vừa chết vừa mất tích, trốn chạy th́ con số nầy có thích hợp trong một cuộc chiến bằng vũ khí chưa tối tân? Tuy nhiên con số 28 vạn của tài liệu nầy gần với con số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đă viết trong "Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa". ”
Theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường th́:.
“C̣n về số ước tính của giáo sĩ, ta nghĩ rằng họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người thời loạn trốn chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đă phóng đại ra. Tạm thời ta dùng con số 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính quy và phụ lực của Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu....”
Một tài liệu khác trong hồi kư của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) xuất bản tại Pháp năm 1812 cho biết rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40.000 người và bị giết tại trận khoảng 20.000 người. Do ông De la Bissachère tới Đàng Ngoài năm 1790-chỉ 1 năm sau trận chiến và ở lại cho đến năm 1798 nên Trần Gia Phụng cho rằng "có thể ông (de la Bissachère) thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt"
Nhật kư về những sự kiện đáng ghi nhớ trong địa phận Giáo hội Bắc kỳ từ tháng 10-1788 cho tới cuối tháng 7-1789 ghi rằng "Quang Trung đă cho đem về Phú Xuân và về tân kinh đô tới 2.000 - 3.000 cỗ đại bác và súng thần công (chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác cùng với vô số tiền bạc và (đại khái) tất cả những vật liệu quư giá bắt được của quân Trung Hoa" Dựa theo số lượng chiến lợi phẩm này, có thể thấy số lượng quân Thanh là không dưới vài vạn.
Thư đề ngày 20-1-1790 của giáo sĩ La Mothe gửi cho giáo sĩ Blandin ghi rằng "50.000 binh lính Trung Hoa đă chết v́ tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến" Nếu con số này là chính xác, có thể thấy số lượng quân Thanh (gồm quân chính quy và dân binh) kéo sang Đại Việt chí ít cũng phải 10 vạn.
TRUNG QUỐC.
Đại Thanh Thực Lục, bộ sử chính thức của nhà Thanh, ghi chép đầy đủ những lệnh dụ của vua Thanh cho biết hai cánh quân Lưỡng Quảng và Vân Quư có 29.500 quân chính quy (quân chủ lực tinh nhuệ điều động ở bốn tỉnh phía nam), 6.000 quân địa phương và khoảng 12 vạn dân binh phục vụ vận tải, trong đó:
Cánh quân Lưỡng Quảng do Tôn sĩ Nghị trực tiếp thống lănh. Cánh quân này gồm 8.000 quân chính quy tỉnh Quảng Đông, 13.500 quân chính quy tỉnh Quảng Tây. Tổng cộng có 21.500 quân chính quy (ban đầu có 15.000, sau tăng viện thêm 6.500), ngoài ra c̣n có 1.500 phu chăn ngựa và 751 con ngựa, 20 khẩu phách sơn pháo.
Cánh quân Vân Quư do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy có 8.000 quân chính quy, ngoài ra c̣n có 2.000 con ngựa và 2.000 con ḅ để chở lương thực.
Có khoảng 6.000 quân địa phương đi theo 2 cánh quân trên, nhưng không rơ mỗi cánh quân có bao nhiêu quân địa phương.
Cánh quân Vân Quư có 2 vạn dân binh phục vụ vận tải. Không có ghi chép cụ thể số dân binh phục vụ cánh quân Lưỡng Quảng, nhưng riêng đội quân Quảng Tây thuộc cánh quân này đă có 54.000 dân binh đi theo phục vụ, chưa tính số dân binh của đội quân Quảng Đông (theo lời tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh th́ tổng số dân binh phục vụ cho cánh quân Lưỡng Quảng là hơn 10 vạn).
Các con số trên chưa tính lực lượng cánh quân Điền Châu do Sầm Nghi Đống chỉ huy, nếu tính cả cánh quân này th́ quân Thanh có khoảng gần 40.000 quân và 13-14 vạn dân binh.
Trong "Càn Long chinh vũ An Nam Kư", Ngụy Nguyên đời Thanh khoảng vài chục năm sau có chép tương tự: số quân Thanh là 18.000, trong đó đạo quân Lưỡng Quảng là 10.000 (chưa kể số viện binh sau này) và đạo quân Vân Quư là 8.000. Nhưng Ngụy Nguyên cho biết thêm: "bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo, tiếng đồn đại binh có vài chục vạn". Như vậy, số quân chủ lực có khoảng 18.000 (chưa kể 11.500 viện binh bổ sung sau đó), chưa tính số "nghĩa binh", "nghĩa dũng" và dân phu vận chuyển có mấy chục vạn người. Dù vậy như Ngụy Nguyễn cũng nói, đây chỉ là "tiếng đồn".
Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính của Đại học Irvine, Hoa Kỳ th́ sổ trả lương và kế toán của nhà Thanh ghi gần tương tự, rằng ở phía Đông (vùng Bắc Việt Nam) họ có 10.000 quân, phía Tây có 8.000 và cộng thêm số viện binh theo những nguồn tài liệu khác, sẽ vào khoảng 30.000 quân chính quy. Và cũng trong phân tích này, tiến sĩ có dẫn lại sử gia Ba Lan tên là Wieslaw Olszewski ghi quân Thanh có 200.000 quân (không ghi rơ là loại quân ǵ) sang nước Việt nhưng không rơ số đánh nhau với Tây Sơn là bao nhiêu.
Theo các nhà nghiên cứu Tạ Trí Đại Trường, Phan Huy Lê, Hồ Bạch Thảo và Trần Gia Phụng, sử sách nhà Thanh đă ghi hạ thấp số quân viễn chinh để giảm bớt sự thất bại trầm trọng của triều Thanh.
Các sử gia Trung Quốc đó không ghi chép đầy đủ các lực lượng của toàn bộ quân viễn chinh, nhưng chính những đoạn ghi chép của sử sách nhà Thanh, nhất là bộ Đại Thanh Thực Lục, lại bộc lộ nhiều mâu thuẫn: Số quân vài vạn mà Đại Thanh Thực Lục ghi không tính đến số "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu.
Hơn nữa, với một đạo quân mấy vạn th́ triều đ́nh nhà Thanh không cần phải cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm thống soái, dưới trướng gồm một loạt vơ quan cao cấp như: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Đề đốc Ô Đại Kinh, Phó tướng Khánh Thành, Phó tướng H́nh Đôn Hành; các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lư Hóa Long cùng nhiều Tham tướng, Tri phủ, Tri huyện, v.v...
Nếu chỉ điều mấy vạn quân, Càn Long cũng không phải quan tâm tới mức vài ngày lại ra một chỉ dụ. Báo cáo của các tướng nhà Thanh trước khi lên đường sang Việt Nam có nêu số quân Tây Sơn ở Bắc Hà có 6 vạn (lúc Nguyễn Huệ chưa rút quân về nam), chưa kể quân đội Tây Sơn (3-4 vạn) đóng ở phía nam, nhà Thanh là bên tấn công nên chắc chắn phải huy động số quân chủ lực đông hơn, vậy th́ lực lượng quân Thanh phải vào khoảng 10 - 15 vạn lính chính quy trong tổng số 29 vạn quân, dân binh đủ các loại.
Trong bài viết in trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Nguyễn Duy Chính dẫn lại những tổng kết của Lại Phúc Thuận, một học giả đă dày công dựa vào các tài liệu của Thanh triều như Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Đế thực lục, Khâm định An Nam kỷ lược, Thanh sử cảo, Đông Hoa tục lục và các sổ sách của Bộ Hộ, Bộ H́nh v.v. để biên soạn thành Càn Long Trọng Yếu Chiến tranh chi Quân Nhu Nghiên cứu (乾隆重要戰爭之軍需研究), xác định quân Thanh vào Việt Nam bao gồm quân chính quy và quân phụ trợ. Quân chính quy ở cánh Lưỡng Quảng có 21.500 người (Quảng Tây đợt một 10.000, đợt hai 3.500; Quảng Đông đợt đầu 5.000, đợt sau 3.000), bố trí 4.000 quân đóng ở các quan ải dọc biên, 5.000 quân không theo đại quân mà chia ba toán (2.000 pḥng thủ Lạng Sơn, 1.300 canh giữ 17 kho lương dọc đường Lạng Sơn-Thăng Long, 1.700 canh pḥng các nơi hiểm yếu), chỉ có 12.500 người ở cánh này theo Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh chỉ huy đưa xuống Thăng Long. Số quân phụ trợ (gồm thổ binh phối hợp, mă phu, dân phu) ước mấy chục vạn người.
Theo tính toán của Trần Gia Phụng th́ theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh khi cộng lại có khoảng gần 2 vạn quân chính quy (chưa kể hơn 1 vạn viện binh bổ sung thêm sau đó), thêm đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩnh Thanh không dưới 10.000 người nên khi cộng lại đă được 40.000 quân chính quy. Mỗi quân chính quy lại đem theo ít nhất một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị) th́ số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 80.000. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế theo ông, phải cao hơn nữa do các tướng lănh và sĩ quan Thanh chắc chắn phải đem theo nhiều hơn một người phu, và trước đó để đánh một bộ lạc 150.000 người mà nhà Thanh huy động đến 8 vạn quân, Đại Việt dân đông hơn rất nhiều (khoảng 5 - 6 triệu dân) nên con số 1-2 vạn quân là quá ít.
Tài liệu này khá khớp với tài liệu của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère khi ông cũng ghi lại rằng quân chính quy của nhà Thanh sang Việt Nam năm đó có tối thiểu (đă bị chính sử Trung Quốc ghi chép giảm bớt) 40.000 người. Ông Phụng tin rằng số quân Thanh có thể c̣n cao hơn nữa chút ít, tuy nhiên có thể tạm tin được con số 40.000 quân chính quy (chưa kể số dân binh c̣n đông gấp mấy lần).
(C̣n tiếp).

Gibbs 02-15-2024 13:17

TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG GIỮA NHÀ TÂY SƠN VÀ NHÀ THANH TRONG CHIẾN TRẬN 1788.
PHẦN 2.
QUÂN NHÀ TÂY SƠN.
Nghe tin báo quân Thanh xâm lược, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Bắc B́nh vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Với lư do vua Lê đă bỏ nước và rước giặc về, để có danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng. Để có thêm quân đánh Thanh, vua Quang Trung thi hành chính sách cưỡng bách ṭng quân. Theo tác giả Hoa Bằng, tất cả đinh nam từ 12, 13 đến 60 tuổi đều phải đăng lính.
Theo thư của giáo sĩ La Barette, tất cả nam từ 15 tuổi trở lên đều phải đi lính, người già và phụ nữ phải đi sửa cầu đường.
Theo Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng, cứ 3 suất đinh th́ chọn lấy 1 người đi lính. Trong 10 ngày tuyển quân, Quang Trung đă có thêm khoảng mấy vạn quân, nâng tổng quân số lên tới 10 vạn.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, số quân cũ và mới của Quang Trung là 10 vạn, được tổ chức thành 5 đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra c̣n có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung c̣n tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ư chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Măn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc
KẾT LUẬN.
Theo tổng hợp các số liệu lịch sử có thể thấy chấp nhận số liệu:
Quân nhà Thanh có khoảng 4 vạn, nhà Tây Sơn có khoảng 10 vạn. Cả hai bên không kể đến dân binh.
Ngày trước đánh đồn lũy, pháo đài, thành quách bên tấn công bao giờ cũng phải đông quân hơn.
Nên quân của Tây Sơn được ghi nhận 10 vạn, quân Thanh 4 vạn là hợp lư.
Mặt khác xét về dân số Hà Nội (gồm nội, ngoại thành) cũng chưa đến 50 vạn dân). Khó có lư quân Thanh lên đến 30 vạn, rất khó cho việc cung cấp hậu cần khi đóng quân tại chỗ trong một thời gian dài.
Việc quân Tây Sơn thắng vang dội do những nguyên nhân sau đây:
- Quân Tây Sơn kinh nghiệm trận mạc dày dạn, trải qua thực chiến với nhà Nguyễn, nhà Xiêm.
- Ngoài 200 thớt voi chiến, quân Tây Sơn đă có súng trường, đại bác do phương Tây sản xuất (dù không nhiều) thu được của quân nhà Nguyễn.
Nên biết thêm, nhà Nguyễn đă bán Côn Đảo, Hội An cho Pháp (dù sau này không thành do biến động chính trị ở Pháp) làm tiền đồn đổi lấy vũ khí và trợ giúp đào tạo.
- Diễn biến chiến tranh 1788 có những nét giống chiến tranh 1979, khi những người cầm quyền Bắc Kinh đánh biên giới Việt Nam thực lực của họ không thực sự mạnh, cho nên đánh với bộ đội địa phương, dân quân Việt Nam họ đă khó thắng.
Quân đội Việt Nam có kinh nghiệm chiến đấu gần 20 năm qua hai cuộc chiến tranh đánh Pháp, Mỹ, trang bị hiện đại ít nhất cũng bằng Trung Quốc lúc đó.
Họ tranh thủ bộ đội chủ lực của ta tập trung vào mặt trận Campuchia, cũng như nhà Thanh nghĩ Tây Sơn đang phải đương đầu với nhà Nguyễn.
Nhà Thanh không lường trước, và không đánh giá hết khả năng địch- ta nên đă phiêu lưu phải nhận lấy thất bại cay đắng.
Sau này, Đặng Tiểu B́nh khôn ngoan hơn, nhận thấy ta đưa quân chủ lực ra, vội vă thu quân tránh được một kết cục bi thảm như Đống Đa, Ngọc Hồi.

Gibbs 02-15-2024 15:47

Huy Đức: Có ai biết "Tiếng vọng đèo Khau Chỉa" là cuốn sử liệu đầu tiên về cuộc chiến tranh 17-2-1979
Tháng 2-2023, trong buổi ra mắt cuốn sách được viết bằng cả tâm sức của ḿnh, tác giả Nguyễn Thái Long xúc động nói:
“Hôm nay cuốn sách Tiếng vọng đèo Khau Chỉa đă đưa tôi đến đây, trước quư vị cử tọa khả kính và các độc giả thân mến. Cùng tôi đến đây hôm nay là những đồng đội của tôi - Cựu chiến binh Trung đoàn 567, họ ngồi ở khán pḥng này, bên cạnh tôi. Và, ngoài kia, vong hồn các liệt sỹ Trung đoàn 567. Hơn 500 con người, 44 năm trước đă vĩnh viễn nằm lại ở những cánh rừng, ngọn núi, ven suối, suốt một dải biên giới Cao Bằng, Vị Xuyên. Suốt mấy chục năm sau đó, không mấy ai biết đến họ, nhớ đến họ. Họ bị ch́m đi trong quên lăng…”.
567 là một trung đoàn địa phương quân. Nhiệm vụ của họ là làm đường. Họ không được chuẩn bị về tinh thần, không được trang bị đủ vũ khí cho một cuộc chiến tranh như cuộc chiến Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến Biên giới vào rạng sáng 17-2-1979.
Nhưng ở Khau Chỉa, Tà Lùng, Cao Bằng, Trung đoàn 567 đă chặn đứng mũi tấn công của Quân đoàn 42, Quân khu Thành Đô, Trung Quốc, gồm hai sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn xe tăng T59, một lữ đoàn pháo binh. Chiến đấu trong một tương quan vô cùng chênh lệch, nhưng suốt 12 ngày đêm, họ đă không để cho quân xâm lược Trung Quốc vượt qua được đèo Khau Chỉa, hướng tấn công chủ yếu vào Đông Bắc Cao Bằng.
Trong cuốn “Mười Năm Chiến Tranh Việt Trung” [NXB Đại học Tứ Xuyên 1993], Trung Quốc đă gọi con đường tiến vào thị xă Cao Bằng này là những “khe núi đẫm máu”.
Khau Chỉa - Tà Lùng là những Bạch Đằng, Chi Lăng của Thế kỷ 20.
Chưa có cuốn sách nào viết về cuộc chiến tranh Biên giới khốc liệt và sống động như Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa. Cuốn sách tuy chỉ nói về những trận đánh của Trung đoàn 567 và tập trung ở mặt trận Cao Bằng, nhưng nó vừa rất cận cảnh vừa rất khái quát. Cuốn sách vừa đưa người đọc can dự cái ngột ngạt của những trận đánh, vừa chứng kiến những người lính quả cảm, vừa h́nh dung rất rơ kẻ thù và cuộc chiến tranh này.
Nhưng cuốn sách c̣n khiến ta lắng lại bởi rất nhiều thân phận, đặc biệt là câu chuyện của “Bố Hoan”, vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 567.
Bố Hoan quê ở xă Chính Lư, huyện Lư Nhân, Hà Nam. Ông nhập ngũ 1949. Ông cầm quân mưu lược, xả thân, sát cánh cùng những “đứa con” của ḿnh. Ông trở về không phải đi qua những khải hoàn môn, mà một ḿnh, lầm lũi trên một cỗ xe ngựa ông tự đóng.
Bố Hoan mang cỗ xe ngựa về để thỉnh thoảng chở thóc, chở ngô giúp bà con trong làng; tự chở dần vật liệu để thực hiện niềm khao khát có một căn nhà của riêng ḿnh. Niềm khao khát của một người lính già trận mạc hơn ba mươi năm binh nghiệp.
H́nh ảnh vị Trung đoàn trưởng xuất ngũ được một người lính lái xe bắt gặp trên Đèo Gió, là h́nh ảnh của một thế hệ:
“Bố Hoan, trong bộ quân phục cũ, bạc màu, chiếc mũ cối cũ, chiếc b́nh tông nước đeo bên người sứt sẹo và đôi dép rọ sĩ quan cũng cũ ṃn vẹt gót. Chỉ có chiếc khăn mặt lính màu cỏ úa vắt trên vai là c̣n mới và ướt, không rơ là do mồ hôi hay cụ vừa rửa mặt. Khuôn mặt Bố Hoan đỏ bừng và đẫm mồ hôi lẫn bụi đường đỏ quạch trong cái nắng buổi trưa hè ngột ngạt oi nồng. Bên đường, dưới bóng cây là hai con ngựa đang uể oải nhai bó cỏ…”
Nguyễn Thái Long là một người lính 567 cầm súng trong ngày 17-2, không chỉ anh mà những người lính sống sót trong cuộc chiến ấy đă viết nên Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa.
Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa, có thể nói là cuốn sách đầu tiên của Việt Nam viết về cuộc chiến tranh năm 1979. Mấy năm trước đó cũng có một cuốn tự truyện của thiếu tướng Nguyễn Đức Huy. Cuốn sách cung cấp một tư liệu khá hay về Mặt Trận Vị Xuyên nhưng chỉ xoay quanh vai tṛ của ông và các chỉ huy trong một chiến thắng phá vỡ bế tắc ở Mặt trận này năm 1985. Cuốn sách của tướng Huy không nhắc đến vai tṛ của những người lính.
Những người lính làm nên chiến thắng ấy cũng của Trung Đoàn 567, họ đă đánh chiếm và bám trụ cao điểm A6b, “Ḷ Vôi Thế Kỷ”.
Sau Hội Nghị Thành Đô, người Trung Quốc vẫn cho xuất bản sách [khá phiến diện] về cuộc chiến tranh mà họ phát động, xâm lược nước ta [1993]. Nhưng, cho đến tận hôm nay, dù chỉ c̣n hai ngày nữa là tṛn 45 năm ngày nổ ra chiến tranh, chưa thấy báo đài Việt Nam nhắc ǵ về nó.
Bản thảo của cuốn sách này đă phải đi qua khá nhiều nhà xuất bản và chỉ Nhà Xuất Bản Phụ Nữ mới in nó nhưng vẫn rất dè dặt khi không có một ḍng nhỏ ngoài b́a nói về nội dung cuốn sách. Khá nhiều người Việt Nam nh́n thấy Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa trên giá sách, nhưng có rất ít người Việt Nam biết là cuốn sách nói về cuộc chiến tranh 17-2, cuộc chiến mà người Việt đă đổ không biết bao máu xương để bảo vệ biên cương trước quân Trung Quốc.
Chính những người lính là những người khát khao ḥa b́nh nhất. Nhưng không thể có một biên giới ḥa b́nh bằng cách vụng về che đậy quá khứ. Chỉ khi hiểu trung thực về quá khứ mới kiến tạo được một nền ḥa b́nh vững chắc.

NguoiTânĐinh 02-15-2024 15:55

Tao thấy ngày kỉ niệm Quang Trung đại phá quân Thanh mà lũ thất trận, lũ đào-ngũ-trước-địch-quân, lũ đầu-hàng-vô-điều-kiện, vv... đem ra mà bàn với luận làm tao buồn ỉa quá "chời".... Tao có nói "trái chiều" thế th́ cho là tao thế này với thế nọ, nhưng cảm giác tao thế nào th́ bày thế ấy, chứ tao đéo cần đứa nào phải a-dua tao cả.... Mẹ bố tiên sư...

votongyeuem 02-17-2024 00:45

nguyên nhân chính là đây

https://www.youtube.com/shorts/2jPjHsd4z4k

congluan 02-17-2024 23:18

Quote:

Originally Posted by hoaibao (Post 4844578)
Cám ơn Bác cho biết : Đât nước là của VC chứ không phải của Toàn Dân Việt, hu hu


Tại sao bác lại....hu...hu.. .nhẽ ra phải...ha...ha... mới không bị ghép tội...thế lực thù địch....:hafppy::haf ppy::hafppy: :handshake:

Gibbs 02-18-2024 04:07

PHẦN 6.
HOANG TƯỞNG QUYỀN LỰC DẪN ĐẾN TRANH DÀNH QUYỀN LỰC DƯỚI GÓC ĐỘ LỊCH SỬ.
PHẦN 6 sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta theo ḍng lịch sử đất nước để thấy rằng, lịch sử Việt Nam không phải chỉ có những trang chói lọi trong truyền thống chống ngoại xâm, mà c̣n bi kịch nối tiếp bi kịch trong các cuộc tranh dành quyền lực. Đây là nguyên nhân chính để nước ta le lói nổi lên rồi lại rơi vào cảnh nồi da nấu thịt, ch́m sâu trong đói nghèo, tụt hậu chậm phát triển.
Quyền lực là thứ mê hoặc và ám ảnh lớn nhất của con người. Có những kẻ v́ tham quyền đă để lại tiếng xấu muôn thuở, trở thành những kẻ bán nước cầu vinh bị người đời khinh miệt như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống…
Một số khác dùng quyền lực lũng đoạn triều chính, lũng đoạn nhà nước, thao túng tổ chức … mưu cầu danh vọng cá nhân biến đất nước trở nên vô pháp, bọn cơ hội v́ thế nổi lên đưa đất nước đi đến thảm họa văn hoá suy đồi, đạo đức xuống cấp, tham nhũng cửa quyền, trăm họ sống trong lầm than mất đất, mất quyền làm người….
Lịch sử có giá trị như những bài học cho đời sau qua đó học hỏi rút kinh nghiệm, cái ǵ tốt th́ phát huy, cái ǵ xấu tránh đi vào vết xe đổ.
Nhắc lại lịch sử tranh dành quyền lực của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang cố nắm giữ quyền lực về một tương lai không tốt lành đang đợi họ ở phía trước.
HỒ QUƯ LY CƯỚP QUYỀN NHÀ TRẦN.
Triều đại nhà Trần (1226-1400) tồn tại 174 năm dù đă rút được kinh nghiệm sự sụp đổ của các triều đại trước, bằng cách đưa ra những quy định, luật lệ rất ngặt nghèo, hà khắc để bảo vệ ngôi vàng, nhưng quy luật càng cố bám lấy quyền lực th́ các bệnh quyền lực càng nhanh đến, càng nặng và cuối cùng bị xu thế trật tự và tiến bộ mới thay thế là quy luật tất nhiên.
Nhà Trần có tục cha nhường ngôi cho con khi c̣n sống để làm thái thượng hoàng.
Ưu điểm cuả nó là giúp vị vua trẻ có dịp thực tập vai tṛ cuả ḿnh dưới sự d́u dắt cuả vua cha để khi thực sự lănh đạo đất nước sẽ không bị quyền thần lấn át.
Nhưng mặt khác, nếu đă nhường ngôi mà thái thượng hoàng vẫn tham quyền cố vị th́ rất dễ bị nịnh thần khuynh loát.
Nhà Trần có tục “nội hôn” (hôn nhân diễn ra trong ḍng tộc) nhằm mục đích bảo vệ vững chắc triều đại. Ngoài Trần Thái Tông kết hôn với Lư Chiêu Hoàng sau đó với Thuận Thiên công chúa (chị cuả Chiêu Hoàng và vợ cuả Trần Liễu) là anh em cô cậu, th́ từ thời Thánh Tông trở đi các ngôi vị hoàng hậu đều thuộc ḍng dơi nhà Trần: Thánh Tông lấy Thiên Cảm hoàng hậu (con cuả An Sinh vương Trần Liễu, chị em chú bác ruột), Nhân Tông lấy Khâm Từ hoàng hậu (con cuả Tĩnh Quốc vương Quốc Khang, chị em chú bác họ), Anh Tông lấy Thuận Thánh hoàng hậu (con cuả Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, chị em chú bác họ), Minh Tông lấy Lệ Thánh hoàng hậu (con cuả Huệ Vơ vương Quốc Chân, anh em chú bác ruột)… Kết quả đă làm luân thường đạo lư đảo lộn, cuộc sống vương triều dâm loạn, ḍng giống bị thoái hoá.
Do vậy nhà Trần chỉ hưng thịnh với bốn vị vua đầu là Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, do giành chiến thắng vang dội đối với nhà Nguyên, nhà Trần lại tiếp tục duy tŕ một lực lương quân mạnh, tỏ thái độ hiếu chiến và tiến hành xâm lấn các nước lân bang, làm cho nền kinh tế của đất nước sau chiến tranh chưa kịp phục hồi càng thêm kiệt quệ.
Kể từ khi Minh Tông lên cầm quyền (1314) nhà Trần bước vào thời kỳ rối ren suy yếu v́ các vị vua cuối đời đều tầm thường.
Sau biến cố Dương Nhật Lễ (1369-1370), ngày 21 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) Cung Tĩnh Vương tên huư là Phủ, con thứ ba cuả Minh Tông lúc bấy giờ đă 49 tuổi được đưa lên ngôi tức Trần Nghệ Tông (ở ngôi 2 năm – 1370-1372, làm thái thượng hoàng 22 năm – 1372-1394). Nghệ Tông tuy nhân từ nhưng nhu nhược, thiếu dũng khí, thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân. Đây là cơ hội ngàn vàng để Quư Ly tham dự và thao túng triều chính rồi cướp ngôi nhà Trần.
Hồ Quư Ly là ông vua được cho là phức tạp nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam khi đánh giá giữa công và tội.
Toàn Thư cho biết:
Quư Ly tên tự là Lư Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Triết Giang, đời Hậu Hán thời Ngũ Quư (947-950) sang làm thái thú Diễn Châu.
Sau đó làm nhà ở hương Bào Đột châu này, rồi là trại chủ. Đến đời Lư (có người) lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến hương Đại Lại, Thanh Hoá, làm con nuôi tuyên uư Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ minh.
Nói tóm lại Hồ Quư Ly là cháu 16 đời cuả Hồ Hưng Dật, gốc người Triết Giang Trung Quốc.
Việc Hồ Qúy Ly cũng như nhà Trần cướp ngôi họ Lư là một quy luật tất yếu khách quan của lịch sử.
Nhà Trần có những công lao hiển hách đối với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, triều đại này đă mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Không khoan thư sức dân phát triển kinh tế, thể hiện đường lối hiếu chiến trong quân sự và ngoại giao, tin dùng nịnh thần… chính v́ những nguyên do này nên nhà Trần nhanh chóng lâm vào khủng hoảng, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, khiến đời sống nhân dân cơ cực.
Hồ Qúy Ly tuy về đạo nghĩa không hợp với luân lư đạo thường theo phép tắc của hệ tư tưởng nho giáo lúc bấy giờ, những việc ông phế truất nhà Trần, lên ngôi hoàng đế, để có đủ sức thực hiện một công cuộc cải cách toàn diện ở nước ta lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, do vấp phải những sai lầm chủ quan cũng như khách quan, những cải cách của ông không đủ thời gian để điều chỉnh. Trong việc xây dựng quân đội nặng về số đông, trong cách đánh giặc thiên về phong ngự, dựa vào thành quách và vũ khí nên cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh dưới thời nhà Hồ thất bại nhanh chóng.
Hồ Qúy Ly là người phải chịu trách nhiệm trong việc để nước ta rơi vào tay giặc, 20 năm Minh thuộc là những năm tháng bi thương nhất của lịch sử dân tộc.
PHẦN T̀M HIỂU THÊM VỀ HỒ QUƯ LY.
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tuy nắm giữ đại quyền, nhưng việc ǵ cũng do Quư Ly quyết định. Quư Ly t́m cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Tông vẫn không hề nghi ngại. Lúc đó, ḷng các quan lại, tôn thất phần nhiều đă chán nản, ră rời, nhiều người biết trước Hồ Quư Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần như Trần Nguyên Đán liền kết thông gia với họ Hồ, mong được phú quư và toàn mạng sau này.
Tuy nhiên, Nghệ Tông hết ḷng tin rằng Quư Ly vẫn trung thành với triều Trần, nên trao cho ông gươm và một lá cờ có đề "Văn vơ toàn tài, quân thần đồng đức".
Bấy giờ, Hoàng đế thấy Thượng hoàng quá tin dùng Quư Ly, mới bàn với Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc (là con trưởng của Thượng hoàng) rằng nếu không trừ đi ắt thành vạ to. Không ngờ rằng, người hầu vua học là Vũ Như Mai biết được chuyện này, liền báo cho Quư Ly biết trước. Nguyễn Đa Phương khuyên Quư Ly nên tránh ra núi Đại Lại (ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) để chờ đợi biến động. Trong khi đó, Phạm Cự Luận lại can rằng:
“Không được, một khi đă ra ngoài th́ khó lo chuyện sống c̣n".
Quư Ly nói:
“Nếu không c̣n phương sách ǵ th́ ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết ḿnh".
Cự Luận nói:
“Thượng hoàng trong ḷng vẫn căm vua về việc giết Quan phục Đại vương [Trần Húc], vua rất không hài ḷng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài th́ Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hăy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, th́ nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con" may ra Thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định vương [Trần Thuận Tông]. Nếu Thượng hoàng không nghe th́ chết cũng chưa muộn".
Quư Ly nghe vậy, bèn bí mật vào yết kiến Thượng hoàng rồi cứ y tâu như lời Cự Luận.
Thượng hoàng nghe vậy, bèn giả vờ vi hành về Yên Sinh, rồi sai người gọi Đế hiển đến bàn việc nước. Đế hiển đến, lập tức bị bắt rồi bị giam vào chùa Tư Phúc.
Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Đế hiển viết hai chữ "Giải giáp" đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ư Thượng hoàng, các tướng mới thôi. Lát sau, Nghệ Tông đưa vua xuống phủ Thái Dương và cho thắt cổ cho chết. Bấy giờ Lê Á Phu cùng các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách và người học tṛ Lưu Thường v́ cùng mưu với Đế hiển nên đều bị giết cả; chỉ có Nhập nội Hành khiển tả ty Lê Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu. Về sự việc này, sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác phẩm Đại Việt sử kư toàn thư có nói rằng:
“Khi ấy khí thế của họ Hồ đang mạnh, mọi người đều biết là nó sẽ cướp ngôi, Trang Định vương Ngạc là Thái úy, lại là con của Nghệ hoàng, thấy xă tắc sắp nghiêng đổ, nếu biết hướng vua làm điều phải, gây niềm tin ở vua cha, hiệu lệnh nghiêm ngặt, để nhiều người theo về ḿnh, khiến cho Nghệ Tông già lẫn phải tỉnh lại. Giản hoàng nhút nhát phải tự lập, quyền bính về tay hết, mệnh lệnh ban từ trên, th́ ḷng gian của họ Hồ cũng phải tự ngừng lại. Trang Định không mưu tính đến việc đó, Á Phu không lường được vu ḿnh chẳng có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Quư Ly, mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết trước. Trang Định lại không sớm quyết đoán, bỏ lỡ cơ hội, đến nỗi công việc thất bại, thân ḿnh bị giết, lại giết lây cả đến những quân tướng tài giỏi, thực đáng than thở biết bao! Có người hỏi: Họ Hồ trên được vua tin, dưới nắm binh quyền, dẫu đến Nguyên Đán là người có kiến thức, lại lăo luyện sự đời c̣n không làm ǵ được, huống chi là Trang Định! Xin thưa: Cứ xem nói trong ḷng lo sợ mà định tự tử, th́ việc chế ngự Quư Ly cũng dễ thôi! Trước hết hăy trừ bọn Đa Phương, Cự Luận để chặt vây cánh của nó đi, th́ thế nó phải cô ngay”
Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Phế Đế) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn (tức Trần Thuận Tông), con Trần Thúc Minh (tức Trần Nghệ Tông) (陳叔明) lên thay.
Triều đại Trần Thuận Tông
Vua Trần Phế Đế bị buộc cổ cho chết, Trần Nghệ Tông lập người con út là Chiêu Định vương Ngung làm hoàng đế, tức vua Trần Thuận Tông, vào năm 1388, đổi niên hiệu là Quang Thái, đại xá, tự xưng là Nguyên Hoàng. Một năm sau, vua lập con gái lớn của Quư Ly làm Hoàng hậu. Cùng năm đó, Hồ Quư Ly lấy người tâm phúc của ḿnh là Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật viện sự, Cự Luận tiến cử cho Quư Ly người em là Phạm Phiếm cùng Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân và Đỗ Tử Măn, đều là người tài giỏi.
Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hóa, tiến vào hương Cổ Vô. Nghệ Tông lại sai Lê Quư Ly dẫn quân chống cự. Quân Chiêm đắp ngăn sông Bản Nha ở thượng lưu, quân Đại Việt đóng cọc dày đặc đối địch, giữ nhau 20 ngày. Quân Chiêm đặt sẵn quân và voi, giả vờ bỏ doanh trại rút về. Hồ Quư Ly chọn những quân tinh nhuệ, dũng cảm làm quân cảm tử truy kích quân Chiêm. Thủy quân Đại Việt nhổ cọc ra đánh, quân Chiêm phá đập nước, tung voi trận xông ra. Quân tinh nhuệ đă đi xa, quân thủy bị ngược ḍng không tiến lên được. Kết quả quân Đại Việt bị thua to, hàng trăm tướng tử trận. Quư Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, c̣n ḿnh th́ trốn về Thăng Long. Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương chống giữ ở Ngu Giang, biết ḿnh thế yếu, bèn dùng kế giương nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai người canh giữ, đang đêm dong thuyền nhẹ rút lui. Về việc này, Việt sử tiêu án có ghi rằng:
Việc này Quư Ly trốn trước, Đa Phương trốn theo, thế mà c̣n cho rằng: toán quân đi giữ ǵn sau cùng, là công của ḿnh, có vẻ khoe khoang, thế là những người thua bỏ chạy 50 bước cười người chạy 100 bước, lại không xấu hổ với quân lính buộc thuyền giữ cây gỗ đó hay sao? C̣n tài cán ǵ mà khoe khoang.
Quân Chiêm không dám đuổi theo. Quân Đại Việt rút lui trọn vẹn không bị tổn thất. Trở về kinh thành, Nguyễn Đa Phương cậy công lớn có ư lên mặt, công khai chê Quư Ly là bất tài. Quư Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông nghe vậy bèn cách chức Đa Phương. Quư Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương v́ sợ Phương đi hàng Chiêm, khiến Đa Phuơng phải tự vẫn.
Bấy giờ, quân nổi loạn khắp nơi, Nguyễn Thanh làm loạn ở Lương Giang, Phạm Sư Ôn nổi dậy ở Quốc Oai. Về việc này, Việt Nam sử lược ghi rằng:
Bấy giờ trong triều th́ Lê Quư Ly chuyên quyền, chọn những chân tay cai quản các đội quân để làm vây cánh, ngoài các trấn th́ giặc giă nổi lên nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có tên Nguyễn Thanh tự xưng là Linh Đức vương làm loạn ở Lương Giang; tên Nguyễn Kị tự xưng là Lỗ vương làm loạn ở Nông Cống. Ở Quốc Oai th́ có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh sư. Thượng hoàng, Thuận Tông và triều đ́nh phải bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang để pḥng giữ quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy.
Lúc đó, quân Việt và quân Chiêm cầm cự nhau ở sông Hoàng giang (khúc sông Hồng ở Hà Nam). Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai Trần Khát Chân lúc đó đang nắm quân Long Tiệp đi chống quân Chiêm. Đến năm 1390, Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khát Chân cho quân dùng súng bắn chết. Quan quân đánh đuổi tàn quân rồi cắt lấy đầu Chế Bồng Nga đem về dâng triều đ́nh. Nghệ Tông thấy đầu Chế Bồng Nga, tự ví ḿnh như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.
Năm 1391, Lê Quư Ly đi tuần Hóa châu, xét duyệt quân ngũ, sai tướng coi quân Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đánh quân Chiêm. Quân Chiêm mai phục, quân Thánh Dực tan vỡ, Phụng Thế đầu hàng, khi quân chạy về, Quư Ly sai chém 30 viên đội phó.
Trước đây, khi Trần Nghệ Tông giết vua Trần Phế Đế, định lập Trần Ngạc làm vua, nhưng Quư Ly lại lừa Nghệ Tông khiến cho Nghệ Tông lập vua Thuận Tông. Ngạc có hiềm khích với Quư Ly, sợ bị giết, liền bỏ chạy ra Nam Định. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Nguyễn Nhân Liệt bắt về. Quư Ly ngầm ra lệnh Liệt giết Trần Ngạc, về sau Thượng hoàng tỉnh ngộ, hỏi ai ra lệnh giết Trần Ngạc, Nguyễn Nhân Liệt sợ nên thắt cổ chết.
Đến năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương lập mưu giết Quư Ly, Thượng hoàng sai người giết Nhật Chương. Có người học tṛ Bùi Mộng Hoa dâng sớ có ư khuyên Thượng hoàng trừ Quư Ly, Thượng hoàng đem tờ tâu ấy cho Quư Ly xem, sau Quư Ly nắm đại quyền, Mộng Hoa lánh không ra nữa. Quư Ly dâng sách ḿnh soạn, tên Minh đạo, gồm 14 thiên dâng lên, Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi cho là không đúng, bị đày đi xa.
Dời đô về Thanh Hóa.
Cổng Nam Thành nhà Hồ, thuộc xă Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1394, tháng 2, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban bức tranh Tứ phụ cho Quư Ly. Trong tranh ấy vẽ Chu công giúp vua Chu Thành vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hậu chủ, Tô Hiến Thành giúp vua Lư Cao Tông, gọi là tranh Tứ phụ, ư nói nên giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.
Thượng hoàng ban đêm nằm mơ thấy Duệ Tông về đọc cho bài thơ, Thượng hoàng suy ngẫm về bài thơ, cho đó là điềm Quư Ly lấy mất ngôi vị nhà Trần, nhưng không thể làm ǵ được nữa. Tháng 4, Thượng hoàng Nghệ Tông gọi Quư Ly vào:
B́nh chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm th́ già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được th́ giúp, nếu hèn kém ngu muội th́ khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua.
Quư Ly cởi mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng:
“Nếu hạ thần không hết ḷng hết sức giúp nhà vua, th́ trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức vương (tức là Phế Đế) có ḷng làm hại, nếu không có uy linh của bệ hạ, th́ nay đă ngậm cười dưới đất, c̣n đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất! Vậy hạ thần đâu có ư ǵ khác, xin bệ hạ tỏ ḷng ấy cho và đừng lo ǵ!"
Tháng 12, năm 1394, Thượng hoàng Nghệ Tông băng hà. Năm sau, Lê Quư Ly lên làm Nhập nội Phụ chính Thái sư B́nh chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung Vệ quốc Đại vương, đeo lân phù vàng. Ông cho người dịch thiên Vô Dật ra chữ Nôm để dạy Thuận Tông và tự xưng là Phụ chính Cai giáo Hoàng đế. Vua cho Quư Ly ở bên hữu sảnh, đài gọi là Họa lư.
Đến năm 1397, Quư Ly sai viên quan Đỗ Tỉnh đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, ư muốn di chuyển kinh đô về Thanh Hóa. Phạm Cự Luận và Nguyễn Nhữ Thuyết can, Quư Ly không nghe. Quư Ly bỏ Nguyễn Nhữ Thuyết không dùng, điều mưu sĩ Phạm Cự Luận đi đánh quân phản loạn ở Tuyên Quang, người này bị thua trận chết. Như vậy khi đă nắm đại quyền, hai người tâm phúc, là tướng quân Nguyễn Đa Phương và mưu sĩ Phạm Cự Luận đều bị Lê Quư Ly trừ bỏ. Đến tháng 11, Quư Ly bức vua Thuận Tông dời kinh đô về Thanh Hóa, cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua rằng dời đô thế nào cũng bị cướp ngôi, Quư Ly cho giết cả.
Theo Lê Quư Đôn, thể lệ của nhà Trần, dùng người trong tộc họ Trần làm Tể tướng, dẫu nắm công việc trong nước, cũng không được quyền cai quản quân đội, quyền bính trong nước do quan Hành khiển giữ. Vua Nghệ Tông phá lệ, không dùng người họ Trần, phong Hồ Quư Ly làm B́nh chương Phụ chính, lại cai quản cả quân đội, khiến cho quyền Hồ Quư Ly to lớn, mới gây ra họa cướp ngôi.
Triều đại Trần Thiếu Đế.
Năm 1398, Hồ Quư Ly bức vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử An, tức vua Trần Thiếu Đế; lúc ấy Thái tử mới có 3 tuổi. C̣n ḿnh tự xưng Khâm đức Hưng liệt Đại vương. Đến năm 1399 lại sai Xa kỵ vệ thượng tướng quân Phạm Khă Vĩnh giết vua Thuận Tông. Ít lâu sau, Thái bảo Trần Nguyên Hăng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân cùng Phạm Khả Vĩnh lập mưu giết Quư Ly, sự việc không thành, những người đồng mưu gồm 370 người đều bị giết.
Tháng 6, năm 1399, Quư Ly tự xưng làm Quốc tổ Chương hoàng, vào ở cung Nhân Thọ, điềm nhiên mặc áo vàng, ra vào hoàng cung theo lệ như Hoàng đế, dùng 12 cái lọng vàng. Con thứ là Hán Thương xưng là Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên. Con cả là Nguyên Trừng làm Tư đồ. Bảng văn th́ đề là Phụng Nhiếp chính Quốc tổ Chương hoàng, chỉ xưng là "dư" mà chưa dám xưng "trẫm".
Cướp ngôi vua.
Tháng 2 năm 1400, Quư Ly lúc ấy đă 64 tuổi, bức vua Trần nhường ngôi, buộc các quan và tôn thất ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quư Ly giả vờ ba lần từ chối, nói: Ta sắp xuống lỗ rồi, c̣n mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa. Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu, đổi thành họ Hồ.
Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn tự ḿnh quyết đoán mọi công việc. Về phần Trần Thiếu Đế, do là cháu ngoại nên ông chỉ phế làm Bảo Ninh Đại vương và giam lỏng.
Để ḍ xét ư hai con là Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng, Hồ Quư Ly ra câu đối "Phiến đá kỳ lạ này, có lúc làm mây làm mưa để làm tươi mát cho dân sinh." Nguyên Trừng biết ư phụ hoàng, đối lại "Ba tấc gỗ thông đây, một ngày kia sẽ làm rường làm cột giúp xă tắc.", tỏ ư sẽ hết ḷng pḥ trợ Hán Thuơng. Dù vậy, giữa Hán Thương và Nguyên Trừng vẫn có điều bất hoà. Viên cận thần Nguyễn Ông Kiều biết chuyện, đi nói cho người ngoài nghe, bị Hồ Quư Ly giết chết.
Đến đây không nói thêm về chính sách cai trị của Hồ Quư Ly và việc nhà Hồ bị nhà Minh Trung Quốc đánh bại để Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 4.
Mục đích của bài viết chỉ muốn đề cập đến việc nhà Trần rơi vào tay Hồ Quư Ly cũng chỉ v́ nguyên nhân do Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tham quyền cố vị muốn nắm giữ quyền lực nhưng nhu nhược thiếu dũng khí, thiếu sáng suốt, thích nịnh hót, không phải một minh quân để Hồ Quư Ly lộng quyền, tiếm quyền dùng mọi âm mưu thủ đoạn tàn độc để cướp ngôi báu.
(C̣n tiếp).

Gibbs 02-18-2024 04:12

Nói về quan hệ Ta- Tàu trong giai đoạn lịch sử từ năm 1976 đến nay nó thế nào chỉ cần t́m hiểu về hai ông TBT đó là ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh, sẽ đặt chúng ta vào t́nh thế khó lư giải.
Những người lănh đạo Việt Nam họ coi trọng cái ǵ hơn, Chủ nghĩa xă hội hay lợi ích dân tộc?
Chủ nghĩa xă hội và lợi ích quốc gia có mâu thuẫn với nhau, có thể cùng tồn tại?
Cho đến nay đảng CS Việt Nam đều coi Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh là “những nhà lănh đạo kiệt xuất” cống hiến cho đất nước, không hề có quan điểm rạch ṛi, ai đúng, ai sai, hay thế nào.
Nếu Lê Duẩn chống Tàu v́ lợi ích, chủ quyền quốc gia th́ Nguyễn Văn Linh và những kẻ bám đuôi Tàu là bán nước.
Ngược lại Lê Duẩn chống Tàu đem đến chiến tranh giữa Ta và Tàu, đẩy đất nước đi đến tụt hậu, chậm phát triển Lê Duẩn phải là tội đồ.
Đường lối không thể lập lờ, lập lờ như thế v́ mục đích ǵ, cần có câu trả lời.
Chống Tàu, hay lệ thuộc Tàu đều có bằng chứng trong lịch sử.
Lệ thuộc Tàu, hữu hảo với Tàu được không bằng mất, đến khi nhận ra bản chất, bộ mặt thật của Tàu chống lại Tàu, chống một cách điên cuồng mất lư trí… cái ṿng luẩn quẩn này diễn ra cũng từ căn bệnh hoang tưởng quyền lực, sợ mất quyền lực, nên sẵn sàng bảo vệ quyền lực bằng mọi giá, đem lợi ích dân tộc, xương máu của nhân dân ra làm công cụ.
-TBT LÊ DUẨN.
Phim tài liệu về Tổng bí thư Lê Duẩn có nêu:
“TBT Lê Duẩn vẫn thường cố gắng cắt nghĩa là tại sao Trung Quốc đô hộ Việt Nam 1.000 năm mà không đồng hóa được ta? Bởi 1.000 năm là quá dài, và người Trung Quốc chưa bao giờ giấu diếm tham vọng ấy suốt những thời kỳ họ cai trị Việt Nam”
Năm 1972, trong một cuộc tṛ chuyện với Chu Ân Lai, nhắc lại về Hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn đă không ngần ngại lên án: “Năm đó, người Trung Quốc các anh đă bán đứng chúng tôi trên bàn đàm phán”.
Trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhân danh việc chi viện, giúp đỡ chúng ta, rất nhiều lần Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có lần Trung Quốc đề nghị cho chúng ta 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ. Nhưng TBT Lê Duẩn không nhận bất cứ một chiếc xe nào.
Có người trong Bộ Chính trị đề nghị “sao ông không nhận một vài chiếc cho người ta vui?”, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn kiên quyết giữ lập trường của ḿnh: “Chừng nào tôi c̣n ngồi đây, th́ tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”.
Hiến Pháp 1982 lúc đó Lê Duẩn là TBT đă nêu đích danh “… chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lănh thổ của ḿnh…”
Lê Duẩn lúc cần giả vờ nhịn Tàu, nhưng tâm địa hận Tàu khi có thời cơ là chống Tàu công khai, quyết liệt.
TBT NGUYỄN VĂN LINH.
TBT Nguyễn Văn Linh kế nhiệm Lê Duẩn sau khi Lê Duẩn chết.
Bản thân TBT Nguyễn Văn Linh lúc đầu đi theo đường lối của Lê Duẩn dẫn đến quan hệ Ta - Tàu trở thành thù địch.
Chiến tranh 10 năm, bị thế giới cô lập, kinh tế suy kiệt, nhưng Nguyễn Văn Linh vẫn thủ cựu bám giữ con đường XHCN quyết tâm chống Mỹ, không đi theo con đường phát triển tư bản.
Sau khi Liên Xô tan ră, Chủ nghĩa xă Đông Âu sụp đổ, không c̣n chỗ dựa Nguyễn Văn Linh từ bỏ quan điểm chống Tàu quyết liệt của Lê Duẩn quay lại quỹ đạo Trung Quốc một cách luồn cúi nhất.
Sau đây xin trích Hồi kư của Lư Gia Trung , cựu đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam về con đường Nguyễn Văn Linh đi đến ngả vào ḷng Trung Quốc, mà theo như ông Nguyễn Cơ Thạch “bắt đầu đưa nước ta vào thời kỳ Bắc thuộc một lần nữa”
Thông qua Cay-xỏn Phôm-vi-hản (Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào) Nguyễn Văn Linh bắn tin đến Đặng Tiểu B́nh.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản gặp Đặng Tiểu B́nh thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không b́nh thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn b́nh thường hóa quan hệ hai nước.
Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản c̣n chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu B́nh, nói Việt Nam đă có nhận thức mới đối với t́nh h́nh Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, c̣n nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.
Đặng Tiểu B́nh cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói:
- Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lư trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đă già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam khôi phục b́nh thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.
Đặng Tiểu B́nh đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Đặng Tiểu B́nh nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ư kiến đó tới Nguyễn Văn Linh.
Ngoài ra Đặng Tiểu B́nh c̣n nói một câu ư vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đă mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện b́nh thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đă kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu B́nh. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch.
Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào th́ phải bàn với Trung Quốc. Ông c̣n ư thức được rằng Đặng Tiểu B́nh tuy đă gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời ḿnh thăm Trung Quốc. Trong t́nh h́nh đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.
Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đă hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lănh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu B́nh, Giang Trạch Dân, Lư Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đă gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu B́nh v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu B́nh là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học tṛ của họ.
Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít.
Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đă viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc th́ Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.
Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đă xuất hiện t́nh h́nh khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đă làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai th́ phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đă qua rồi th́ để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này.
Nguyễn Văn Linh nói t́nh h́nh quốc tế đang thay đổi mạnh, t́nh thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, t́nh thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến ḥa b́nh, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xă hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành tŕ của ḥa b́nh thế giới, nhưng hiện nay thành tŕ này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong t́nh h́nh hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực ḷng của ông.
Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách ḥa b́nh, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary ḥa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ư tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.
Nguyễn Văn Linh tỏ ư ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lănh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ư kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau th́ dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, ông đă nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lănh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.
Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ư là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói ǵ, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] c̣n có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.
Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị ǵ. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hăy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lănh đạo Trung Quốc là vấn đề đ̣i hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung.
Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xă hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương.
Đại sứ đă tiếp ông này tại pḥng khách Sứ quán. V́ Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch.
Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. V́ vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.
Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đă được Tổng Bí thư soát lại không có ǵ sai. Trong đó có đoạn nói :
“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu B́nh và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm c̣n sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam b́nh thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ tŕ Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.”
“Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy căi nhau măi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lănh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục t́nh hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy th́ đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.”
“Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.”
“Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ư kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu B́nh, Lư Bằng, cũng là để các đồng chí lănh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rơ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn t́m ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.”
“Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng t́nh hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”
Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng.
Hoàng giải thích, ông hiểu ư của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến tŕnh Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lănh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành.
Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ư kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của ḿnh hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rơ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đ̣i phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lănh đạo hai nước. Trong t́nh h́nh này, nếu lặp lại ư kiến của bên nhà th́ coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ư kiến bên nhà th́ liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng?
V́ việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rơ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện t́nh h́nh mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi ṿng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lănh đạo nước ta; v́ vậy Đại Sứ quán nên căn cứ t́nh h́nh mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.
Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương t́m cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện t́m hiểu ư đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả ǵ lập tức báo cáo trong nước. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rơ mức độ khó khăn của công việc này.
8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rơ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền h́nh đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đăi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong t́nh h́nh như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào t́m gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết.
Trong t́nh h́nh t́m không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc pḥng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh c̣n nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc pḥng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.
Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui ḷng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ư bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ư kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ư sẽ lập tức làm ngay việc này.
Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc pḥng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ c̣n nói việc này chỉ có ông và Trưởng pḥng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương.
Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đă ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đă gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào pḥng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu năo đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân d́u đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, v́ thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lư, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm b́nh phục.” Nói đoạn, ông thân chinh d́u Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi pḥng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc pḥng Việt Nam.
Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đă nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có ǵ sai cả.
Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc.
Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, v́ không đồng ư với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”.
Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại v́ ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ư với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ c̣n th́ nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế.
Nguyễn Văn Linh c̣n nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quư giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có t́nh có lư.
Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong t́nh h́nh quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển t́nh đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rơ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc b́nh thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn ḷng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.
Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rơ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ư đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. V́ vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh c̣n nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lư Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc th́ đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ư định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Vơ Chí Công, trực diện chuyển ư kiến của người lănh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn.
Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đă tiếp và tỏ ư sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.
Gặp gỡ bí mật Thành Đô
Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đă chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, v́ để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.
Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu t́m cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đă có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đă có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc pḥng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh.
Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng pḥng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lănh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ư của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên.
Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Pḥng khách Trung ương ĐCSVN.
Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ư kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ.
Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ư với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị.
Nguyễn Văn Linh c̣n nói, nếu t́nh h́nh sức khỏe cho phép th́ đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết t́nh h́nh cuộc gặp chiều nay.
Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch tŕnh đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lănh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đăi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ư, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm.
Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh.
Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi c̣n có Chánh Văn pḥng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), c̣n lại là các nhân viên công tác.
Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay th́ thấy một xe con kiểu b́nh thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nh́n, v́ xe không treo màn cửa nên có thể thấy rơ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh.
Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lănh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ b́nh thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu.
Nguyễn Văn Linh tỏ ư có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng th́ nói phương án của phía Trung Quốc đă không công bằng lại cũng không hợp lư. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ư dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh.
Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nh́n về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lănh đạo hai nước đều đồng ư dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lănh đạo hai nước đă kư kết “Biên bản Hội đàm”.
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân c̣n ư vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em c̣n đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải t́nh nghị hựu trùng kiến.”
Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn pḥng Đối ngoại đă làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đă phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.
16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc –Việt Nam
Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vơ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lănh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện b́nh thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.
Tháng 2-1999 lănh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”.
Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lănh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước măi măi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới.

Gibbs 02-18-2024 16:04

PHẦN 7.
TẠI SAO PHẢI GIẤU DIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Sau khi nhà Hồ bị diệt vong, Hồ Quư Ly bị di lư sang Bắc Kinh rồi chết tại đây, Việt Nam rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư.
Tạm dừng lần theo ḍng chảy lịch sử, một câu hỏi được đặt ra, tại sao những bị kịch nồi da xáo thịt, tranh dành quyền lực trong các triều đại phong kiến Việt Nam không được đưa vào sách giáo khoa, hay tuyên truyền trên báo chí?
Kể từ khi những người cộng sản cầm quyền năm 1945, bắt đầu với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xă hội ở Miền Bắc, sau đó trên toàn cơi Việt Nam năm 1975, mấy thế hệ con người Việt Nam được dạy dỗ lịch sử là những trang hào hùng đánh thắng hết thế lực thù địch này, ngoại xâm kia, các ông vua từ đời Đinh, Lê, Lư, Trần… đều anh minh tài giỏi… hiếm khi nh́n nhận mặt trái của các sự kiện, nhân vật lịch sử.
Đây có phải là vấn đề tự tôn dân tộc, hay cố t́nh che giấu thậm chí bóp méo lịch sử cho những mục đích vụ lợi, phục vụ cho mục đích chính trị?
Những kẻ độc tài, những chế độ chuyên chế, chuyên quyền họ rất giỏi dùng lịch sử làm công cụ tuyên truyền, cai trị.
Cái ǵ có lợi th́ xấu cũng thành tốt, cái ǵ có hại th́ tốt cũng thành đổ bỏ đi. Bất chấp những nguyên tắc trật tự và tiến bộ, văn minh và luật pháp.
Ai đă từng xem phim Thuỷ Hử một bộ do Hồng Kông, một bộ do Trung Quốc đại lục sản xuất sẽ thấy cùng cốt truyện nhưng khi lên phim đều có sự cài cắm thông điệp riêng của ḿnh.
Trong khi phim Hongkong nặng về tính giải trí, ca ngợi khí phách, tinh thần thượng vơ, anh hùng hảo hán của các nhân vật …
Th́ phim Thuỷ Hử do đài truyền h́nh Bắc Kinh sản xuất lại cố gắng chính trị hoá truyền đi một thông điệp hoàng thượng là anh minh, chống lại triều đ́nh là chết, dụng ư tuyên truyền, cảnh báo cho bất cứ kẻ nào, thế lực nào chống lại nhà cầm quyền, và sự kiện đàn áp thanh niên, sinh viên ở Thiên An Môn năm 1989 là một minh chứng về sự tàn bạo của các chế độ chuyên quyền dù nó ở bất cứ ở h́nh thức, thể chế xă hội nào.
Chống tham nhũng ở Trung Quốc, hay ở ta cũng có những đặc điểm giống nhau, trong thực tế hay trong phim ảnh dù được tuyên truyền “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” nhưng thực tế h́nh ảnh đồng chí bí thư bao giờ cũng xuất hiện đúng lúc, anh minh, sáng xuất chỉ đạo kịp thời tháo gỡ ng̣i nổ, cũng như lănh đạo cấp cao của đảng được tô h́nh vẽ bóng chẳng khác ǵ thánh nhân.
Chế độ hiện thời có khác ǵ triều đại phong kiến ngày trước, có khác chỉ là cái áo khoác ngoài, theo một màu sắc mới.
Chẳng nói đâu xa, chương tŕnh Táo quân vào đêm 30 Tết phản ánh một hiện thực, giữa một thời đại mà họ nói đến chính phủ điện tử, thời đại công nghệ này nọ mà vẫn phải núp bóng chuyện trên trời để cho dân có một miếng ăn dân chủ do họ tạo dựng.
Ngọc Hoàng là ai? Ngọc Hoàng anh minh, mỗi lời nói của Ngọc Hoàng đều là khuôn vàng thước ngọc - dối trá, giả tạo, thần thánh hoá lănh đạo một cách trơ trẽn sống sượng. Ngụy biện, bao che cho đường lối, chính sách phục vụ cho mục đích cướp và vét của một lũ quan trường hủ lậu, tàn ác, đạo đức giả.
Sở dĩ họ muốn che giấu mặt trái của lịch sử v́ đấy chính là mặt trái của chế độ mà họ đang cầm quyền.
Họ muốn tạo ra một ảo tưởng cho dân chúng về vinh quang và thắng lợi, về tương lai và tiền đồ, để cho người dân ảo tưởng về con đường mà họ dẫn dắt, định hướng mà không nh́n nhận ra từ thực tế lịch sử, đó chỉ là bịp bợm.
Tất cả những kẻ cố bám giữ quyền lực là những kẻ v́ tham quyền cố vị đều tàn ác, mưu mô và thủ đoạn như nhau, lịch sử đă chứng minh điều này.
Đây chính là nguyên nhân họ không đưa vào sách giáo khoa lịch sử, để cho các thế hệ qua đó nh́n thấy chân tướng thật, bản chất thật của một chế độ chuyên quyền.
Mở cửa, nhiều người Việt Nam biết đến nước Mỹ “bằng da bằng thịt” không phải trên báo chí tuyên truyền.
Những năm chiến tranh báo Nhân dân có chụp một bức ảnh trên đường phố ở New York có đặt những trạm ô xi để người dân chui vào đó hít thở v́ không khí ở đó bị ô nhiễm nặng nề, với tiêu đề “Nước Mỹ trong cơn hấp hối”
Dân ta lúc ấy ai cũng tin là thật, thực tế đấy là những bốt điện thoại công cộng.
Đến thủ đô Washington thăm đài tưởng niệm những người lính Mỹ chết trong chiến tranh mới hiểu tại sao nước Mỹ là một siêu cường dẫn dắt thế giới.
Đài tưởng niệm gồm 3 phần nối tiếp với nhau.
Ở giữa tại cốt không (mặt đất) là lá cờ nước Mỹ và tượng đài người mẹ với người lính, phía trên cao là quả đồi có đài tưởng niệm Abraham Lincoln.
Phía bên này của lá cờ là phần đi dưới ḷng đất, ở đây ghi tên những người lính chết trong các trận chiến ở Việt Nam.
Đài tưởng niệm này muốn truyền đi thông điệp, nước Mỹ hiện tại (nơi có lá cờ) được h́nh thành từ cả thắng lợi vinh quang, thất bại và nhục nhă. Nhưng tất cả chính là nước Mỹ có tự do mà người khởi xướng là Abraham Lincoln.
Lịch sử ở nước Mỹ được phản ánh trung thực như vậy, chính điều này đă tạo ra nước Mỹ vĩ đại.
(C̣n tiếp)

Gibbs 02-21-2024 10:36

PHẦN 8.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Hoàng Thành Thăng Long được khai quật, di tích của đời sau đè lên đời trước, hiện vật để lại cho thấy có một Thăng Long tráng lệ và Việt Nam đă từng là một quốc gia hùng cường trong khu vực châu Á nhưng tranh giành quyền lực giữa các triều đại đă tàn phá, hủy hoại nó.
Không những Thăng Long mà cả Hội An, Huế… đều trong hoàn cảnh tương tự.
Khi cầm quyền lực trong tay, dù có anh minh tài giỏi đến đâu, có công lao dựng xây như thế nào nhưng cố bám giữ quyền lực cuối cùng cũng đi đến kết cục bi thảm.
Càng cố th́ càng phải ác, để hận thù chồng chất nên kẻ tiếm quyền dùng mọi hành động tàn ác để trả thù, diệt tận gốc chốc tận rễ chém giết không ghê tay và phá hủy các công tŕnh … đây như là một nguyên tắc sống c̣n để bảo vệ triều đại và chế độ, khiến nước ta đă từng là nước phát triển, rồi trở thành nước chậm phát triển, việc này cứ lặp đi lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử và đến hiện tại.
Điều tai hại nhất của những người cầm quyền là họ không dám nh́n nhận vào sự thật lịch sử như một bài học mà c̣n giấu nhẹm, bẻ cong lịch sử cho các mục đích chính trị và tham vọng quyền lực.
Trong các giáo tŕnh và các sách đương đại họ lư giải kinh thành Thăng Long bị tàn phá là do người Pháp phá hủy khi tấn công và chiếm đóng, với mục đích để tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc, khẳng định con đường của cách mạng vô sản là đánh đổ, đào huyệt chôn chế độ tư bản có tính sống c̣n cho phát triển đất nước.
Việc di tích Hoàng thành Thăng Long được khai quật cùng với những sử liệu gần đây được công bố từ nhiều nguồn đă chứng minh thậm chí đảo ngược những luận điểm lịch sử bị bóp méo.
Hoàng thành Thăng Long, cùng với Hội An, cố đô Huế bị tàn phá chính từ những cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ và đến khi người Pháp chiếm được nó chỉ c̣n những phế tích bên trên, c̣n hoàng cung tráng lệ đă nằm sâu trong đất.
Về sự tồn tại của thành Thăng Long, sách Đại Việt sử kư toàn thư bản kỷ tục biên– Thế tôn Nghị Hoàng đế kỷ cho biết: từ thời nhà Mạc, thành Thăng Long đă được tu sửa, nhưng đến khi nhà Mạc bị diệt th́ thành đă bị thiêu hủy vào năm Quang Hưng thứ 15 (1592) . Sách chép:
“Quan quân thừa thắng đuổi tràn đến tận sông. Phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành, khói lửa kín trời.” (H1 tờ 29a).
Trên Tạp chí Xưa và Nay số 80B tháng 10 năm 2000 có bài viết “Dấu ấn Thăng Long Hà Nội (những năm đầu đến giữa thế kỷ XIX) của tác giả Đinh Xuân Lâm, trong bài viết có đoạn:
“Nhằm mục đích hạ thấp vai tṛ kinh đô cũ, để làm mất tư cách “quốc đô” lâu đời của Thăng Long, năm 1805 triều Nguyễn ra lệnh phá hủy khu hoàng thành cũ được xây dựng từ đời nhà Lê và cho xây một ṭa thành mới quy mô nhỏ hẹp hơn nhiều ngay trên vị trí thành cũ…”(tlđd, tr. 10).
Năm 1514, Lê Tương Dực mở rộng Hoàng thành thêm mấy ngh́n trượng (mỗi trượng là 3,6m) bao bọc cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa.
Từ năm 1516-1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, kinh thành Thăng Long ch́m trong loạn lạc. Hầu hết các cung điện kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần.
Trong nửa cuối thế kỷ 16, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra quyết liệt với ưu thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía Bắc như Ninh B́nh, Hà Nam, Bắc Ninh... và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này, nơi khác. Thăng Long ngày một điêu tàn.
Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định trở lại Thăng Long. Một đợt xây dựng đại quy mô được khởi động. Từ đó về sau cũng không có lần nào Hoàng thành được xây dựng quy mô như thế nữa.
Năm 1599 Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi, những cung điện mới xây đều nằm trong phủ Chúa. Hoàng thành bị bỏ hoang phế nhiều.
Thành Hà Nội từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20
Sự chuyển đổi từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh thành Hà Nội
Năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đem đại quân 290.000 người sang chiếm Thăng Long không tốn một ḥn tên mũi đạn. Dựa thế quân Thanh, Lê Chiêu Thống điên cuồng trả thù họ Trịnh. Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống đốt trụi, cháy ṛng ră một tuần mới hết. Tất cả những ǵ liên quan đến chúa Trịnh ở Thăng Long bị phá sạch. Kinh thành lại một lần nữa ra tro.
Đồng thời, những ǵ c̣n sót lại của Hoàng thành sau những trận đại hủy diệt cuối thế kỷ 18 cũng lần lượt bị các đời vua nhà Nguyễn chuyển nốt vào Phú Xuân phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho các vua Nguyễn mỗi khi ngự giá Bắc thành.
Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng thành cũ v́ cho rằng đây chỉ c̣n là Trấn Bắc thành mà Hoàng thành Thăng Long th́ rộng lớn quá. Gia Long cho xây dựng thành mới theo kiểu Vô-băng của Pháp. Về quy mô th́ nhỏ hơn thành cũ nhiều.
Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đă cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội.
Đến năm thứ nhất đời Tự Đức 1848, lại hạ lệnh phá dỡ những vật liệu thuộc cung điện cũ của nhà Hậu Lê ở trong thành, mang hết các đồ chạm trỗ mỹ thuật bằng gỗ và bằng đá về Huế để trang trí các cung điện trong đó, các di tích xây dựng của các triều đại trước, v́ vậy mất mát gần hết, chỉ c̣n sót lại đôi rồng đá trước thềm điện Kính Thiên”(tlđd, tr. 11).
Năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp. Người Pháp đổi tỉnh Hà Nội thành thành phố Hà Nội.
(C̣n tiếp)

Gibbs 02-22-2024 12:43

PHẦN 9.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Trước năm 1975 Sài G̣n có đường Gia Long và đường Nguyễn Huệ, đây là hai nhân vật lịch sử không đội trời chung với nhau.
Chính quyền Việt Nam Cộng hoà có vẻ nh́n nhận lịch sử khách quan tuy Gia Long và Nguyễn Huệ trên một khía cạnh nào đó đều có những vết đen trong lịch sử.
Đây mới là việc làm đúng đắn tôn trọng lịch sử phán xét một cách tích cực, công bằng.
Khen cho ai khéo lấy hai con đường một cách h́nh tượng để nói lên thân phận của Gia Long và Nguyễn Huệ.
Đường Nguyễn Huệ tuy to, nhưng ngắn, như số phận của vị anh hùng đánh đông dẹp bắc, công tích rực rỡ mà tuổi thọ ngắn ngủi.
Đường Gia Long tuy hẹp nhưng dài, bây giờ là đường Lư Tự Trọng. Ở phía đầu đường Gia Long là nhóm những vị khai quốc công thần của ông, đó là đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), đấy là đường Vơ Tánh (Nguyễn Trăi Quận 1), Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Riêng), quân sư Đặng Đức Siêu (đổi tên thành đường Nam Quốc Cang).
Trong khi đó ở Miền Bắc xă hội chủ nghĩa Gia Long theo sách giáo khoa lịch sử bị coi là kẻ bán nước, đại diện cho một triều đại phong kiến tàn bạo, sau năm 1975 đường Gia Long bị xoá tên.
Nguyễn Huệ được coi là anh hùng dân tộc, người có nhiều cải cách sau khi nắm vương quyền.
Đâu là sự thật lịch sử? Và thực chất câu chuyện về Nhà Tây Sơn như thế nào, lịch sử bị bóp méo v́ mục đích ǵ?
Giai cấp vô sản lên nắm chính quyền, thành phần công nông trở thành giai cấp lănh đạo, những ǵ thuộc về thực dân, phong kiến phải đào tận gốc trốc tận rễ.
Gia Long dĩ nhiên không thể được tôn vinh, một tên vua phong kiến cần phải bài trừ lôi ra đấu tố, vạch mặt.
Nguyễn Huệ xuất thân từ tầng lớp nông dân trở thành người anh hùng áo vải, tượng trưng cho sự quật khởi của một cuộc cách mạng chống áp bức bọc lột, biểu tượng trí tuệ và sức mạnh của quần chúng - Ai dám nói nông dân là thành phần vô học, thành phần dưới đáy xă hội? Ai dám dè bỉu giai cấp công nông không thể làm lănh đạo?
Và họ muốn thông qua Nguyễn Huệ đế chứng minh giai cấp công nông xứng đáng là giai cấp lănh đạo.
Lịch sử không phủ nhận công lao của Nguyễn Huệ về việc đánh thắng quân Thanh xâm lược, nhưng ca ngợi Nguyễn Huệ như một nhà chính trị, quân sự kiệt xuất với những công lao đưa nước ta trở thành hùng mạnh, thậm chí thêu dệt như một con người có nhân cách vĩ đại, một hoàng đế anh minh, nhân từ cần phải xem xét lại, đặt Nguyễn Huệ đúng vào những ǵ vốn có.
Nghiên cứu tư liệu sử từ nhiều nguồn một cách khách quan cho thấy Gia Long không hẳn như những ǵ họ ném vào sọt rác lịch sử, Nguyễn Huệ cũng có những mặt trái đáng ghê sợ, nhân cách cũng chưa vượt qua được sự cám dỗ của quyền lực, thậm chí Nguyễn Huệ mắc căn bệnh quyền lực đến mức đáng sợ làm bất kỳ điều ǵ tàn ác để chiếm đoạt quyền lực, bảo vệ quyền lực, và kết cục bị thất bại, nở cũng nhanh và tàn cũng nhanh.
Cũng như bất kỳ một cuộc khởi nghĩa, hay một cuộc cách mạng nào, ban đầu nhà Tây Sơn rất được ḷng dân chúng, họ hi vọng một cuộc đổi đời nên dốc ḷng ủng hộ, điều này chứng minh những chiến thắng vang dội của nhà Tây Sơn.
Nhưng đến khi nhà Tây Sơn muốn lấy thiên hạ th́ tất cả những ǵ của căn bệnh quyền lực bắt đầu xuất hiện.
Trong nội bộ nhà Tây Sơn anh em bất hoà, Nguyễn Huệ đem quân đánh vào thành Quy Nhơn của anh cả Nguyễn Nhạc đây là tội bất trung, bất nghĩa….
Sự thất bại của quân Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là v́ cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nh́n lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đă làm những điều ǵ để mất ḷng dân đến như vậy?
NHỮNG TỘI ÁC CỦA NHÀ TÂY SƠN.
- PHÁ HUỶ THƯƠNG CÀNG HỘI AN.
Khi nhà Tây Sơn cùng với chúa Trịnh đàng ngoài liên minh đánh nhà Nguyễn họ đă đốt phá thương càng Hội An, một thương cảng giao thương hàng đầu châu Á.
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An được xây dựng và phát triển trở thành thương cảng tiêu biểu của châu Á và nổi tiếng khắp thế giới. Rất nhiều thương nhân từ Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu đến đây giao thương, biến Hội An thành hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á. Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Một người Ư là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đă mô tả rằng:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa th́ đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Thế nhưng quân chúa Trịnh và quân Tây Sơn sau khi chiếm Quảng Nam đă tàn phá tất cả Hội An. Không chỉ sử liệu thời nhà Nguyễn mà nhiều thương gia phương Tây cũng chứng kiến ghi nhận cảnh này.
Vào thời điểm 1774-1775 là giai đoạn mà quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân (Huế), chúa Nguyễn phải chạy về Quảng Nam, lại bị quân Tây Sơn đánh ra uy hiếp. Một bức thư năm 1775 của Halbout đă ghi nhận:
“Quân nổi loạn đă cướp bóc, cướp phá chẳng nương tay, đến nổi các tỉnh Cham cứ 20 người th́ có 19 người chết v́ bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né đều không c̣n… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến 1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ṛng gần như quanh tôi lúc nào cũng có người chết và hấp hối…”
Một người Anh Charles Chapman phải thốt lên rằng:
“Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng c̣n lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công tŕnh ấy bây giờ chỉ c̣n đọng lại trong kư ức mà thôi”
Sau này thành phố Hội An đă được xây dựng lại nhưng không thể được như trước nữa, những khu phố sầm uất đă không c̣n, nhiều thương gia chứng kiến cảnh tàn phá cướp bóc cũng sợ hăi mà không dám quay lại.
Nhà nghiên cứu Tạ chí Đại Trường dẫn lời Linh mục Labartette miêu tả:
“Ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) không c̣n một con heo, gà, vịt, đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất giá một quan c̣n giá trị độ một đồng, t́nh trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ biến trong xứ.”
Lê Quư Đôn cũng ghi nhận trong thảm cảnh ở Quảng Nam trong “Phủ biên tạp lục” như sau:
“…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trông quân nhà vua đến giải cứu cho họ…”
- CÙ LAO PHỐ, TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI SẦM UẤT NHẤT NAM BỘ BỊ TÀN PHÁ
Trung tâm thương mại ở Nam Bộ là cù lao Phố nằm bên sông Đồng Nai thuộc xă Hiệp Ḥa, Biên Ḥa ngày nay. Nguồn gốc của nó là do một số tướng lĩnh nhà Minh do không quy phục nhà Thanh nên đến xin chúa Nguyễn được làm con dân Đại Việt và được cho phép khai phá vùng đất này.
Thời ấy thương nghiệp phát triển dẫn đến các nghề thủ công như dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v.. rất phát triển. Nơi đây thuận tiện giao thông thủy bộ, buôn bán tấp nập, nên bắt đầu phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Nam Bộ.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” mô tả rằng Nông Nại đại phố lúc đầu do Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài – từng là tổng binh ba châu Cao – Lôi – Liêm dưới triều Minh) khai phá, ông “chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, c̣n những nhà buôn to ở đây th́ nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”
Trịnh Hoài Đức mô tả trong “Gia Định thành thông chí” của ḿnh như sau:
“Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ động. Đến ngày trở buồm về, gọi là ‘hồi đường’, chủ thuyền cần mua món hàng ǵ, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua dùm. Như thế, khách chủ đều được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn hát vui chơi, đă có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi…”.
Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam bộ, lịch sử ghi nhận rằng cù lao Phố bị tàn phá, người Hoa kiều bị tàn sát. Quân Tây Sơn cướp bóc của cải chở về Quy Nhơn, những ǵ c̣n lại đều bị đốt sạch. Các cơ sở thủ công bị phá, dân chúng bị tàn sát, nước đỏ ngầu v́ máu. Những người Hoa may mắn sống sót chạy về Bến Nghé, sau này thành lập lại trung tâm thương mại ở vùng Chợ Lớn.
Trịnh Hoài Đức mô tả sự việc này trong “Gia Định thành thông chí” rằng từ khi bị Tây Sơn tàn phá, “nơi đây biến thành g̣ hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước”.
Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn, sinh sống và lập những cơ sở thương măi khác cho đến nay. Kể từ đó, vùng cù lao Phố đánh mất vai tṛ là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
- MỸ THO: VÙNG KINH TẾ HƯNG THỊNH BỊ TÀN PHÁ.
Vào năm 1679, một nhóm khoảng ba ngàn người Minh Hương được Chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm có Dương Ngạn Địch đứng ra lập Mỹ Tho đại phố ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Ḥa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, G̣ Cát, tức khu vực xă Mỹ Phong hiện nay. Rất nhiều làng xă mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Ḥa (khu vực đường Nguyễn Hùynh Đức bây giờ ).
Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đă trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm c̣n lại là cù lao Phố). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông – ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đă có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại.
Tuy nhiên quân Tây Sơn đă tàn phá vùng kinh tế hưng thịnh này một cách không thương tiếc. Nhà nghiên cứu Sơn Nam đă mô tả trong “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” rằng:
“Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đ́nh cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Thậm chí người ta đă coi quân Tây Sơn như cường đạo. Tại Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ th́ dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật ǵ”.
- THẢM SÁT NGƯỜI HOA Ở CHỢ LỚN.
Từ khi cù lao Phố bị phá hủy th́ các hoạt động thương mại phải di dời tập trung về Chợ Lớn.
Năm 1782 Nguyễn Nhạc đến “18 thôn vườn trầu” th́ bị phục kích thua trận. Nhận ra quân phục kích là đạo binh Ḥa Nghĩa gồm nhiều người Hoa ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Nhạc đă thực hiện một cuộc thảm sát đối với người Hoa.
“Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài G̣n, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. C̣n như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đă dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, c̣n các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc c̣n có dụng tâm tiêu diệt đầu năo kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Sự thật là quân Tây Sơn đă tàn sát bao nhiêu người? Linh mục Andre Tôn trong bức thư viết ngày 1/7/1784 mô tả số người chết trong cuộc thảm sát này là 10.000 đến 11.000 người, trong đó phần lớn là người Hoa. Linh mục Castuera, người đă có mặt ở Chợ Quán ngày 7/7/1782, ghi nhận có 4000 người Hoa bị giết. Số nạn nhân thật sự trong những cuộc thành trừng của Tây Sơn là không thể biết chính xác, nhưng một bầu không khí khủng bố đối với người Hoa ở đây là có thật.
- PHÁ LĂNG TẨM VÀ ĐÀO MẢ NHÀ NGUYỄN.
Sách Đại Nam thực lục có ghi chép rằng:
Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa.
Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng.
Nhà Ngũ ở xă Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xă Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi.”
Như vậy là vua Quang Trung đă làm hai việc:
Phá lăng tẩm 8 đời chúa Nguyễn và quật mộ của thân sinh vua Gia Long. Tám đời chúa Nguyễn không hề có hận thù ǵ với anh em Tây Sơn, hơn nữa lại có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước. Vậy mà bị vua Quang Trung đối xử tàn tệ. Không lạ ǵ khi vua Gia Long đối xử tàn tệ với hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc cùng con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng có b́nh trong “Việt Sử Đại Cương” về hành động trả thù của vua Gia Long sau này rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suưt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn v́ ba việc chính:
thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định.
Thứ nh́, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790.”
*******
Bản thân tổ tiên lựa chọn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn, hưởng phúc nhờ công mở mang bờ cơi của 8 đời chúa Nguyễn, vậy mà quân Tây Sơn không có thâm thù đại hận lại quật lăng quật mả nhà Nguyễn, vứt hài cốt xuống sông. Khẩu hiệu pḥ chúa Nguyễn, nhưng khi tới Gia Định nhà Tây Sơn lại muốn tận diệt hoàng tộc nhà Nguyễn. Đi kèm với đó là những cuộc tàn phá và thảm sát của quân Tây Sơn đối với người dân Đàng Trong. Tất cả đă cho thấy lư do tại sao nhà Tây Sơn thảm bại.
(C̣n tiếp)

Gibbs 03-03-2024 11:30

PHẦN 10.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Đánh giá Lịch sử không phải là đánh giá một bức tranh, người ta vẽ như thế nào th́ b́nh như thế.
Lịch sử gắn với hiện thực, những nhân vật và sự kiện lịch sử đă qua đi nhưng chúng ta vẫn sống trong di sản văn hoá ấy, đất đai, công tŕnh, đền đài, miếu mạo… từ ngh́n xưa để lại.
Nó không đơn thuần là chứng tích của các cuộc tranh dành đất đai, quyền lực bằng các cuộc chiến đẫm máu trong lịch sử, mà cả trong hiện tại khi quyền lực vẫn c̣n độc quyền trong tay những kẻ tự cho ḿnh có quyền cướp đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản của người khác.
Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu xă hội, thực chất là nghiên cứu bản chất con người, nghiên cứu về động cơ, dục vọng trong con người mà tham vọng quyền lực là điểm mấu chốt.
Ở phương Tây khoa học lịch sử đă soi đường cho sự phát triển chính là chỗ họ lấy bài học của lịch sử để xây dựng một h́nh thái nhà nước có thể kiểm soát được quyền lực, và không ai khác, chỉ khi nào quyền lực thuộc về nhân dân nạn binh đao mới chấm dứt.
Nh́n vào cách chuyển giao quyền lực ở Phương Tây đặc biệt là ở Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch… những nước được coi là h́nh mẫu của “chủ nghĩa xă hội hiện thực”, sẽ là một thực tế để sáng tỏ.
Sự chuyển giao này không phải chỉ là đạo đức giả, bánh vẽ, bằng một nhà nước giả hiệu, nó có sự kế thừa, có sự chia sẻ và có cùng trách nhiệm, có sự tôn trọng cái văn minh tiến bộ, cái tinh hoa, và trên hết là nền tảng một xă hội có Hiến pháp, pháp luật- Pháp luật trên tất cả.
Chế độ vương quyền ở các quốc gia đó đă tồn tại hàng trăm năm, thậm chí theo ngh́n năm, họ đại diện cho tầng lớp trên có ăn, có học, có địa vị, có tài sản được tích tụ, tích lũy qua nhiều đời… dĩ nhiên họ phải thuộc giới tính hoa cao quư, thực sự là rường cột tinh thần, linh hồn quốc gia.
Họ nhận ra bài học lịch sử, có thể nói tự họ phải chấp nhận chuyển giao quyền lực để tồn tại - Đấy chính là đẳng cấp của họ.
Nhân dân cầm quyền lực không có chỗ dựa tinh thần, không được dẫn dắt bởi những con người tinh hoa th́ cũng chẳng khác nào một đám đông ô hợp tự đạp nhau mà chết.
Sự thỏa hiệp giai cấp để cùng nhau tồn tại hoà b́nh và thịnh vượng đă đem đến kết quả bằng một Hiến pháp, Luật pháp công bằng, tôn trọng các giá trị con người từ tự do dân chủ cho đến quyền sở hữu tài sản và trí tuệ…
Đến đây thoáng qua chúng ta liên tưởng đến hệ tư tưởng của Mác- Lê Nin về việc đánh đổ quyền lực của giai cấp tư bản bằng chuyên chính (bạo lực) cướp chính quyền có phải là một tư tưởng tiến bộ, hay cũng chỉ là của những kẻ hoang tưởng quyền lực đầy khát máu?
Những kẻ, những triều đại, chế độ đốt sách, đập phá di tích lịch sử, diệt tận gốc những ai được cho là kẻ thù của ḿnh đều không có tương lai tốt đẹp cho họ và cho dân tộc, tại sao vậy?
V́ chính họ không biết lịch sử là một bài học, say sưa với chiến thắng, tự huyễn hoặc quyền lực, họ lại đi vào vết xe đổ bằng cách giấu nhẹm lịch sử, bóp méo lịch sử, xoá sạch lịch sử…
Họ che giấu tham vọng quyền lực bằng một nhà nước bịp bợm, bằng đạo đức giả và bằng những thủ đoạn đê tiện, và cả tội ác.
Họ tưởng họ lấp liếm, bịp bợm được người dân, nhưng họ đang tạo ra hận thù, và hận thù là con đường ngắn nhất đưa họ xuống địa ngục, đất nước loạn lạc.
Quay lại câu chuyện lịch sử về Nguyễn Huệ và Gia Long cho thấy chúng ta đang mất lịch sự theo cái cách bị các toan tính chính trị chi phối.
Chế độ Việt Nam cộng hoà trước đây họ đặt tên đường Nguyễn Huệ, và đường Gia Long đều có ư nghĩa của nó.
Và những người lănh đạo cộng sản họ xoá tên đường Gia Long và thay đặt tên Nguyễn Huệ bằng tên Quang Trung cũng có ư đồ của ḿnh.
Nguyễn Huệ là tên cha sinh mẹ đẻ, việc VNCH đặt tên đường theo nguồn gốc thiếu thời chứng tỏ họ đánh giá Nguyễn Huệ không xứng đáng là một ông vua.
Họ chỉ ghi nhận Nguyễn Huệ là một nhân vật lịch sử.
Gia Long là niên hiệu sau khi Nguyễn Phúc Ánh thống nhất đất nước đổi từ triều đại chúa Nguyễn sang vua của nước Việt Nam.
Nguyễn Huệ năm 1788 trên đường ra Bắc đánh quân Thanh lúc này thế lực đă mạnh quyết lấy thiên hạ với lư do vua Lê Chiêu Thống bán nước đă bỏ khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh” tự phong ḿnh là Hoàng đế xưng hiệu là Quang Trung năm thứ nhất.
Trong khi VNCH công nhận Nguyễn phúc Ánh làm vua nên đặt tên là đường Gia Long.
Miền Bắc cộng sản không công nhận Nguyễn Phúc Ánh làm vua, coi Nguyễn Huệ là vua nên đặt tên đường là Quang Trung.
Kẻ thù của nhau, khác nhau về tư tưởng nhận thức cũng là chuyện b́nh thường, bây giờ giang sơn đă về một mối, nh́n nhận hai nhân vật này như thế nào để có sự thống nhất và hơn hết có sự công bằng khách quan, có giá trị giáo dục và bài học để cho ḷng người không c̣n chia rẽ, chỗ nào cũng thấy thế lực thù địch.
Ai xứng đáng làm vua cần phải có câu trả lời thấu đáo, họ giúp ǵ cho phát triển đất nước, có những chính sách ǵ để quốc thái, dân an, có những tư tưởng tiến bộ ǵ dẫn dắt … cần sáng tỏ.
Hay đơn thuần chỉ v́ mục đích chính trị đă biến một kẻ cướp, với những thủ đoạn dối trá, tàn ác gian hùng được nặn thành anh hùng dân tộc bằng kỹ xảo tuyên truyền để xây dựng h́nh tượng ảo, qua đó bao biện cho những hành động kẻ cướp của ḿnh?
(C̣n tiếp).

Gibbs 03-03-2024 11:30

PHẦN 11.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Từ khi những người cộng sản cầm quyền, Việt Nam không có Chính sử và cả Dă Sử, dù rằng họ có cả một hệ thống nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.
Họ có Viện Sử học, các Bộ, các ngành, các địa phương đều có bộ phận nghiên cứu lịch sử cho ḿnh.
Một số trường đại học có khoa giảng dạy lịch sử, ở bậc phổ thông đều có sách giáo khoa lịch sử. Số lượng Giáo sư, phó giáo sư đi cùng với học vị tiến sĩ trong ngành sử học cũng không phải ít.
Cơ sở vật chất liên quan đến lịch sử bao gồm các Viện bảo tàng cũng khá quy mô. Ngoài Bảo tảng Lịch sử quốc gia, c̣n có Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Quân đội… ngành nào, bộ nào, hội nào, đoàn thể nào đều có bảo tàng của riêng ḿnh, ngoài ra c̣n có bảo tàng, khu di tích lịch sử cho lănh tụ, lănh đạo đất nước như Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Trần Phú…có thể nói ngân sách nhà nước để xây dựng và nuôi sống bảo tảng khá lớn.
Mục đích của họ cho mọi người dân Việt Nam hiện tại và về sau luôn ghi nhớ về một thời đại vàng son nhất trong lịch sử.
Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập đảng cộng sản Việt Nam khẩu hiệu “70 năm rạng rỡ 4000 năm” treo khắp hang cùng ngơ hẻm cho thấy họ coi lịch sử Việt Nam về trước chỉ là những trang đen tối?
Thực tế trả lời không phải như họ mong muốn, môn lịch sử trở thành bị ghét bỏ nhất trong thế hệ trẻ.
Báo Công An nhân dân đưa ra thông tin:
Nhiều trường ĐH có trên 98% bài thi môn sử dưới điểm trung b́nh. Thậm chí có trường chỉ một thí sinh đạt điểm trung b́nh môn sử.
Báo Thanh niên nêu một thực tại bi hài:
Trường ĐH Tiền Giang, hơn 98% thí sinh có điểm thi môn sử dưới trung b́nh. Trường có 253 thí sinh dự thi khối C nhưng chỉ có năm thí sinh đạt điểm từ 5 trở lên, chiếm 1,97%. Trong số đó, cần nói rơ thêm điểm cao nhất chỉ là 5,25 điểm, thế nhưng có đến 47 thí sinh có điểm 0. Trường ĐH Quảng Nam, có đến 99% thí sinh có điểm thi môn sử dưới trung b́nh. Trong số 900 thí sinh dự thi khối C, số thí sinh có điểm 5 chưa đếm đủ 10 đầu ngón tay (9 thí sinh).
Trong gần 1 triệu thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT 2014 sáng 2.6 trên cả nước, chỉ có 11,52% chọn thi môn sử. Nhiều người ngạc nhiên khi biết nhiều trường chỉ có... một thí sinh thi môn sử. Ở vài nơi khác, câu chuyện được bàn tán là cả hội đồng thi mấy chục người, lập ra chỉ để phục vụ 2 thí sinh chọn môn thi này.
Trước t́nh trạng này Trung tướng Nguyễn Quốc Thước phải thốt lên "Tôi suy nghĩ về sự tồn vong của dân tộc. Quên lịch sử là quên dân tộc và mất nước".
Trung tướng Lê Hữu Đức bức xúc khi nghe bộ trưởng bộ GD – ĐT Phùng Quang Nhạ biện minh đó là “b́nh thường”:
Nhiều điểm 0 môn lịch sử là b́nh thường th́ tôi thật sự không hiểu và không đồng ư. B́nh thường là b́nh thường thế nào? Chả lẽ để đến khi nhổ toẹt vào lịch sử th́ mới là không b́nh thường? Sai th́ sửa chứ sao lại phải ngoan cố như thế?
Thanh niên là tương lai của đất nước, quên lịch sử mà bảo là b́nh thường th́ không thể chấp nhận được!
Hàng trăm cuộc hội thảo, diễn đàn, họp hành từ Bộ chính trị, Bộ Văn hoá, Bộ giáo dục và đào tạo… diễn ra đi t́m câu trả lời TẠI SAO MÔN SỬ BỊ THẾ HỆ TRẺ THỜ Ơ, GHÉT BỎ?
Nhiều nguyên nhân được đưa ra, nhưng không ai dám nói thẳng thừng những thứ mà họ gọi là lịch sử thực chất là chỉ mượn lịch sử để nhồi nhét chính trị, ca ngợi sự tài t́nh sáng suốt, công lao trời bể của đảng, lănh tụ đưa dân tộc đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Là bản liệt kê những con số khô khan về xác chết, thiệt hại của kẻ thù, về những tấm gương của những con người như thần như thánh ngớ ngẩn một cách nực cười…
Lịch sử trở thành môn học chính trị, đă cài cắm chính trị lịch sử dĩ nhiên bị bóp méo, bị xuyên tạc và giấu giếm, thậm trí c̣n bị ngụy tạo.
Lịch sử Đảng là lịch sử quốc gia th́ lịch sử chỉ có một phía màu hồng và phía kia là một màu đen tối, và xă hội cũng từ đó mà chia ra thành hai- kẻ thắng trận và bên thất bại.
H́nh ảnh cánh cửa Dinh Độc Lập bị húc, xe tăng nào vào trước trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ai là người thực hiện?
Phạm Tuân có bắn rơi B52 thật không?
Đó chỉ là ngụy tạo.
Từ xa xưa lịch sử được phân chia ra hai loại: Chính sử, và Dă sử cùng tồn tại.
Chính sử là sử sách do cơ quan chính thức của nhà nước biên soạn thường gọi là Quốc sử do các viên chức khoa bảng được chỉ dịnh đứng ra sưu tập tài liệu và biên soạn lịch sử các triều đại hay các biến cố của quốc gia. Nó c̣n được gọi là sử chính thống.
Tuy nói là Quốc sử vẫn không thể khẳng định hoàn toàn nó không bị cài cắm ư thức chủ quan của người viết, của yêu ghét và mục đích chính trị nhưng sự kiện, nhân vật và bối cảnh phải chính xác, không thể ngụy tạo.
Một đặc điểm của Quốc sử là qua mỗi một giai đoạn nó được điều chỉnh, bổ sung, làm rơ khi những điều chưa làm rơ, c̣n trong màn nghi vấn được khám phá sẽ được thay thế vào, và những ǵ bị gạt ra được đưa vào ghi chú đề đối chiếu mà không bị bỏ đi.
Mục đích của Quốc sử là phản ảnh khách quan, trung thực nó không phục vụ cho đảng, phái, thành phần, giai cấp nào, nó phục vụ cho quốc gia dân tộc.
Dă sử chỉ là cách phân biệt vị trí xă hội của những cá nhân viết lịch sử tự do, nhưng Quốc sử sẽ khó làm đúng sứ mệnh của ḿnh nếu không có Dă sử.
Những chuyện thâm cung bí sử, bị bóp méo, giấu nhẹm mà Quốc sử v́ lư do này hay lư do khác phạm phải sẽ được ánh sáng của Dă sử soi vào, bởi những nhà viết sử tự do họ chính là những người trong cuộc.
Hồi kư của những người thuộc diện liên quan đến lịch sử là một dạng Dă sử.
Khi đại tướng Vơ Nguyên Giáp từ “Cây đa Tân Trào về cây đa Nhà ḅ” từ “đại tướng cầm quân thành đại tướng cầm quần chị em”
Theo chính sử của Đảng đấy chỉ là việc phân công nhiệm vụ, nhưng sự thật là một cuộc hạ bệ lẫn nhau nếu không có những cá nhân trong vai tṛ của người yêu lịch sử, dùng lịch sử để soi rơ sự thật như hồi kư “Bên thắng cuộc” của Huy Đức th́ làm sao biết được những mặt trái của vinh quang,thắng lợi, văn minh trí tuệ.
Hỏi tại sao học sinh, người trẻ tuổi không thắm thiết với lịch sử nước nhà, tại sao bảo tàng ít có ai lai bóng v́ thực chất lịch sử đă bị lạm dụng vào mục đích chính trị.
Việc viết lại lịch sử, hay đóng góp một số nhận định, phân tích về các đề tài lịch sử luôn luôn là vấn đề cần thiết nhất là góp ư vạch trần chính sách lợi dụng bộ môn sử học để tuyên truyền ru ngủ quần chúng đặc biệt những giới b́nh dân ít học, hoặc lợi dụng lịch sử để xây dựng những biểu tượng dối trá, tôn sùng thần thánh hóa cá nhân.
(c̣n tiếp)

Gibbs 03-03-2024 11:31

PHẦN 12.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Lịch sử được cấu thành từ chính sử và dă sử là chưa đủ, lịch sử c̣n được tạo ra từ dân gian.
Lịch sử dân gian thông qua truyền miệng, qua văn học, thơ, vè để phản ánh một sự kiện, một hiện tượng, một thời nào đó và lan truyền trong xă hội không cần được kiểm chứng, nhưng có tính trung thực tuyệt đối.
Sử dân gian chính là ngọn đèn soi tỏ, là sự kiểm chứng chính xác những ǵ chính sử đưa ra.
Dưới những chế độ chuyên quyền khi tự do báo chí, tự do ngôn luận bị cấm đoán th́ sự thật lịch sử phải đi bằng con đường khác đó là sử dân gian. Người dân thông qua thơ, vè, văn học nói lái, nói bóng, nói gió để nói lên sự thật, dăi bày tư tưởng của ḿnh.
Xe “cố vấn” áo “chuyên da”.
T́nh cảnh nước nhà lâm thế bí.
Nói lên một thực trạng xă hội nghèo khổ là lốp chiếc xe đạp nó nát, sợ nó nổ phải lấy dây chun quấn lại, quần áo không có mà mặc, đồng thời phản ánh một quốc gia lệ thuộc nước ngoài dù có chuyên gia Liên Xô, cố vấn Trung Quốc đất nước vẫn bí bách tối tăm.
- Đầu đội áp suất, chân đi bạt là.
Nh́n xa cứ tưởng là ma, lại gần mơi biết từ Nga mới về.
- Con ǵ trán hói, bụng to?
Đi xe Von ga, hay nói ba hoa, ăn gà Tôn Đản?
- Cá không ăn muối cá ươn, căi lại chính quyền ra đường bơm xe.
- Xe không phanh mời anh đứng lại.
Không đứng lại làm hại người ta.
Mất tí da là ba đồng sáu.
Mất tí máu là sáu đồng tư.
Mất tư gân là gần chục bạc…
- Bắt cởi trần phải cởi trần.
Cho mày ô mới được phần may ô.
- Mỗi người làm việc bằng hai.
Để cho cán bộ mua đài mua xe.
Mỗi người làm việc bằng ba.
Để cho lănh đạo xây sân, xây nhà.
- Huân chương không lấy đâu,
các cụ bảo thịt trâu dễ chia.
Máy bay đằng Đông các cụ bắn đằng Tây.
Hấy dô trên đất này các cụ già cởi chuồng bắn rơi máy bay…hết xăng.
- Ban ngày cả nước lo việc nhà.
Ban đêm cả nhà lo việc nước.
- Trông mặt mà bắt h́nh dong.
Thấy anh tuyên giáo thấy sao - búa- liềm.
- Con ḅ dắt qua Mạc Tư Khoa cũng thành tiến sĩ.
…………………
Một thời kỳ được tuyên truyền là “hào hùng cách mạng” nếu không có ḍng sử dân gian phản ánh một sự thật đằng sau hết sức sinh động một thời khốn nạn th́ thế hệ sau không thể hiểu được, tại sao bây giờ “đểu cáng lên ngôi”.
Qua sử dân gian mọi sự bịp bợm che giấu bị phơi bày, không phải bây giờ họ mới tha hoá biến chất, ngay lúc trong khói lửa chiến tranh họ cũng lo cho bản thân, vun vén cho lợi ích cá nhân.
Xương máu, nỗi khổ nhục của nhân dân mà họ tự phong là một dân tộc vĩ đại, một chế độ sản sinh ra những con người vĩ đại đă bị sử dân gian “lột truồng” là dối trá. Chẳng có nhân dân nào ham hố cái danh hăo, sự mất mát của họ không phải cho danh dự, không phải tự nguyện mà chính từ sự áp bức cường quyền thúc ép bằng cái bánh vẽ hoàn toàn mơ hồ.
Và lịch sử bị che giấu kéo dài đến hiện nay, hậu quả là lũ cướp ngày vẫn c̣n trơ trẽn với những chiến công hiển hách, chúng không cần phải đóng bộ mặt giả nhân giả nghĩa nữa, nên dân gian mới có bài thơ.
Cướp xưa băng nhóm làng nhàng
Cướp nay có đảng có đoàn hẳn hoi
Có con dấu đóng đỏ tươi
Có c̣ng có súng dùi cui nhà tù
Cướp xưa lén lút tù mù
Cướp nay gióng trống phất cờ phóng loa
Con trời bay lả bay la
Cướp trên bàn giấy cướp ra cánh đồng
Dân oan tuôn lệ ṛng ṛng
Mất nhà mất đất nát ḷng miền quê
Tiếng than vang động bốn bề
Cướp từ thôn xóm tiến về thành đô
Ai qua thành phố Bác Hồ
Mà coi cướp đất bên bờ Thủ Thiêm
Bây giờ mẹ phải dặn thêm
Quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày.
(C̣n tiếp)

Gibbs 03-03-2024 11:31

PHẦN 13.
TẠI SAO PHẢI GIẤU GIẾM, BẺ CONG, BÓP MÉO LỊCH SỬ?
Giấu giếm, bẻ cong, bóp méo lịch sử là sự đầu độc, tẩy nạo dân chúng có hệ thống làm cho họ mất phương hướng đi t́m đến sự thật, không nhận ra đâu là phải trái, không phân biệt đâu là nguyên tắc, đâu là luật lệ, che giấu những thủ đoạn dối trá.
Trong các cuộc họp chi bộ, đảng viên thường được nghe chuyện thời sự t́nh h́nh quốc tế, và trong nước.
Về mặt chính thống trong quan hệ quốc tế hiện nay người ta nói nhiều về chính sách đối ngoại của ta là “ngoại giao cây tre” có nghĩa là mềm dẻo, cái ǵ bất lợi th́ khôn khéo không đề cập đến, hoặc đề cập đến th́ chỉ thoáng qua trung lập.
Nhưng bên trong họ vẫn tuyên truyền cho các đảng viên một chiều, lấy vị dụ về cuộc xâm lược của Nga với Ukraine, các diễn giả vẫn được chỉ đạo bao biện cho hành động ăn cướp của Putin.
Putin là người bạn lớn, thực chất vẫn là người đồng chí của ta, nước Nga của Putin vẫn là chiếc ô bảo vệ cho ta, đứng về phía ta, ủng hộ ta khi ta bị Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế ra nghị quyết lên án về vấn đề nhân quyền, vi phạm dân chủ …trừng phạt, cô lập ta,
ai sẽ bảo vệ ta? Nga và Trung Quốc với hai phiếu phủ quyết sẽ bảo vệ ta chứ c̣n nước nào nữa.
Nói là ngoại giao cây tre, làm bạn với thế giới chỉ là bên ngoài, nâng cấp quan hệ với Mỹ, Nhật lên Chiến lược toàn diện nhưng vẫn phải cài “tôn trọng chủ quyền, thể chế chính trị” động đến chuyện này là cạch mặt ngay.
Ta không thể để Putin phật ḷng lư do là như thế.
Các đảng viên phải luôn nhận thức rằng, Putin không xâm lược Ukraine, đây là “Một chiến dịch đặc biệt’ Nga chỉ lấy lại những ǵ đă mất trong lịch sử.
Họ nói rằng, Crimea và Donbass ngày trước là của Nga, khi Nikita Sergeyevich Khrushchyov làm tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô đă đưa hai vùng đất này về nước cộng hoà Ukraine (một thành viên trong Liên bang Xô Viết) v́ Nikita Sergeyevich Khrushchyov là người Ukraine.
Nga lấy lại các vùng đất này là hợp lư, hợp pháp…
Sau này Liên Xô tan ră, Ukraine trở thành quốc gia độc lập lại đưa vào hiến pháp về lộ tŕnh ra nhập NATO, ai cũng biết NATO là liên minh quân sự được thành lập để chống Liên Xô từ thời chiến tranh lạnh, và nước Nga ngày nay, nên Nga phải lấy lại những vùng đất đă mất và ngăn chặn Ukraine ra nhập NATO, EU để ngăn chặn phương Tây áp sát Nga, bảo vệ chủ quyền của ḿnh.
Nhưng họ giấu nhẹm sự thật là Ukraine Mỹ và phương Tây đă quá ngây thơ ảo tưởng về chú gấu Nga đă mất hết năng vuốt sau khi Liên Xô tan ră, chủ nghĩa cộng sản đă tự chôn ḿnh, mà không hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một h́nh thái trong các nhà nước chuyên chế và chế độ độc tài.
Trung Quốc, Nga dù ở h́nh thái nhà nước nào, chế độ xă hội nào tính chất bá quyền vẫn luôn tồn tại trong tư tưởng của những người cầm quyền.
Có một sự thật mà các đảng viên không được đề cập đó là Thoả thuận Budapest.
V́ t́m hiểu thỏa thuận Budapest sẽ ḷi ra hai vấn đề.
Vấn đề thứ nhất có phải Liên Xô sụp đổ, đảng cộng sản Liên Xô tan ră là do sự phản bội của Gorbachev như họ tuyên truyền hay những người cộng sản đă tự kết liễu nó?
Vấn đề thứ hai khẳng định việc Putin đưa quân xâm lược Ukraine với cái gọi là “Chiến dịch quân sự đặc biệt” chỉ là dối trá.
Việc không dám lên án Nga chứng minh họ không bao giờ đứng về chính nghĩa, mà họ chỉ chọn bên miễn là bảo vệ cho chế độ của họ tồn tại.
Từ những năm 1986- 1990 trước sức ép đ̣i ly khai của các nước cộng hoà trong Liên bang Xô Viết, và phong trào đ̣i cải cách dân chủ của các nước XHCN ở Đông Âu, Gorbachev đă phải đưa ra Perestroika (/ˌpɛrəˈstrɔɪkə/; tiếng Nga: перестройка) qua đó Hiến pháp Liên Xô có sự cải tổ quan trọng, giảm bớt quyền lực của đảng, trao quyền cho Xô viết tối cao và Xô Viết tại các nước cộng hoà nhiều hơn, và quyền lực điều hành đất nước thuộc về tổng thống do Xô Viết tối cao bầu ra, không phải tổng bí thư những người do các Đảng viên bầu…
Cải tổ của Gorbachev được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp và cả các đảng viên cộng sản, nhưng việc cải tổ nhằm mục đích tồn tại Liên bang Xô Viết theo mô h́nh nước Mỹ lại bị các nước cộng hoà và phái bảo thủ phản đối.
Ngay cả cộng hoà liên bang Nga lúc ấy do Yeltsin làm tổng thống cũng không ủng hộ Gorbachev.
Phe bảo thủ trong đảng đảo chính lật đổ Gorbachev ở Matxcova, và Yeltsin cùng với người dân đă đứng ra ngăn chặn đảo chính, bảo vệ Gorbachev với lư do không thể để cho phái bảo thủ trở lại cầm quyền, dù ǵ Gorbachev cũng có những tư tưởng tiến bộ hơn.
Đảo chính của phe bảo thủ thất bại, uy tín của Gorbachev bị mất, vai tṛ của Yeltsin lên cao.
Bộ ba tổng thống của ba nước cộng hoà có tiếng nói lớn nhất trong Liên bang Xô Viết là Ukraine, Belarus, Nga nhóm họp với nhau vào 8/12/1991, tại Belarusia, đó là Leonid Kravchuk, Stanislav Shushkevich, Boris Yeltsin.
Và họ đi đến thống nhất giải tán Liên bang Xô Viết, giải tán đảng cộng sản Liên Xô, các nước cộng hoà trở thành các quốc gia độc lập.
Ba vị tổng thống này ra tối hậu thư cho Gorbachev từ chức, và tuyên bố giải thể Liên bang Xô Viết, đảng cộng sản Liên Xô và ngày 25/12/1991, M. Gorbachev - Tổng thống đầu tiên và cũng là cuối cùng của Liên Xô đă tuyên bố từ chức, tuyên bố giải thể Liên bang Xô Viết, đảng cộng sản Liên Xô.
Sau khi các nước cộng hoà ai về nhà nấy, nhưng 4 nước cộng hoà có vũ khí hạt nhân sẽ giải quyết thế nào?
Các nước phương Tây sẽ phản ứng ra sao, điều này cũng được 3 vị tổng thống thống nhất ngay trong cuộc họp kín mục đích để thông báo cho Mỹ và phương Tây yên tâm và không can thiệp vào âm mưu đảo chính mềm hạ bệ Gorbachev. Theo đó nước Nga sẽ được trao ủy quyền chịu trách nhiệm về quản lư số vũ khí đó.
Và năm 1994 tại Budapest thủ đô Hungary các nhà lănh đạo gồm Anh, Mỹ, Nga, Ukraine đă cùng nhau kư kết thỏa thuận được gọi là Giác thư Budapest với nội dung:
Giác thư này bảo đảm toàn vẹn lănh thổ của Ukraine (gồm Crimea , Donbass…) sau khi họ đồng ư từ bỏ kho vũ khí hạt nhân c̣n lại trên lănh thổ của họ sau sự tan ră của Liên Xô, đổi lại Ukraine và Belarus sẽ nhận được các khoản hỗ trợ kinh tế từ Mỹ và phương Tây, cùng với việc Nga sẽ xoá nợ cho Ukraine, Belarus…
Sau thỏa thuận Budapest Ukraine không c̣n vũ khí hạt nhân, Nga đă gây sức ép chính trị, kinh tế, hỗ trợ cho các nhà độc tài lănh đạo Ukraine và tha hoá họ thành những kẻ tham nhũng đàn áp dân chủ.
Ukraine trở nên rối loạn và nghèo đói dẫn đến cách mạng cam, lúc này Nga sợ mất Ukraine đă tấn công chiến Crimea năm 2014.
Hành động kẻ cướp của Putin khiến Ukraine chỉ c̣n con đường ra nhập NATO bảo vệ chủ quyền.
Ukraine bị Nga cho là đi quá xa, Putin phải chấp nhận một canh bạc nghiệt ngă là tấn công Ukraine, một quốc gia có chủ quyền.
Đến đây chúng ta sẽ thấy một quốc gia không dám đứng ra bảo vệ chính nghĩa, luôn ủng hộ cho những việc làm vi phạm các luật pháp quốc tế th́ quốc gia đó cũng không được quốc tế bảo vệ, không bao giờ đứng, và đi cùng với các quốc gia văn minh, tiến bộ, sẽ là một quốc gia thất bại. Để bảo vệ quyền lực họ sẵn sàng đi theo tiếng nói của quỷ dữ, sẵn sàng giấu giếm, bẻ cong lịch sử.
(C̣n tiếp).

Gibbs 03-03-2024 18:13

Bùi Giáng, một thi sĩ lạ lùng và kỳ vĩ, từng được thầy Tuệ Sỹ trích dẫn thơ của ông vào tác phẩm Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng.
Ngược lại, Bùi Giáng cũng đă từng phân tích, b́nh luận, đánh giá thơ của tri âm tri kỷ ḿnh, thầy Tuệ Sỹ, một Bồ Tát, một trí giả thông tuệ, bậc chân tu lỗi lạc, uyên thâm.
**
Ở trong đời, sao tránh được, dù ḿnh chẳng cố t́nh đâu, vậy mà cũng đôi khi mắc lỗi.
Mắc lỗi, phạm lỗi, ngoài công khai, đường hoàng xin lỗi, ḿnh c̣n có thể sám hối bằng nhiều cách, một trong những kiểu sám hối ấy, là tự ḿnh, kể lại câu chuyện mà ḿnh mắc sai lầm ở trỏng. Tỉ như chuyện này của Bùi Giáng, ông kể hoài kể hủy, khi có dịp.
Bữa nọ, thầy Tuệ Sỹ đọc cho Bùi Giáng nghe hai câu thơ chữ Hán thầy làm:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Dịch ra là:
Đêm khuya gió thổi đùa bóng nghiệp
Trước mắt làm liễu lạc hoa bay
Rồi thầy nói, làm sao tiếp cho hai câu, để nên một bài tứ tuyệt. Bùi Giáng ghẹo, tôi đề nghị, nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Thầy Tuệ Sỹ nghe xong th́ ngượng nghịu, rầy: đừng nên giỡn đùa như thế.
Thấy vậy, Bùi Giáng năn nỉ, thôi, thầy đừng có bực ḿnh nữa, rồi làm hai câu nối vào:
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Dịch ra là:
Tâm sự lâng lâng, ḍng lệ khổ
Hổ thẹn với biển trí v́ chưa thâu đắc được, rừng trúc rối như tơ.
Chẳng nói chẳng rằng, hai bữa sau, thầy Tuệ Sỹ lại đưa tiếp cho Bùi Giáng, một bài thơ có ba khổ, lúc đưa cho Bùi Giáng xem, bài thơ chưa có tựa đề:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang
Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Bùi Giáng vừa lướt qua đă rụng rời tay chưn, hồn phi phách tán, khiếp vía đến mất ăn mất ngủ.
Phát hoảng, Bùi Giáng nói với thầy: này đại sư, ông mau mà gác hết lại chuyện viết sách của ông đi, rồi làm ơn, làm thơ tiếp nhiều cho. Kẻo nền thi ca Việt Nam này sẽ mất đi một thiên tài như ông th́ uổng của lắm lắm.
**
Cô giáo dạy tôi môn lư luận văn học, vẫn cứ tấm tắc với tôi hoài, không ǵ thích bằng, đọc bài của một nhà thơ cảm nhận về thơ của một nhà thơ khác.
Tôi cũng đồng ư với cô Dư Khánh điều ấy, bởi, nhà lư luận phê b́nh ấy mà, ngoài trái tim, họ c̣n có cái đầu rất bén. Cái đầu ấy, chứa đủ thứ lư luận, chứa đủ mọi lư trí để mà mổ xẻ bén ngót, để mà vạch t́m đến tận các ngơ ngách, các lối dẫn vào thơ, mù mờ hay đóng kín tới đâu. Đọc bài của họ, hay th́ hay rồi đấy, nhưng dù muốn dù không, nó vẫn là cuộc phẫu thuật, thậm chí, cuộc đại phẫu thuật. Người đọc, vốn không quen những bắt bẻ với thơ, những vạch lá t́m sâu với thơ, sẽ cảm thấy mất đi niềm hào hứng.
C̣n nhà thơ đọc thơ của bạn thơ, họ gần như chỉ sử dụng trái tim. Họ phiêu bồng, lăng đăng cùng bài thơ ấy. Thậm chí, họ dựa vào nhau, cùng d́u nhau, chắp cánh vào trời mơ, không cần biết đến tha nhân, không thiết tha ǵ đến những hiện thực cơm áo gạo tiền. Họ thưởng thức thơ bằng chủ quan và trái tim nặng t́nh của họ.
**
Bùi Giáng đọc thơ, ngắt giọng như thế này: Đôi mắt ướt tuổi vàng / cung trời / hội cũ.
Ông nói, ngắt giọng như vậy, mới thấy được cái trang trọng dị thường của hoài niệm. Ông hỏi, hoài niệm ǵ? Rồi trả lời: cung trời hội cũ.
Tiếp theo, ông hỏi tới tấp: Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? V́ sao ướt? V́ lệ trào hay v́ quá long lanh?
Hỏi xong, chẳng thấy ai trả lời, ông bèn quay ra to nhỏ, thi sĩ xuất chúng ấy mà, họ hay có những phong thái lạ thường lắm, họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà lại chẳng thấy ǵ hết. Họ nói cho họ mà như nói cả cho mọi người. Nói cho mọi người mà lại chẳng bận tâm ǵ về chuyện thiên hạ có nghe hay không. Vui buồn của họ chẳng giống với buồn vui của chúng ta. Nên trách họ, sẽ là lệch lạc hết cả.
Ta tưởng họ kiêu ngạo. Ta tưởng họ tàn nhẫn. Ta tưởng họ u sầu. Lầm hết. Bởi v́, đôi mắt họ, tưởng đang nh́n ở ngay đây, nhưng đầu họ, tư tưởng họ, đă miên man trong cơi mộng thần di, hồn dịch.
Quay lại bài thơ, Bùi Giáng giảng tiếp, khi thi sĩ nói không rơ, là bởi v́ họ muốn giữ một khoảng trống phóng nhiệm (nghĩa là tự do, để tùy, không xen vào), vắng lặng cho thơ. Tha hồ cho chúng ta nghĩ hai, ba lối. Có thể là đôi mắt thi nhân. Có thể là đôi mắt giai nhân.
Phóng nhiệm và vắng lặng, là thứ rất cần thiết cho thơ.
**
Bùi Giáng qua câu thứ hai: Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang.
Vẫn một kiểu thắc mắc tới tấp, y vậy: Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đă ngẫu nhiên một lần nh́n đắm đuối?
Rồi như sợ bạn đọc rầy ḿnh hồ đồ, Bùi Giáng đính chính: Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Tuệ Sỹ xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông là kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Mẹ ông thỉnh thoảng về Sài G̣n, đem quà cho ông là đôi dép, chiếc khăn quàng.
Bùi Giáng vẫn cứ hỏi như thế, sau mỗi ḍng thơ: Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ / Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Ḿnh là thân Bồ Tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vă lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Rồi xúc động, rồi lại tự diễn giải bằng giọng cảm thấy ăn năn, hối lỗi, như đă cố t́nh dồn một bậc đức cao vọng trọng vào cái lẽ rất đời thường, phàm tục: Phải có nh́n thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng v́ lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la, rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
**
Mối t́nh rộng, thả suốt biển non im ĺm, lạnh lẽo. Một nếp u uẩn của ḷng ḿnh bơ vơ không gột rửa: Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở / Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan.
Và hỏi: Thi nhân đă mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh, tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Rồi tự trả lời: Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về, mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm t́nh dừng, sững, giữa tuyết nguyệt phiêu du.
Một tiếng “buồn chăng”, lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, d́u về cả một khúc tâm thanh đoạn trường: Cười với nắng một ngày sao chóng thế / Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.
**
Vừa nhắc đến Kiều, là Bùi Giáng lấy luôn hai câu thơ: sen tàn cúc lại nở hoa / sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân, trong cái đoạn Thúc Sinh về nhà mà nhớ Kiều quá chừng là nhớ, mang ghép vào với hai câu của thầy Tuệ Sỹ trong khổ thơ thứ ba:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Rồi Bùi Giáng dặn, nhớ ngắt câu thơ khi đọc. Có ngắt, th́ mới thấy được tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh: Đếm tóc bạc / tuổi đời / chưa / đủ / Bụi đường dài / gót / mỏi / đi / quanh.
Bày cách ngắt thơ xong, Bùi Giáng hỏi nữa. Là hỏi tác giả, nhưng không chờ tác giả trả lời, Bùi Giáng tự trả lời luôn. Một ḿnh Bùi Giáng đóng hai vai. Bùi Giáng thích thế mà. Nên thơ Bùi Giáng, luôn là thơ mở, thơ đối thoại. Không giống như một số nhà thơ khác, thích làm loại thơ tự sự, độc thoại, một ḿnh, khép kín.
Dạy văn, các bạn biết không, là cũng hỏi tới tấp như thế đó. Dạy văn, không có nghĩa là giảng liên tu bất tận. Tất nhiên là trừ lúc cao hứng quá, giảng đến chỗ mà ḿnh sướng quá, th́ cũng đôi khi. Nhưng thầy giỏi là thầy buộc được tṛ, chúng phải tự giảng cho chúng nghe, bằng một loạt các câu hỏi thiệt hay. Hỏi hay, đỡ mất thời gian. Hỏi hay, như bắn tên vậy, buông ra là trúng hồng tâm, tránh được lan man, tránh lạc ra khỏi đề tài.
Như Bùi Giáng năy giờ vậy đó.
Bùi Giáng hỏi như thế này: Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi đá sớm từ giă mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa / ngược nước / xuôi ngàn.
**
Kết thúc, Bùi Giáng viết: Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm, lữ thứ khép ḿnh trong bốn bức tường với nhạt nḥa ủ rũ, ngục tù.
Viết như Bùi Giáng ở trên, người ta kêu bằng luận, tức mở rộng vấn đề. Nhưng cũng chỉ mở rộng theo kiểu he hé, gợi ư, đó là h́nh ảnh, là tâm sự của lữ thứ trong bốn bức tường ủ rũ, ngục tù.
Cuối cùng, Bùi Giáng đánh giá: Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đă trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Nghĩa là, từ đông sang tây, nghĩa là, từ cổ điển đến hiện đại, chỉ bằng mỗi bài thơ này thôi, Tuệ Sỹ đă trùm lấp hết thảy.
Tất nhiên, đây là ư kiến riêng của Bùi Giáng. Qua đó mới thấy, t́nh tri âm tri kỷ của họ có được là bởi, không chỉ kính trọng nhau, ở họ c̣n là ḷng mến mộ nhau rất mực.
Mến mộ nhau rất mực, nghĩa là thương mến, nghĩa là ngưỡng mộ tài hoa nhau, ở mức cao nhứt, có thể!
******
Ngày 24.11.2023, tôi cũng có viết một bài tưởng niệm thầy Tuệ Sỹ khi nghe tin thầy qua đời. Thấm thoát mà đă hơn ba tháng.
KHUNG TRỜI CŨ
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang
Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Từ thời c̣n đi học, tôi đă thích lắm bài thơ Khung Trời Cũ. Thích, nhưng thú thực, cũng không rơ ḿnh thích v́ cái ǵ. Kiểu như, đọc lên, nghe êm êm, kiểu như, đọc lên, nghe rất thơ, th́ thích vậy đó.
Khung Trời Cũ là một bài thơ trữ t́nh. Bài thơ là những cảm xúc, những suy tư, tâm t́nh của một vị thiền sư.
******
Giọng thơ, ngay từ đầu, chậm răi, điềm tĩnh: Đôi mắt ướt/ tuổi vàng/ cung trời hội cũ. Đọc lên, dưng không, tôi nhớ đến lời một bài hát của Trịnh Công Sơn, tuổi nào nh́n lá vàng úa chiều nay.
Cái màu vàng của lá, màu vàng của hoàng hôn, màu vàng của bụi đường quan san gió dậy, khi nào cũng dễ làm chúng ta ngậm ngùi. Nó là bằng chứng của tháng ngày nối tiếp nhau qua, như bốn mùa, như tuổi đời đi qua, không sao cản lại được, không cách chi ngăn lại được.
Ở đây cũng xin nói thêm, có bản thơ ghi là “khung” trời hội cũ, nhưng theo thủ bút của thầy để lại, th́ đó là “cung”.
Khung, nghe g̣ bó, hạn hẹp. C̣n cung, tưởng như, ai đang vung cọ, vẽ lên một nửa của ṿng tṛn, bao la, bát ngát trên ṿm trời mênh mông, rộng lớn.
Vậy “hội” là ǵ, “cung trời hội cũ” hiểu như thế nào cho đúng đây?
Thưa, thơ không có đúng sai. Thơ, lại càng không cần phải hiểu cho rốt ráo, cho tỉ mỉ, cho chi tiết, cho đúng với tinh thần ban đầu của người viết. Làm thơ là chuyện của tác giả. Cảm nhận là việc của bạn đọc. Tác giả không có nghĩa vụ giải thích tất cả các thắc mắc của bạn đọc. Đến chỗ này, tôi chợt nhớ đến câu khẳng định của tiểu luận gia Đặng Tiến: Thơ, là quyền uy tối thượng.
“Hội” hiểu là hội ngộ, hiểu là hội tụ, được không? Một dạng của quy tụ, của quay về, của tập hợp những người đồng chí hướng. Và tác giả, trong một ngày bỗng sực nhớ ra. Sực nhớ ra, tuổi ḿnh đang ngày mỗi vàng đi, sực nhớ ra, mỗi ngày ḿnh đang mỗi xa dần những ngày vui thuở nao, thuở c̣n người mến thương người, thuở chung tay nhau, hết ḷng xiển dương chánh đạo, vun đắp nguồn nhơn ái, từ bi.
Và mắt ướt nữa? Mắt ướt v́ cơn gió buốt đầu thu? Mắt ướt v́ lá vườn ai đốt khói? Hay mắt ướt là bởi ḷng hoài vọng cứ măi sóng cuộn dâng?
Chính v́ tuổi rồi sẽ vàng, nên mới, một cảm thán tiếp theo: Áo màu xanh không xanh măi trên đồi hoang.
Làm sao mà xanh hoài được chớ, áo cỏ cây, áo gió mây, áo muông thú, áo con người, áo thiên nhiên. Không xanh măi, đó chính là quy luật.
Biết là quy luật, biết là không thể khác, vậy mà, cũng đă có lúc, đọng ḱa nơi khóe mắt, cũng đă có lúc, thấy ḿnh như gấp gáp: Phút vội vă bỗng thấy ḿnh du thủ.
Để rồi ngay lập tức, nghe ḷng ḿnh ân hận, nên, cần lắm một đêm: Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Tuổi th́ vàng, áo th́ không xanh măi, và, trăng kia sẽ rồi tàn. Tất cả, tất cả, đều là những vô thường, đến rồi đi, có rồi mất. Quy luật.
******
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Núi th́ cứ măi cao vời, đỉnh đầu non giá lạnh. Biển th́ măi trong ḷng, hằng hà sa số muối, chẳng tan. Chúng bền bỉ và kiên gan.
Chỉ mỗi ta, sao chóng thế, cười ngắn, nắng tàn. Và đông hạ, nay mai, đổi thay xoành xoạch.
Sau những thảng thốt ấy, tác giả sững sờ: buồn chăng.
“Buồn chăng” ở đây, là câu hỏi hay câu cảm? Cả hai. Hỏi người, hỏi ta, rồi tự thú - buồn, buồn lắm. Sao mà không buồn cho được, khi, kiếp nhân sinh ngắn ngủi quá, quay đi quay lại, chưa đủ mộng tang bồng, th́, đă tận!
******
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
“Đếm tóc bạc” ở đây, là h́nh ảnh tượng trưng, ước lệ. Chưa đủ trăm năm mà tóc trắng đă vầng mây. Mà bụi đường mịt mùng, mà gót mỏi quẩn quanh. Quẩn quanh, bốn vách tường ủ rũ.
Những động từ “đếm, đi, ngó”, những tính từ “bạc, dài, mỏi, ủ rũ”, chúng được xếp cạnh nhau, khiến thơ mang một nhịp đều, một nhịp buồn, vô tận.
Đời chưa đủ. Việc chưa xong. C̣n bao dở dang. C̣n bao ước vọng. Th́, đă: Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Muôn con nước đă hội tụ về, chờ xuôi ngàn - cung trời hội cũ!
******
Bài thơ thiệt buồn. Đọc lên thôi, nghe cũng đă buồn, huống hồ phân tích, diễn giải, nỗi buồn nghe lại càng nhiều hơn lên.
Bài thơ cho ta hiểu thêm về thầy Tuệ Sỹ, một đời không của nả tư riêng, không màng quyền cao chức trọng, lại càng không màng cái gọi là chùa lớn, chùa to. Chỉ với chiếc áo lam màu cũ kỹ, trong sạch, thanh cao, chỉ với căn pḥng nhỏ, miệt mài viết sách, miệt mài suy tư, làm sao cho non nước, quê hương đặng thái b́nh, làm sao cho chúng sanh bớt khổ.
Cuộc đời thầy, một cuộc đời của hiến tặng, cho đi.
Tôi viết bài này lúc kim đồng hồ chỉ nhích hơn bốn giờ chiều nay, lúc đọc đầu tiên trên trang anh Trần Triết, và Vũ, nhẹ nhàng những câu chia xa. Biết là thầy Tuệ Sỹ đă viên tịch.
Vậy mà, vẫn cảm giác như, đâu đây, thấp thoáng - đôi mắt ướt, tuổi vàng, cung trời hội cũ!
Sài G̣n 02.03.2024
Phạm Hiền Mây

Gibbs 03-03-2024 18:42

Từ năm 1907 Phan Châu Trinh đă chỉ ra "10 điều bi ai của dân tộc Việt":
1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết v́ việc nghĩa, v́ lợi dân ích nước; th́ người nước ḿnh tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhă đoạ đày.
2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; th́ người ḿnh chỉ biết ngồi không ăn bám.
3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; th́ ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.
4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; th́ ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau v́ chữ lợi.
5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; th́ ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.
6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; th́ ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đ́nh bán hết ruộng hết trâu.
7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; th́ ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.
8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lư, th́ ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.
9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; th́ ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc ǵ cũng cầu trời khấn Phật.
10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là "đầy tớ" của dân, được dân tín nhiệm; th́ ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đ́nh, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...

Gibbs 03-04-2024 12:48

PHẦN 14.
CHÚNG TA ĐANG ĐI VỀ ĐÂU?
Lịch sử xă hội loài người trải qua 4 thời kỳ, mỗi một thời kỳ h́nh thành một kiểu nhà nước đó là nhà nước nông nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xă hội chủ nghĩa, vậy trong tương lai sẽ là kiểu nhà nước ǵ?
Theo quy luật phát triển nhà nước sau tiến bộ hơn nhà nước trước, điểm tiến bộ quan trọng nhất là quyền lực nhà nước ngày càng bị kiểm soát của nhân dân được cụ thể hoá trong hiến pháp và pháp luật bằng các QUYỀN, tính độc lập, và cân bằng quyền lực trong thế tam quyền.
Và Nhà nước Tư sản là h́nh mẫu kiểm soát quyền lực tốt nhất trong hiện tại.
Hai cuộc cách mạng vô sản và tư sản đă đánh đổ thành tŕ nhà nước phong kiến tồn tại hàng ngh́n năm, nhưng lại đi theo hai hướng khác nhau và đối đầu nhau.
Sự khác biệt của Nhà nước Tư sản và nhà nước Xă hội chủ nghĩa cũng chỉ khác nhau ở QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN CON NGƯỜI.
Cách mạng Tư sản đă thay nhà nước phong kiến bằng một nhà nước dân chủ hơn, quyền lực nhà nước không tập trung trong tay một cá nhân, tổ chức, chính đảng nào.
Bộ máy nhà nước do người dân thông qua bỏ phiếu chọn lựa mà h́nh thành từ cơ cấu, đến nhân sự.
Cách mạng tư sản đánh đổ nhà nước phong kiến nhưng không cướp đoạt, chiếm đoạt tài sản của các vua chúa, địa chủ, giới chủ.
Nhà nước tư sản tôn trọng và bảo vệ các quyền sở hữu tài sản của các thành phần trong xă hội. Sự công bằng xă hội theo nghĩa công bằng về quyền lợi chính trị, công bằng về các giá trị con người không phải công bằng về các giá trị vật chất.
Ai tài giỏi hơn, trí tuệ hơn, vốn liếng tài sản nhiều hơn dĩ nhiên phải giàu có hơn, hưởng thụ cao hơn miễn không vi phạm pháp luật đấy là sự công bằng tuyệt đối.
Cách mạng Vô sản th́ ngược lại, đánh đổ nhà nước phong kiến họ chiếm đoạt, tước đoạt tài sản của những kẻ họ cho là bóc lột.
Thế nào là bóc lột? Đơn giản đối với họ nếu có đất đai, nhà máy đồn điền.. có người làm thuê là bóc lột.
Chiếm đoạt tài sản chưa đủ, họ bắt những người này phải học tập, cải tạo lao động, họ lập ra đội cải cách để đấu tố xử tội, và tử h́nh rất nhiều người.
Họ cấm tiệt sở hữu tư nhân về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, trí tuệ…
Tài sản thu được, chiếm đoạt được họ đưa vào công hữu, hiến pháp họ đưa vào nhà nước là công cụ quản lư xă hội, và Đảng của giai cấp vô sản là người lănh đạo nhà nước.
Bộ máy nhà nước được h́nh thành theo nghị quyết của đảng, các cá nhân trong bộ máy nhà nước do đảng phân vai thông qua các cuộc bầu cử giả hiệu “đảng cử dân bầu”.
Trong nhà nước xă hội chủ nghĩa sự công bằng được thể hiện bằng công bằng vật chất, không có kẻ giàu người nghèo, nhưng các giá trị và các quyền con người như biểu t́nh, tự do ngôn luận báo chí, tự do lập hội, lập đảng, tự do tranh cử, bầu cử … lại bị cấm tiệt.
Nghĩa công bằng theo họ đó là sự cân bằng, thực ra cân bằng chỉ là sự công bằng tương đối, có tính chất tạm thời, trong một thời điểm ngắn hạn nhất định.
Đấu tranh, thậm chí tranh dành sự công bằng vật chất trong một chế độ công hữu, lấy làm chủ tập thể ra làm thước đo cống hiến đă biến con người trở thành ác thú với nhau.
Từ việc nhỏ phân chia một bánh xà pḥng, một cái lốp xe đạp, đến việc lớn như phân nhà, chế độ xe cộ… đă biến đồng chí, đồng nghiệp phải đấu tố nhau thông qua các cuộc b́nh bầu, rồi chạy vạy, nhờ vả lănh đạo, làm cho tiếng nói của đồng chí bí thư này, chủ tịch kia dần trở thành thứ quyền lực thực sự, không phải chỉ trên giấy.
Thứ quyền lực gắn với vật chất, có quyền lực là có vật chất, có quyền lực có quyền sinh, quyền sát đă làm hư hỏng đảng cầm quyền là điều không tránh khỏi.
Một nhà nước công hữu về tư liệu sản xuất, tư hữu về quyền lực sẽ biến những kẻ cầm quyền lực trong tay ngày càng biến chất t́m mọi cách, thủ đoạn chuyển hóa tài sản công, tài sản nhà nước về tay ḿnh đây là một quy luật tất yếu.
Họ xây dựng một nhà nước bằng quyền lực độc tôn, tin rằng với quyền lực tập trung, dẫn dắt người dân bằng bả vật chất, kèm theo sự cai quản hà khắc sẽ tạo ra một “động lực đám đông” có thể rời non, lấp biển tạo ra một chế độ thiên đường trong tương lai.
Sự hoang tưởng quyền lực lớn nhất của những kẻ cầm trong chế độ chuyên quyền chính là họ tin tưởng vào sức mạnh quần chúng, sức mạnh tập thể sẽ “biến cái không thể thành cái có thể”, cho nên nhân dân trở thành nạn nhân chăn dắt như bầy đàn, không con nào được tách ra, không con nào được đi ngược hướng.
(C̣n tiếp).

Gibbs 03-06-2024 09:58

PHẦN 15.
NHÂN DÂN THẤT BẠI TOÀN TẬP.
Ta phân biệt án tham nhũng và án lừa đảo chiếm đoạt tài sản thành hai cho dễ hiểu.
Án tham nhũng chủ thể bị cáo là các quan chức trong đảng và nhà nước lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản.
Án lừa đảo chủ thể liên quan đến các đại gia thuộc các tập đoàn kinh tế tư nhân.
Tách ra như vậy, nhưng khi đi vào bản chất sâu xa của hai vụ án này sẽ thấy có một điểm chung, đứng đằng sau nó là những ông trùm điều khiển và bảo kê.
Những ông trùm này có quyền lực lũng đoạn hệ thống, có kim bài miễn tử, động đến những ông trùm này hệ thống quyền lực sẽ sụp đổ.
Lấy hai vụ án Việt Á và Chuyến bay giải cứu ra làm ví dụ, đây là hai vụ án liên quan đến các quan chức tham nhũng, quy mô của nó có thể xác định những kẻ cầm đầu trực tiếp trong vụ án không đủ khả năng lũng đoạn hệ thống.
Chu Ngọc Anh chỉ là quan đô trưởng, Nguyễn Thanh Long là bộ trưởng một ngành không thể chỉ đạo và liên kết hệ thống giữa các ngành, các địa phương trong toàn quốc.
Dù không công bố công khai cụ thể về trách nhiệm liên quan nhưng ông Nguyễn Xuân Phúc (Chủ tịch nước), ông Vũ Đức Đam (phó thủ tướng) được kim bài miễn tử đă về vườn an hưởng tuổi già, đây có phải là những ông trùm thực sự?
Vụ Chuyến bay giải cứu cũng tương tự, làm sao mấy quan chức thuộc hạng làng nhàng thứ trưởng, cục trưởng giữa đại dịch trầm trọng, thiết quân luật như trong chiến tranh có thể huy động, vận hành cả hệ thống bộ máy nhà nước từ Hàng không, Bộ y tế, Bộ công an, Bộ Quốc pḥng, Bộ công thương, Bộ giao thông, truyền thông... điều này khiến công luận nghi ngờ, liên tưởng đến vai tṛ của những ông trùm hoàn toàn không vô lư, và ông Nguyễn Xuân Phúc, ông Phạm B́nh Minh là hai cái tên bị nghi vấn, và cũng không bất ngờ sẽ có những cái tên khủng được xướng lên.
Đến đây lại chợt nhớ đến việc kỷ luật đồng chí X, khiến mọi người nhận ra rằng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ là chưa đủ, nguyên tắc của pháp luật, của nhà nước pháp quyền đó là minh bạch, công khai, công bằng không được thực thi sẽ không giải quyết được gốc vấn đề, biến nó trở thành thứ khẩu hiệu tuyên truyền.
Vẫn có những vùng cấm đặc biệt, nếu liên quan đến sự tồn vong chế độ sẽ tuyệt đối không được động vào, phải vuốt ve, phải thỏa hiệp không thể để vỡ trận.
Và sự tồn tại của các ông trùm, không bị pháp luật sờ gáy đấy chính là nguyên nhân tham nhũng, tiêu cực sẽ không bao giờ hết, chứng minh luận điểm ta đánh ta chỉ là một sự an ủi cho những người dân bị chăn dắt, móc túi.
Các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến các đại gia trong các tập đoàn kinh tế tư nhân như Trương Mỹ Lan SCB, Trịnh Văn Quyết FLC, … gây hậu quả khủng khiếp trong một thời gian dài đều có bóng dáng của các ông trùm đứng đằng sau.
Trương Thị Mỹ Lan gắn với mối quan hệ đến Lê Thanh Hải (Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy Hồ chí Minh)…
Trịnh Văn Quyết gắn với cái tên Trịnh Đ́nh Dũng (Phó thủ tướng) cùng quê Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Lê Thanh Hải củi gộc ḷ không đủ công suất để đốt cháy vẫn b́nh chân như vại, Trịnh Đ́nh Dũng nhẹ nhàng nhận kỷ luật khiển trách.
Hai kẻ này chưa thuộc diện “kim bài miễn tử” nhưng mối quan hệ và sự ràng buộc đă biến họ thành những đại thần lũng đoạn được triều chính. Và trong cung đ́nh toàn những kẻ cơ hội, mỗi kẻ một mảng, một miếng, ràng buộc lẫn nhau, rất khó cái gọi là nghiêm minh, công chính tồn tại.
Có một điểm chung của tất cả các vụ án đă nêu ở trên là gây hậu quả rất nghiêm trọng trong một thời gian dài, quy mô rất rộng, hoàn tất một cách trót lọt, tài sản, tiền bạc đă được tẩu tán, chia chác nhau mà không hề bị ngăn chặn, phát hiện… khiến công luận không những đặt nghi vấn về vai tṛ của các ông trùm, c̣n cho thấy sự thất bại của cả một hệ thống quản lư, giám sát của nhà nước…
Và cho thấy tính liêm chính của tất cả các quan chức nhà nước liên quan công tác bảo vệ pháp luật đều đáng nghi ngờ.
Họ cũng tranh thủ “đục nước béo c̣” nhúng chàm, bao che… và họ chỉ hành động khi đến thời điểm “người đi săn phải biết ăn thịt chó”, hay được ẩn dụ bằng thành ngữ “nuôi béo để thịt”, cuộc chơi chỉ dừng lại khi đi quá xa sẽ mất chế độ.
Nhiều người nghĩ để các đại án này xảy ra là thất bại của quản lư nhà nước, sự tê liệt của hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật - về nguyên lư vận hành th́ đúng như vậy, khi Nhà nước chỉ đóng vai tṛ quản lư hành chính.
Nhưng khi nhà nước đóng cả vai tṛ quản lư, sở hữu tài sản, nguồn lực quốc gia th́ thất bại của nhà nước thực sự là thất bại của nhân dân. V́ tài sản nhà nước, nguồn lực quốc gia là công sức của người dân tạo dựng, từ các cuộc chiếm đoạt mà h́nh thành sau khi họ nắm chính quyền và dùng quyền lực để quốc hữu hoá…
Họ đă dùng quyền lực xây dựng chính sách, tạo chính sách để sân sau, sân trước, cho đàn em, đệ tử biến tài sản công thành của riêng đặc biệt là đất đai…
Bảo kê cho các doanh nghiệp tháo túng thị trường chứng khoán, vàng, thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế, thao túng ngân hàng…
Nói đến nhà nước là nói về hệ thống bộ máy, nhưng để vận hành bộ máy lại do các quan chức, và đứng đằng sau là những ông trùm điều khiển, các ông trùm này bàn tay che lấp mặt trời th́ nhà nước chỉ là cái b́nh phong cho họ mưu mô thực hiện cho lợi ích cá nhân.
Các đại gia là công cụ để cho các ông trùm mượn tay để chiếm đoạt tài sản nhà nước, nhân dân.
Nhà nước bị các ông trùm lũng đoạn, các quan chức bộ máy bảo vệ pháp luật lợi dụng cơ hội bằng cách ăn hối lộ, bảo kê, tống tiền.
Đại gia ở ta chỉ là những kẻ đầu sai, do các ông trùm tạo dựng, họ là thủ phạm nhưng cũng là nạn nhân của chế độ.
Các đại gia được bật đèn xanh, được bảo kê mới lừa đảo được khách hàng, nhà đầu tư… vơ được đống tiền lúc ấy là đến ngày bị trảm. Tiền, tài sản chiếm đoạt đă chia năm, cống bẩy cho các ông trùm, cho các đại ca.
Và trong ṿng quay của một thể chế như thế người thất bại toàn tập chính là nhân dân không phải ai khác.
(C̣n tiếp)

Gibbs 03-07-2024 09:19

PHẦN 16
ĐEO CÙM VÀO CỔ DÂN.
Không đất nước nào trên thế giới như ta, lấy cam kết như một h́nh thức quản lư xă hội.
Cam kết không lấn chiếm vỉa hè, cam kết thực hiện xây dựng gia đ́nh văn hoá mới, cam kết tu dưỡng rèn luyện phấn đấu, cam kết không có tranh chấp, khiếu nại về ranh giới đất đai… Đoàn thanh niên cam kết “nói không với thuốc lá, thuốc lá điện tử” cam kết ứng xử văn minh trên không gian mạng….
Chính quyền và các tổ chức xă hội hàng năm lại nhét cho từng gia đ́nh, cá nhân một đống cam kết theo tờ mẫu in sẵn, người dân chỉ việc kư vào.
Họ nghĩ rằng nếu không cam kết người dân sẽ không tự giác thực hiện những thứ họ đă quy định, kư vào sẽ như cái cùm không thoát ra được, cái cớ để họ gọt đầu.
Và họ, chính quyền cũng đưa ra nhiều cam kết với nhân dân, cam kết về tiến độ dự án, cam kết về cải cách thủ tục hành chính, đưa ra các mốc năm này, năm nọ đất nước trở thành công nghiệp hoá, có thu nhập cao… bằng các nghị quyết…
Các doanh nghiệp cam kết với người tiêu dùng về chất lượng dịch vụ, chất lượng hàng hoá, tiến độ giao hàng…
Cả xă hội xây dựng ḷng tin với nhau bằng cam kết, lấy cam kết như một h́nh thức quản lư xă hội.
Cam kết được hiểu là một thỏa thuận có sự thống nhất của hai bên nhiều bên cũng giống như hợp đồng trên nguyên tắc tự nguyện, đúng pháp luật và có tính khả thi.
Dù ở ta cam kết có mặt khắp nơi, trong mọi hoạt động cuộc sống nhưng thực sự không đem lại hiệu quả như những ǵ người ta kư vào, hay đưa vào nghị quyết.
THỨ NHẤT.
Nó vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện.
Chính quyền dúi vào tay người dân bắt họ phải cam kết xây dựng gia đ́nh văn hoá mới theo những tiêu chuẩn đặt ra.
Tại sao bắt công dân phải cam kết rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu theo những tấm gương này nọ? Kết quả càng học càng hư, càng hỏng là sao.
Cái này có vi phạm các quyền công dân được lựa chọn định đoạt văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng sở thích của riêng ḿnh? Như hiến pháp quy định.
THỨ HAI
Là không b́nh đẳng, riêng chuyện người dân không kư vào bản cam kết đă như mắc tội không thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nước, khi đă kư vào bất luận sai phạm những ǵ cam kết là vi phạm pháp luật không thể biện minh cho khách quan, đổ lỗi cho hoàn cảnh là bằng chứng để chính quyền xử lư không cần toà án, không cần xét xử… có cớ hành dân.
Nhưng những cam kết của chính quyền được pháp lư hoá bằng nghị quyết, hay quy định không thực hiện đúng với dân đến lời xin lỗi c̣n không có, phê phán hay phản ứng lôi thôi c̣n bị quy vào tội chống đối đảng, nhà nước.
Cái giá của cam kết mà chính quyền đưa ra là tính mạng, tài sản, tiền bạc của người dân.
Lấy ví dụ cái đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông chính phủ cam kết tiến độ hết lần này đến lần khác, nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm, đội vốn lên nhiều lần, giao thông ách tắc, gây ra nhiều tai nạn chết người.
Cam kết có thể tạo ra sự chịu đựng. Thậm chí, chính hệ thống cũng phải chịu đựng một lực lượng các công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” và việc làm thế nào để tinh giản biên chế, hay nói đúng hơn là đuổi những người vô dụng này đi là một vấn đề nan giải.
Tất nhiên là người dân cũng phải chịu đựng những người này ngay cả khi họ không làm việc. Họ có “biên chế” kia mà. Nếu cán bộ hành chính ở địa phương mà “đi ăn sáng” đến 9h30 bắt người dân ngồi chờ hoặc ngày nào cũng “đi họp” đến tận 16h30 (nghĩa là hết giờ làm việc) và hỏng việc của dân th́ cách duy nhất người ta có thể làm là... chịu đựng. Dù công chức, viên chức, đảng viên đều đăng kư thực hiện học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
THỨ BA.
Không có tính khả thi.
Bắt người dân cam kết không lấn chiếm vỉa hè, nhưng hạ tầng không mở mang, quản lư xă hội yếu kém.
Vỉa hè thiết kế cho một thành phố vài chục vạn dân, nay lên đến hàng triệu dân không đè lên nhau mà sống là chuyện lạ, kư cam kết bắt dân kư th́ phải kư nhưng năm này năm khác cái bản cam kết thành cái cớ để quan chức thu hồ, nộp hồ là xong. Vỉa hè vẫn ngang nhiên bị lấn chiếm, cam kết như một bảo bối của chính quyền để bịt miệng sự phản kháng của người dân.
THỨ TƯ.
Bản cam kết nó chứng minh một xă hội không đề cao pháp luật, không lấy tính tuân thủ pháp luật là điều kiện cao nhất xử lư các vi phạm pháp luật.
Bản cam kết là một công cụ trói buộc theo luật riêng của các sai nha địa phương, dùng nó để dọa dân, khống chế dân tác oai, tác quái chặt chém dân. Trong một giới hạn nào đó nó được sử dụng như luật rừng, thay thế các quy định chính tắc.
Nó cũng phản ánh xă hội nước ta là một xă hội vô pháp, không lấy luật pháp làm công cụ điều chỉnh hành vi, luật pháp là sự thỏa thuận giữa các thành phần trong xă hội, th́ chân lư sẽ thuộc về những kẻ mạnh.
THỨ 5.
Là vấn đề đạo đức và tính tự giác.
Nếu người viên chức ở địa phương không cam kết với “biên chế”, với “tổ chức”, mà cam kết với cuộc sống của những người dân, anh ta sẽ có mặt ở cơ quan lúc 8h và hẳn làm việc rất nghiêm túc.
Nếu người lănh đạo không cam kết với “nhiệm kỳ”, “nhiệm vụ”, “nghị quyết” mà cam kết với di sản của ḿnh - việc ḿnh được nhớ đến trong ḷng nhân dân thế nào - chắc những quyết sách sẽ được cân nhắc cẩn thận hơn.
Nếu tất cả các quan chức đều nghĩ rằng, luật pháp là công cụ điều chỉnh hành vi xă hội, họ sẽ củng cố hoàn thiện chính sách, tận tâm với công việc, không ràng buộc, quản lư xă hội bằng những cam kết để đổ tội hết cho dân, trói dân bằng thứ công cụ chỉ trên những nguyên tắc đúng ra chỉ là những thỏa thuận.

Gibbs 03-08-2024 06:22

PHẦN 17.
SỰ THẬT CỦA ĐẠO ĐỨC, VĂN MINH.
Tính từ năm 1945 cho đến nay, họ đă cầm quyền được 79 năm, muốn thấy rơ sự thật của đạo đức văn minh như thế nào chỉ cần xem xét một thứ đó là lịch sử của các lần sửa đổi Hiến pháp.
Nghiên cứu lịch sử Hiến pháp của hai nước có nền kinh tế phát triển và được cho là xă hội văn minh nhất thế giới là Nhật Bản và Mỹ cho thấy vai tṛ của Hiến pháp đă thay đổi số phận dân tộc họ như thế nào.
Trước năm 1945 Nhật Bản có Hiến pháp Minh Trị 1889, đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Châu Á, mục đích đưa Nhật Bản trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Để soạn thảo Hiến pháp, năm 1882 Thiên Hoàng Minh Trị đă cử một phái đoàn do Ito Hỉobumi sang châu Âu tham khảo hiến pháp của các gia này. Cuối cùng họ đă chọn hiến pháp của đế quốc Phổ làm khuôn mẫu.
Theo đó Thiên Hoàng Minh Trị là người bạn bố Hiến pháp Minh Trị. Lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản Hiến pháp quy định rơ giới hạn quyền hành pháp của Thiên Hoàng, dù Thiên Hoàng là biểu tượng tuyệt đối bất khả xâm phạm, nhưng không phải là ông vua phong kiến.
Hiến Pháp đồng thời quy định cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan hành pháp và lập pháp.
Cùng với cải cách sâu rộng, và với bản Hiến pháp mang tính dân chủ hơn Nhật Bản đă phát triển như vũ băo, trở thành một đế quốc hùng mạnh.
Nhưng Hiến pháp Minh Trị vẫn chưa triệt để, quyền lực vẫn nằm trong tay Thiên Hoàng đă biến nước Nhật trở thành một đế quốc xâm lược, lấy chủ nghĩa bá quyền để mở rộng bờ cơi chiếm đoạt tài nguyên của các quốc gia lân bang đă khiến Nhật Bản phải chịu một thất bại cay đắng trước Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1946 sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh để thực hiện việc dân chủ hoá Nhật Bản theo tinh thần hội nghị Potsdam Nhật Bản tiến hành sửa đổi Hiến pháp, nhưng Mỹ cho là “b́nh mới nhưng vẫn rượu cũ pha lại”.
Và Douglas MacArthur đă ra lệnh cho văn pḥng của ḿnh tự soạn thảo Hiến pháp mới cho Nhật Bản.
Trong bản Hiến pháp do Mỹ đưa ra Nhật Hoàng được coi là biểu tượng của nhà nước và sự đoàn kết toàn dân, song bị tước bỏ thực quyền.
Một cấu trúc lập pháp lưỡng viện h́nh thành giống như ở Mỹ, đặc biệt trong Chương II chỉ vẻn vẹn có một điều khoản Điều 9 - chỉ rơ nhân dân Nhật Bản “Vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh khỏi chủ quyền quốc gia, Vĩnh viễn không sử dụng vũ lực hay đe dọa bằng vũ lực khi giải quyết các tranh chấp quốc tế”.
Mùa thu 1946 đại đa số nhân dân Nhật Bản đă bỏ phiếu ủng hộ bản Hiến pháp mới.
Trải qua đúng gần 80 năm bản Hiến pháp này vẫn gần như giữ nguyên tính toàn vẹn của nó.
Với Hiến pháp của nước Mỹ, nó ra đời c̣n lâu hơn vào năm 1788 và có hiệu lực vào năm 1789, tức là đă hơn 300 năm và là bản Hiến pháp duy nhất tồn tại đến bây giờ c̣n giữ nguyên được những giá trị cốt lơi, không bị sưa đổi đó là cấu trúc “tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Tổng thống), tư pháp (Toà án).
Trong Hiến pháp của Mỹ không có một ḍng nào ghi “Quyền lực thuộc về nhân dân” nhưng ghi rất cụ thể về các quyền cơ bản của con người.
Dù đă hơn 300 năm bản Hiến pháp này mới được tu chính 27 lần trong đó có 10 lần tu chính về các quyền tự do cơ bản của công dân ngày càng mở rộng được đề xuất vào cùng một ngày là ngày 25/9/1789.
Và cho đến nay nó là bản Hiến pháp ít bị sửa đổi nhất trên thế giới.
Ở Việt Nam th́ sao?
Theo ḍng lịch sử lập hiến của nước ta, kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa đến nay, nước ta đă có 05 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013.
Cùng với sự sửa đổi Hiến pháp 5 lần chỉ trong ṿng gần 80 năm Luật đất đai theo nó cũng phải sửa đổi liên tục.
Không kể giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1987 Luật đất đai chưa ra đời, tính từ năm 1988 đến năm 1993:
Thực hiện theo Luật Đất đai 87; Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003: Thực hiện theo Luật Đất đai 93; Luật Đất đai 2003, Luật đất đai 2013 và sắp tới thực hiện Luật đất đai 2023.
Họ sửa đổi những nội dung ǵ trong Hiến Pháp mà sửa đổi nhiều thế?
Lần theo các bản Hiến pháp sửa đổi qua các thời kỳ th́ nội dung quan trọng nhất liên quan đến quyền lực và đất đai bị sửa đổi nhiều nhất.
Về quyền lực của nhân dân ngày càng bị thu hẹp, quyền lực của đảng ngày càng tăng lên.
Hiến Pháp 1946 tuyệt nhiên không nói đến quyền lực của đảng.
Điều 4 trong Hiến pháp 1959 ghi quyền lực thuộc về nhân dân.
Bắt đầu từ Hiến pháp 1980 và các bản Hiến pháp sau điều 4 trong Hiến pháp 1959 được thay thế bằng cụm từ “Đảng cộng sản là lực duy nhất lănh đạo nhà nước, lănh đạo xă hội…”
Về vấn đề đất đai:
- Hiến pháp 1946, Điều 12 “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm..”
Lúc ấy đất đai của tư nhân vẫn chưa bị quốc hữu hoá.
- Hiến pháp 1959, mặc dù ghi:
Điều 11:
Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các h́nh thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: h́nh thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, h́nh thức sở hữu của hợp tác xă tức là h́nh thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, h́nh thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và h́nh thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.
Điều 12:
Kinh tế quốc doanh thuộc h́nh thức sở hữu của toàn dân, giữ vai tṛ lănh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.
Các hầm mỏ, sông ng̣i, và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân.
Thực tế cải cách ruộng đất 1953- 1956 đất đai của địa chủ, tư sản đă bị tịch thu chia cho dân nghèo, nhưng nhà nước lại thu lại để đưa vào hợp tác xă, nông trường…
Nhưng chưa đặt vấn đề đất đai do nhà nước làm chủ sở hữu, quản lư.
- Hiến pháp 1980:
4 h́nh thức sở hữu đất đai (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ, sở hữu của nhà tư sản dân tộc) ở Hiến pháp 1959 được gộp làm một, đó là sở hữu toàn dân (Điều 19) do Nhà nước thống nhất quản lư.
Căn cứ vào Hiến pháp 1980, năm 1987 Luật đất đai đầu tiên ra đời và từ đó sửa đổi 6 lần nhưng vẫn trên nguyên tắc tại điều 19 của Hiến pháp 1980 cho đến nay.
KẾT LUẬN:
Trong khi Mỹ và Nhật Bản không phải sửa đổi Hiến pháp nhiều lần, và có sửa đổi th́ theo hướng bảo vệ, tăng cường, củng cố các quyền công dân, quyền lực nhà nước bị nhân dân giám sát thông qua xă hội được dân chủ hoá cụ thể bằng các quyền biểu t́nh, tự do ngôn luận, báo chí, bằng tranh cử, bầu cử… các quyền sở hữu tài sản, đất đai của mọi thành phần, tầng lớp trong xă hội được bảo vệ, th́ ở Việt Nam đang càng ngày càng ngược lại.
Hỏi đạo đức văn minh nó ở chỗ nào, Hiến pháp được cụ thể hoá bằng Luật cho ai?
Dân giàu, nước mạnh vẫn chỉ là khẩu hiệu, và măi măi chỉ là thứ bánh vẽ không bao giờ thành hiện thực.
(C̣n tiếp)

Gibbs 03-11-2024 12:04

PHẦN 18.
BI KỊCH TRONG CHỐN QUAN TRƯỜNG.
Quá tŕnh cải cách mở cửa đă tạo ra những tỉnh, thành phố phát triển vượt lên.
B́nh Dương, Khánh Hoà, Bắc Ninh, Vĩnh phúc, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải pḥng… trở thành những trung tâm kinh tế trọng điểm nhưng bóng ma của tội ác và bi kịch cũng d́m các quan chức hàng đầu vào ṿng lao lư của chế độ mà họ suốt đời tự hào là những kẻ trung thành tuyệt đối.
Nguyên nhân nào đă đẩy 100% các quan chức hàng đầu của các địa phương đi đến bi kịch này?
Sự trung thành tuyệt đối được thể hiện rất rơ, rất cụ thể với chế độ kể từ khi họ chập chững bước chân vào môi trường quyền lực.
Và trong môi trường quyền lực họ đă không trưởng thành như những ǵ họ đă tuyên thề, không những thế đă biến họ thành những kẻ cặn bạ.
Có phải môi trường quyền lực chứa đựng đầy những thứ rác rưởi của sự dối trá, đạo đức giả đă d́u dắt họ đến bi kịch từ chính những đồng chí của ḿnh - Địa vị càng cao, càng dối trá, đạo đức giả - dối trá đạo đức giả là b́nh phong để thực hiện những tham vọng quyền lực, bịp bợm mục đích cuối cùng cũng chỉ thu vén cho cá nhân.
Trong một nhà nước chuyên quyền, khi cấp trên giao quyền lực chính là giao tiền, giao tài sản, đất đai của quốc gia cho anh và người kiểm soát anh cũng là những đồng chí trao cho anh quyền lực.
Những đồng chí này đă tin tưởng anh, lựa chọn anh theo những quy tŕnh rất bài bản, chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ; tiến hành nghiêm túc, thận trọng; làm đến đâu chắc đến đó, tại sao xác suất lọt lưới đến 100% như thế.
Họ giao tiền, giao tài sản, đất đai cho anh nhưng họ kiểm soát anh bằng một thứ luật pháp do họ kiểm soát nốt.
Thứ luật pháp chỉ duy nhất họ có quyền được ban bố, điều chỉnh, sửa đổi - nó lỏng lẻo như một thứ cạm bẫy đánh vào ḷng tham của các anh để các anh phải gặm vào. Bi kịch của các anh chính là thấy nó ngon quá, tin tưởng vào tổ chức, t́nh đồng chí cao cả.
Các anh chỉ thấy nó lỏng lẻo là cơ hội, không hề nghĩ nó là cạm bẫy.
T́nh đồng chí cao cả không thể để có chuyện các anh ăn ngập mồm, ngập miệng, ngang nhiên xây dựng biệt phủ, ăn chơi lộng hành như thế, rồi mới thịt.
Không thể để đồng chí của ḿnh tự diễn biến, tự chuyển hoá thành thứ cặn bạ rồi vứt vào ḷ thiêu đốt - Đây có phải là đạo đức, và nhân văn?
Các anh tin tưởng vào cái ǵ mà dám ngang nhiên xây biệt phủ, ăn chơi xa đọa, do pháp luật lỏng lẻo? Điều này hoàn toàn không đúng, có anh nào thoát được đâu mà bảo là lỏng lẻo.
Cái các anh tin là sự có đi có lại, nó được gắn chặt bởi những thứ nghĩa vụ vật chất với cấp trên, lănh đạo, không phải thứ t́nh đồng chí cao cả v́ nước v́ dân như tuyên thệ.
Đạo đức giả, dối trá chính là những kẻ ném đá giấu tay, là lá mặt lá trái với nhau, đó chính là thứ bi kịch của một tổ chức có quyền lực tuyệt đối rồi giả hiệu vẽ lên một thiên đường không tưởng, tự hể hả chia trác quyền lợi với nhau bằng một thứ chủ thuyết đầy tính mơ hồ ràng buộc nhau, và khi ḷng tham không thể kiềm soát sẽ đến dùng mọi thủ đoạn cắn xé nhau.
Người ta nói “phải nhốt quyền lực trong cái lồng” nói thế để tỏ ra có lư luận, thực chất ḷng tham là thứ cần được kiểm soát, khi ḷng tham không bị kiểm soát vẫn ngang nhiên tồn tại, th́ đấy chính là sự tha hoá quyền lực. V́ thế mới có câu “quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hoá tuyệt đối”
Sự tha hoá tuyệt đối chính là dối trá, đạo đức giả, nó đang thể hiện một cách công khai bằng những bài thuyết giáo dài dằng dặc, đọc ê a khiến người ta phải tởm lợm.
Dối trá đạo đức giả với chính đồng chí của ḿnh.

Gibbs 03-13-2024 01:43

Salami là một loại xúc xích làm bằng thịt ḅ hay heo được cắt thành những lát mỏng để ăn. Khi dùng trong chính trị học, “Chiến Thuật Xúc Xích” (Salami Tactics) là một chiến thuật nhằm chẻ mỏng đối phương để dễ bề lần lượt tiêu diệt toàn bộ.
Chiến thuật này được các đảng Cộng sản (CS) áp dụng trong các giai đoạn tranh chấp chính trị tại Ba Lan và Hungary sau Thế Chiến Thứ Hai, trong đó các đảng CS Đông Âu dưới sự ủng hộ tích cực của Liên Xô đă từng bước loại các thành phần không CS ra khỏi guồng máy lănh đạo quốc gia.
Thuật ngữ chính trị “Chiến Thuật Xúc Xích” (Salami Tactics) đầu tiên được lănh tụ CS Hungary Mátyás Rákosi dùng để mô tả cách ông ta loại bỏ các thành phần không CS cuối thập niên 1940.
Tuy nhiên, Rákosi không phải là người đầu tiên áp dụng “Chiến Thuật Xúc Xích” mà trước đó, Hitler đă áp dụng tại Châu Âu để từng bước chiếm đoạt những vùng chiến lược và quốc gia đầu cầu quan trọng trước khi phát động Thế Chiến Thứ Hai.
Đặng Tiểu B́nh và các lănh tụ Trung Cộng tránh đương đầu trực tiếp với các cường quốc, nhất là Mỹ, nên đă áp dụng "Chiến Thuật Xúc Xích" để từng bước gặm nhắm hết Biển Đông của Việt Nam bằng các phương pháp dă man, hèn hạ và bẩn thỉu.
Gạc Ma, Vành Khăn, Chữ Thập, Tư Chính chỉ là một điểm nhỏ khác trong tiến tŕnh thực hiện chính sách bành trướng của Tập Cận B́nh trên toàn bộ Biển Đông.
Tiến tŕnh bành trướng của Trung Cộng trên lănh thổ Việt Nam từ các vùng phía Bắc như Nam Quan, Bản Giốc, Lăo Sơn đến Biển Đông được đáp ứng bằng một chuỗi dài im lặng của đảng CSVN và các lănh đạo thế giới.
Lịch sử nhân loại chứng minh, ch́m trong đáy hồ sâu im lặng của các lănh đạo các nước tự do là máu của hàng trăm triệu người vô tội, trong đó có nhiều triệu người Việt cả hai miền Nam Bắc.
Đọc lại bài học của Hitler để nhận ra bản chất của Tập Cận B́nh.
Sách vở về Thế Chiến Thứ Hai c̣n đang nằm trên giá sách của Barnes & Noble.
- Tháng 3-1935, Hitler vi phạm hiệp ước Versailles khi đơn phương xóa bỏ “status quo” (t́nh trạng hiện hữu) của vùng kỹ nghệ Saar Basin đang trực thuộc quyền cai quản của Anh Pháp và sáp nhập lănh thổ này vào Đức. Anh Pháp coi như không biết.
- Tháng 3-1936, Hitler đưa quân chiếm đóng khu phi quân sự Rhineland. Anh và Pháp có quyền được quy định trong hiệp ước Versailles để giải giới hay đánh bật quân Hitler ra khỏi vùng Rhineland. Anh Pháp ngồi yên.
- Tháng 3-1938, bằng những xúi giục chính trị từ bên trong Áo và áp lực quân sự bên ngoài biên giới Áo, Hitler đă hoàn thành dự tính chiếm Áo mà y đă viết trong Mein Kampf 1925 không tốn một viên đạn. Anh Pháp làm ngơ.
- Tháng 9-1938, Hitler công khai bày tỏ ư định sáp nhập vùng Sudetenland có đông dân Đức, có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn của Tiệp Khắc và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc. Anh Pháp nhân nhượng.
- Tháng 3-1939 lợi dụng sự suy yếu trầm trọng của chính phủ Tiệp và đất nước này bị các nước Ba Lan, Hung xâm lấn, Hitler xua quân chiếm toàn bộ nước Cộng Ḥa Tiệp Khắc vốn là một cường quốc của châu Âu. Anh Pháp buông xuôi.
Nếu bất cứ vi phạm nào trong các vi phạm vừa nêu trên của Hitler, hai liên minh Anh-Pháp và Pháp-Tiệp phản ứng một cách quyết liệt, hàng trăm triệu người đă không chết.
Nhưng Pháp đă không giữ cam kết với người bạn lâu năm Tiệp Khắc (Treaty of Alliance 1924 giữa Pháp và Tiệp có giá trị không giới hạn thời gian) và Anh lẫn Pháp đều làm ngơ khi Hitler ráo riết tái vũ trang.
Giả thiết tham vọng của Hitler không điên cuồng mà có giới hạn và biết dừng chân sau mỗi lần chinh phục. Thay v́ tấn công Ba Lan để đẩy thế giới vào ḷ lửa Thế Chiến Thứ Hai vào đầu tháng 9-1939, Hitler sau khi thu lại cả vốn lẫn lời về lănh thổ Đức bị tước đoạt trong hiệp ước Versailles, chọn dừng lại mười năm để củng cố đế quốc Đức mới mênh mông, xóa bỏ mọi tàn tích văn hóa lịch sử của các dân tộc bị chiếm, tăng cường kỹ nghệ quốc pḥng và kỹ thuật chiến tranh th́ khuôn mặt thế giới sẽ ra sao vào mười năm sau, tức năm 1949?
Thế Chiến Thứ Hai vẫn có thể bùng nổ mười năm sau đó nhưng đồng minh sẽ không chỉ cần sáu năm để chiếm Berlin, mà có thể rất lâu và nhân loại không chỉ chết 85 triệu hay 3% trong tổng số 2,3 tỉ người, mà có thể vài trăm triệu mới đánh bại được Đế Quốc Đức.
Nhân loại đang đối phó với một Hitler khác, lần này ở Á châu và có tên là Tập Cận B́nh.
Adolf Hitler và Tập Cận B́nh có những điểm giống nhau về tham vọng lănh thổ, độc quyền toàn trị, dă man, tôn thờ cá nhân, tuyên truyền và khủng bố.
Điểm khác duy nhất giữa Hitler và các lănh tụ CS Trung Quốc là cách áp dụng chính sách bành trướng.
Thay v́ chiếm toàn bộ Trường Sa như Hitler đă làm đối với Áo và Tiệp, Trung Cộng gặm nhấm từng phần của quần đảo giàu tài nguyên thiên nhiên này cho đến hết.
Thay v́ quốc hữu hóa toàn bộ Biển Đông một cách nhanh chóng như Hitler đă làm đối với hai khu kỹ nghệ Saar Basin và Rhineland, Tập Cận B́nh vẫn để cho tàu bè các nước qua lại nhưng cùng lúc quân sự hóa từng khu vực qua việc xây dựng ít nhất bảy đảo nhân tạo trên Biển Đông.
Tâp Cận B́nh tin rằng, đến một thời điểm thuận tiện, hải quân Trung Cộng đóng cửa và Biển Đông sẽ là một Venice của Trung Cộng.
Câu hỏi được đặt ra, Trường Sa của Việt Nam là chặng dừng chân nào trong bản đồ chinh phục đầy tham vọng của Tập? Là Saar Basin? Là Rhineland? Là Áo? Là Sudetenland? Là Tiệp Khắc? Là Ba Lan?
Biết chặng đường nào rất cần thiết v́ qua đó đo lường phản ứng của quốc tế. Có chặng họ sẽ làm ngơ. Có chặng họ sẽ nhượng bộ. Có chặng họ sẽ buông xuôi và có chặng buộc quốc tế phải can thiệp vơ trang.
Tranh chấp quốc tế cũng đơn giản như nấu một nồi nước. Những mâu thuẫn giữa Mỹ và đồng minh của Mỹ với Trung Cộng vẫn c̣n trong giai đoạn đầu và c̣n lâu để nồi nước Biển Đông sôi sục.
Trong giai đoạn từ năm 1933 đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ, liên minh Anh, Pháp, Tiệp cũng nhiều lần biểu dương lực lượng qua các cuộc điều binh và tăng cường pḥng thủ. Tuy nhiên, những hành động đó chỉ để hỗ trợ cho đàm phán chứ không phải để tấn công. Hitler biết rơ điều đó và tiếp tục chính sách bành trướng bằng quân sự.
Lịch sử đang tái diễn. Những căng thẳng ở Biển Đông sẽ ngày càng tăng cường độ nhưng c̣n lâu mũi tên mới rời khỏi dây cung của Mỹ.
Số phận Trường Sa của Việt Nam hôm nay, v́ thế, có thể sẽ giống như các lănh thổ, các quốc gia bị Hitler và Stalin chiếm đoạt trước tháng 9-1939.
Học các bài học thế giới để thấy, cuối cùng, sẽ không ai cứu Việt Nam ngoài chính người Việt Nam.

Gibbs 03-13-2024 15:41

PHẦN 19
VĂN HOÁ QUAN TRƯỜNG.
Văn hoá quyết định số phận dân tộc.
Chế độ nào văn hoá ấy.
Trong chế độ chuyên quyền, chuyên chế dù là một kẻ độc tài nắm quyền lực, hay nhóm người nắm quyền lực thông qua một tổ chức đều xây dựng hệ thống quyền lực do các quan lại đại diện cho từng ngành, địa phương quản lư và quyết định các hoạt động của xă hội, từ đó văn hoá quan trường sẽ điều khiển dẫn dắt văn hoá quốc gia, dân tộc.
Các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ giai cấp chuyên chế, (các nhà nước phong kiến) xây dựng nhà nước dân chủ, văn hoá trở về với nhân dân, nhân dân ở đây bao gồm cả các hoàng gia.
Các hoàng gia bị tước bỏ quyền lực nhưng để kế thừa văn hoá truyền thống, họ vẫn để các hoàng gia tồn tại đại diện với tính chất nghi lễ quốc gia- Hoàng gia không c̣n quyền lực nhưng văn hoá hoàng gia vẫn được coi là văn hoá tinh hoa để người dân lấy đấy là tấm gương - Nhà nước Quân chủ Lập hiến h́nh thành.
Đại diện cho các gia “Quân chủ lập hiến” có thể kể đến nước Anh, Nhật Bản, Bắc Âu… nơi chế độ phong kiến đă tồn tại hàng ngh́n năm.
Ở Mỹ lại theo một hướng khác.
Nước Mỹ trước năm 1492 khi Cristoforo Colombo chưa khám phá ra mảnh đất của những bộ tộc bản địa sinh sống, văn hoá c̣n rất sơ khai, chưa h́nh thành nhà nước nên văn hoá quan trường vẫn chưa h́nh thành.
Các quốc gia phong kiến ở châu Âu đến Mỹ và biến nước Mỹ thành thuộc địa.
Nước Anh có vẻ nhanh chân hơn nước Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan…
Vào thập niên 1770, Mười ba thuộc địa Anh thuộc có đến 2 triệu rưỡi người sinh sống.
Các thuộc địa này thịnh vượng và phát triển nhanh chóng, phát triển các hệ thống pháp lư và chính trị tự chủ của chính ḿnh.
Nghị viện Anh Quốc áp đặt quyền lực của ḿnh đối với các thuộc địa này bằng cách đặt ra các thứ thuế mới mà người Mỹ cho rằng là vi hiến bởi v́ họ không có đại diện của ḿnh trong nghị viện.
Các cuộc xung đột ngày càng nhiều đă biến thành cuộc chiến tranh toàn lực, bắt đầu vào tháng 4 năm 1775. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, các thuộc địa tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh bằng một văn kiện do Thomas Jefferson viết ra và trở thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Cho nên nhà nước Hoa Kỳ không thể h́nh thành theo h́nh thức “quân chủ lập hiến”.
Một nước Mỹ hợp chủng quốc bao gồm người bản địa, người nhập cư từ các quốc gia đến Mỹ khai thác thuộc địa h́nh thành.
Văn hoá Mỹ được h́nh thành từ Tôn giáo quốc dân, không bị dẫn dắt bởi thứ văn hoá tinh hoa truyền thống của các chế độ quân chủ từ ngh́n năm như ở các gia Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản…
Cách mạng Mỹ là nguồn động lực chính của tôn giáo quốc dân Mỹ không chia giáo phái mà đă tạo h́nh cho chủ nghĩa yêu nước, kư ức và ư nghĩa ngày sinh của quốc gia kể từ đó.
Các trận chiến không phải là trọng tâm nhưng đúng hơn là các sự kiện và con người đă được chào mừng như những biểu tượng của một số đức tin nào đó.
Các sử gia đă ghi nhận, cuộc cách mạng Mỹ đă sản sinh ra một lănh tụ được ví như là Moses (George Washington), các nhà tiên tri (Thomas Jefferson, Tom Paine) và các thánh tử đạo (Boston Massacre, Nathan Hale) cũng như những ác quỷ (Benedict Arnold), những nơi thiêng liêng (Valley Forge, Bunker Hill), giáo lư (Tiệc trà Boston), biểu trưng (lá cờ mới), ngày lễ thiêng liêng (4 tháng 7) và một cuốn kinh thánh mà mỗi câu được nghiên cứu và áp dụng cẩn thận vào các trường hợp pháp lư hiện thời (bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp và Đạo luật Nhân quyền).
Nước Mỹ vĩ đại v́ văn hoá Mỹ không bị ảnh hưởng của văn hoá quan trường, linh hồn dẫn dắt văn hoá Mỹ chính là tôn giáo sự cống hiến… với một hiến pháp được lấy từ lời thề trong kinh thánh được soạn ra.
Sự sụp đổ của các nhà nước chuyên chế là quy luật tất yếu sau các cuộc cách mạng:
Trong khi các cuộc cách mạng ở phương Tây được dẫn dắt và lănh đạo bởi giới tư sản những người đại diện cho một h́nh thức “Quan hệ xă hội” mới tiên tiến, nhưng cũng đồng thời là người cầm “lực lượng sản xuất” thành lập, nên các nhà nước dân chủ với hệ thống “tam quyền phân lực” quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thông qua lá phiếu.
Văn hoá của các gia này vẫn được giữ nguyên như truyền thống khi các tôn giáo, và hoàng gia vẫn được hiến pháp bảo vệ theo nguyên trạng.
Các quan lại với tư cách là các quan chức trong chính phủ đúng nghĩa với tư cách là “đầy tớ nhân dân” sống với văn hoá của nhân dân, nên văn hoá quan trường đă bị loại trong ngôn ngữ xă hội, không c̣n tồn tại nữa.
Phần c̣n lại, các cuộc cách mạng đánh đổ thành tŕ của nhà nước phong kiến được lănh đạo bởi giai cấp vô sản - Những kẻ đại diện cho tầng lớp dưới trắng tay, với lực lượng sản xuất bằng con số không, trang bị bằng một học thuyết cách mạng lấy bạo lực giải quyết tất cả các quan hệ xă hội, tiêu diệt sạch các giá trị về tôn giáo, văn hoá có liên quan đến chế độ cũ, cướp đoạt, chiếm đoạt tài sản của của các địa chủ, nhà tư sản…
Họ xoá sạch để xây dựng nhà nước công nông với một h́nh thái nhà nước mới, quyền lực nhà nước rơi vào tay một chính đảng duy nhất độc tôn lănh đạo.
Và cũng từ đây họ xây dựng một nền văn hoá mới phục vụ cho chế độ.
Một chính đảng dẫn dắt th́ “văn hoá đảng” sẽ trở thành chính thống, và đảng viên cầm quyền theo văn hoá đảng sẽ tạo ra một thứ văn hoá quan trường mang tính đảng dẫn dắt dân tộc. Và thuật ngữ “Văn hoá quan trường” với đầy đủ tính chất của nó ra đời từ các quốc gia này.
Bản chất và tính chất nguy hiểm của văn hoá quan trường ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia như thế nào xin đọc tiếp ở các phần sau.
(C̣n tiếp).

Gibbs 03-14-2024 09:23

PHẦN 20
VĂN HOÁ QUAN TRƯỜNG.
Các chức sắc trong chính quyền do người dân lựa chọn có hai nguyên tắc để anh tồn tại.
Nếu anh làm việc không đúng những ǵ đă hứa, người dân đă nâng anh lên, th́ cũng hạ được anh xuống.
Và cách c̣n lại tự anh được quyết định đó là từ chức.
Cho nên “văn hoá từ chức” là thứ văn hoá được đề cao nhất của những người trong chốn quan trường.
Văn hoá từ chức trở thành một nếp sống b́nh thường ở các nước dân chủ, anh là một quan chức nhưng cũng là một con người, sai phải biết xin lỗi, không làm được việc phải tự rút lui, để cho người dân kéo cổ xuống dĩ nhiên là một điều xỉ nhục.
C̣n những quốc gia chuyên quyền văn hoá từ chức trở thành điều xa xỉ, từ chức bị cho là thất bại, và thất bại trong chốn quan trường được coi là sự nhục nhă- là nguyên nhân cho họ cố sống cố chết bám ghế quyền lực.
Và thứ văn hoá “ngồi thối ghế” trở thành thứ đặc sản của những quốc gia này. Chức vụ càng cao càng tham quyền cố vị.
Ở Liên Xô tuổi các Uỷ Viên Bộ chính trị có tuổi trung b́nh trên 70 vào thời kỳ Leonid Brezhnev làm Tổng bí thư (1964) sau khi đưa điều 25 vào điều lệ đảng “Trong việc bầu cử tất cả các cơ sở đảng, từ tổ chức đảng sơ cấp đến Ban Chấp hành Trung ương phải tuân thủ nguyên tắc thay thế nhân sự một một cách có hệ thống và tính liên tục của vai tṛ lănh đạo” .
Điều 25 vẫn không thay đổi dưới sự lănh đạo kế tiếp của của các tổng bí thư Yury Andropov, Konstantin Chernenko và hai ông này vẫn nắm quyền cho đến khi chết.
Mỗi lần họp Bộ chính trị không khác ǵ một bệnh viện. Xung quanh pḥng họp là các pḥng cấp cứu, pḥng hồi sức với các máy móc thiết bị y tế cùng một đám bác sĩ, nhân viên y tế túc trực.
Sự tham quyền cố vị này là một trong những nguyên nhân để Liên Xô rơi vào tŕ trệ dẫn đến sự sụp đổ.
Căn bệnh tham quyền cố vị trở thành một đặc trưng của các chế độ cộng sản cầm quyền, Mao Trạch Đông, Phidel Castro, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành… đều giữ các chức vụ cao nhất trong đảng, nhà nước đến khi qua đời.
Văn hoá tham quyền cố vị từ những lănh đạo cao nhất trở thành tấm gương học tập cho các cán bộ Đảng viên cấp dưới, không ai dạy bảo được ai, cấp trên không thể kỷ luật được cấp dưới.
Hỏi tại sao phải cố bám ghế quyền lực, v́ ngoài chiếc ghế quan trường, chủ nghĩa cộng sản không có động lực nào tạo ra cho con người có thể giàu có, thịnh vượng.
Quyền lực đi đôi với quyền lợi chính trị, quyền lợi vật chất.
Có quyền lực là có quyền phân chia, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sở hữu.
Muốn bước chân vào hệ thống quyền lực trước tiên phải trở thành một đảng viên.
Là đảng viên phải phục tùng tổ chức, phục vụ lănh đạo.
Một đảng cầm quyền lực trong tay và duy nhất lănh đạo văn hoá quan trường sẽ trở thành thứ văn hoá quyền lực.
Văn hoá quyền lực là văn hoá ứng xử của cấp trên với cấp dưới đó là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá mệnh lệnh, văn hoá ban ơn, văn hoá xu nịnh, văn hoá lá mặt lá trái… phát triển.
Ông bí thư, ông chủ tịch thích cầu lông, hay bóng bàn, bóng chuyền… các quan chức trong cả tỉnh cùng a dua chơi cầu lông, bóng bàn… tỉnh nghèo dân đói vẫn bỏ tiền xây nhà thi đấu cho các quan chức tránh nắng, tránh mưa ra sân để đàn đúm thể hiện sự đoàn kết nhất trí, trung thành… anh nào ốm cũng phải vác mặt đến.
Văn hoá xu nịnh trở thành đặc trưng, thuộc tính - bằng cấp ǵ cũng không ăn thua nếu thiếu cái “bằng ḷng” trở thành văn hoá sống trong bộ máy quan trường.
Khổ nhất là sếp thích uống rượu, theo hầu sếp uống rượu thâu đêm suốt sáng, cho chó ăn chè, nuốt không trôi vẫn cố mà nuốt.
Đàn em học theo sếp nhà b́nh to, b́nh nhỏ, con ǵ, cây ǵ quư trên rừng dưới bể ngâm hết, uống tuốt, khoe nhau, tặng nhau, biếu nhau … thể hiện quyền lực, sành điệu…
Không những trở thành lũ nát rượu, quan lớn quan bé trở thành những tấm gương, tiếp tay cho việc tuyệt chủng động vật hoang dă quư hiếm… và cuối cùng đưa nhau xuống hố càng nhanh của bệnh tật.
Trong chốn quan trường không có xu nịnh suông, nó đội lốt văn hoá truyền thống che mắt thiên hạ để đút lót, hối lộ.
Ma chay, đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, khánh thành… thậm chí ŕnh sếp có cái ǵ mới đàn em đệ tử có cớ để mừng, để chia sẻ nỗi buồn với sếp bằng phong bao, quà tặng.
Nhà sếp có việc, đệ tử, đối tác ṿng trong ṿng ngoài xếp hàng ngóng chờ nhau để được gặp mặt sếp… mâm trên, mâm dưới đầy tiếng xu nịnh, tâng bốc lẫn nhau nhân danh đạo lư, đạo đức, văn hoá truyền thống để tụ tập biểu dương lực lượng, khoe giàu, khoe sang, khoe thành đạt, khoe quyền lực, hợm hĩnh với thiên hạ.
“Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh.
Rụng rời khủng cửa, tan tành khói mây.
Đồ tế nhuyễn của Giang Tây.
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham..”
Nguyễn Du phán rằng, 300 năm nữa người đời sẽ nhớ đến ông, quả là một tiên tri thiên tài, lịch sử của một thời “đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi” đă quay trở lại.
(C̣n tiếp)


All times are GMT. The time now is 10:19.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.16460 seconds with 9 queries